The man who does not read good books has no advantage over the man who can't read them.

Mark Twain, attributed

 
 
 
 
 
Tác giả: Walter R. Brooks
Thể loại: Tuổi Học Trò
Nguyên tác: Freddy The Pig
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 13
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1184 / 12
Cập nhật: 2017-07-24 16:15:00 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2 - Những Con Chuột Cống Coi Thường Luật Pháp
iệc đầu tiên phải làm,” Freddy nói, “là Thăm Hiện trường Tội ác.”
Những con vật nhỏ hơn vẫn luôn giúp bà Bean làm công chuyện nhà, và chúng ra ra vào vào nhà suốt cả ngày, thế nên khi Jinx và Freddy bước qua cửa nhà bếp và đi lên những bậc cầu thang, bà Bean chỉ ngước mắt lên khỏi đống quả đậu mà hai con thỏ đang giúp bà lột vỏ mà nói: “Cẩn thận cái cầu thang đấy, mấy đứa bay. Dốc lắm đấy. Ta không muốn tụi bay bị thương đâu.”
Phòng của bọn trẻ con là phòng ngủ phía trước, ngó xuống cái hàng hiên, kế ngay phòng ông bà Bean. Jinx dợm băng ngang qua sàn nhưng Freddy ngăn lại. Chú nói, “Làm ơn đừng làm xáo trộn bất kỳ cái gì cho đến khi tôi hoàn tất cuộc điều tra.”
“Ồ, tôi có xáo trộn cái gì đâu. Cậu làm sao vậy?” con mèo hỏi.
“Anh đang làm xáo trộn manh mối,” con heo bực mình đáp. “Mọi tội ác đều có manh mối, và nếu anh bám theo manh mối, anh sẽ tìm ra được tên tội phạm.”
“Nếu biết được manh mối là cái gì thì tôi mới hiểu cậu đang nói gì,” Jinx bảo.
Nhưng Freddy không trả lời. Chú đang làm hết sức mình trong vai trò một thám tử. Chú bước cẩn thận khắp sàn nhà, rồi khám nghiệm cái giường cùng bệ cửa sổ, và cuối cùng lấy từ giỏ đồ thêu thùa của Ella ra một cái thước dây, đo chiều cao bệ cửa và khoảng cách từ giường tới cửa sổ cùng ti tỉ thứ khác. Jinx ngồi xuống bên cửa ra vào và quan sát, cố gắng một cách khó nhọc để ra dáng bề trên và mỉa mai. Nhưng thật khó để trông cho có dáng bề trên và mỉa mai khi chẳng có ai thèm để ý tới ta, thế nên sau một lúc nó bỏ cuộc và đi ngủ.
Một lúc sau, nó lại thức dậy. Freddy đang đứng nhìn ra ngoài cửa sổ, chìm trong suy nghĩ. “Sao,” Jinx nói, “có tìm ra cái... cậu gọi là cái gì nhỉ?... à, manh mối... có tìm ra cái nào không?”
“Tìm ra rồi,” Freddy nghiêm giọng nói. “Còn hơn thế nữa, tôi đã biết kẻ nào ăn cắp đoàn tàu.”
Con mèo nhảy bắn lên. “Quái, Freddy, thật chứ? Đứa nào thế?”
“Chút nữa tôi sẽ nói anh hay. Trước tiên để tôi hỏi anh vài câu đã. Tôi muốn hoàn tất vụ này. Nào, có phải cửa sổ này mở suốt đêm qua không?”
“Tôi cho là thế,” Jinx đáp. “Bọn trẻ vẫn ngủ mà để cửa sổ mở. Một thói quen hết sức thiếu lành mạnh, tôi thấy thế, nhưng...”
“Và cửa ra vào thì đóng, tôi cho là thế,” Freddy cắt ngang.
“Chắc chắn. Chốc chốc tôi lại lảo rảo quanh nhà cả đêm mà. Tôi biết nó đóng mà.”
“Đêm qua anh có nghe thấy tiếng động nào không?”
“Thực là một câu hỏi điên rồ,” con mèo nói. “Đêm nào mà chẳng nghe thấy tiếng động. Có những tiếng cứ thế vang cả đêm ấy chứ, như tiếng đồng hồ tích tắc hay ông Bean ngáy, xong rồi còn tiếng gió quần quanh căn nhà, tiếng đồ đạc cọt kẹt, và...”
“Không, không,” Freddy nôn nóng cắt ngang. “Ý tôi là những tiếng động bất thường kìa. Nghĩ cho cẩn thận vào nào.”
“Hừm,” Jinx nói vẻ trầm ngâm, “nào, để coi. Tôi có nghe thấy một thứ mà tôi không thường nghe. Có bốn con ruồi ngủ trên trần nhà bếp - à mà sáng nay tôi cũng có chộp một con đấy - chúng nó thức dậy và cãi nhau chuyện gì ấy trong đêm. Dĩ nhiên đó cũng không hẳn là thứ mà cậu gọi là tiếng động; đến tôi thậm chí nghe cũng khó nữa là. À rồi, đúng là có một thứ gì đó, hình như thế... Cái gì nhỉ? Tôi chỉ nhớ mang máng... Ồ, tôi biết rồi! Đó là hai cú thình thịch.”
“Thình thịch?”
“Ừ. Đâu đó ở bên ngoài.”
“Thình thịch kiểu gì?”
“Ồ, tôi không biết. Thình thịch thôi. Lúc đó tôi nghĩ có thể mấy con chồn đuôi sọc bên ngoài cánh rừng. Ban đêm chúng nó vẫn hay chơi mấy trò phá phách. Nhưng tôi buồn ngủ quá nên cũng không ra nhìn.”
“À,” Freddy nói, “tôi cũng nghĩ thế. Chà, không có chi tiết ấy thì vụ của tôi cũng hoàn tất rồi, nhưng mọi thứ lại gắn với nhau rất hay nhé. Một vụ điều tra rất tuyệt. Coi đây, Jinx. Tôi sẽ chỉ cho anh thấy tôi đã giải quyết vụ này thế nào. Đây là manh mối đầu tiên tôi khám phá ra. Chúng ta sẽ gọi đó là Tang vật A. Anh nghĩ sao?”
Trên lớp sơn trắng của bậu cửa sổ có vài vết xước, và nhiều vết trong đó có màu sơn xanh lá. Jinx nhìn vào những vết xước ấy, hít hít chúng, và nói: “À! Đúng vậy!” bởi vì nó chẳng thể nghĩ ra bất cứ điều gì khác để nói.
“Thế điều đó không có ý nghĩa gì với anh à?” Freddy hỏi.
“Có, có. Có nhiều chứ!” mèo Jinx vội vã đáp. “Sơn xanh. Rất có ý nghĩa.”
“Rất vui là anh hiểu kịp tôi,” Freddy nói. “Giờ đến Tang vật B.” Và chú kéo Jinx đến cái giường, chỉ cho con mèo thấy nửa tá sợi lông xám đậm rất ngắn, rất mảnh rải trên gối.
Jinx nhìn những sợi lông này, nhưng khi hít hà chúng, nó hít quá mạnh đến nỗi thổi tung hết xuống sàn.
“Ấy!” Freddy hét to. “Cẩn thận một tí có được không? Anh đang phá hủy bằng chứng đấy! Chúng ta cần chúng để giải quyết ca này đấy!”
“Ca gì? Sởi à?” con mèo nói giọng khinh khỉnh. “Này, nhìn đây Freddy; cậu tính trêu tôi hử, hay đơn giản chỉ vì cậu ngu ngốc? Cậu nói về mấy sợi lông xám già nua tí xíu đó và màu sơn xanh đó mà như thể tìm ra một bình kem không bằng. Nếu việc thám tử của cậu chỉ có thế, thì tôi biến. Tôi biết khối cách hay ho để mua vui hơn là...”
“Ồ, đợi một phút!” con heo kêu lên. “Trời, Jinx, tôi cứ tưởng anh hiểu điều đó nghĩa là gì chứ. Thế mà anh cứ nói là anh hiểu... Nhìn đây. Những toa tàu sơn màu xanh lá, đúng chưa? Chà, vậy màu sơn ấy nói lên điều gì hả? Nó có nghĩa là những toa tàu đã bị chà lên bậu cửa khi tên trộm tha chúng ra ngoài cửa sổ đêm qua, đúng không nào?”
“Hừm... Tôi hiểu cậu đang nhắm tới cái gì rồi,” Jinx nói.
“Xong,” Freddy tiếp tục. “Giờ anh nói tôi nghe, loại lông mà tôi đưa anh xem thuộc loại gì?”
“Mấy sợi lông đấy ấy hả? Tôi không biết. Thì là lông thôi.”
“Ồ, bỏ tí khôn ngoan ra nào. Có phải tóc của Ella hay của bà Bean không?”
“Không, dĩ nhiên là không rồi. Nhìn kiểu đó... sao nhỉ... tôi đồ rằng đó có thể là lông mèo.”
“Quanh đây có con mèo xám nào không?” Freddy hỏi.
“Hừm... Thế thì là bọn chuột nhắt,” Jinx nói. “Không,” nó thêm, “nếu chuột nhắt thì lông đó lại quá thô. Nhưng... chuột cống!” bất thình lình nó kêu lên. “Lạy Thánh George, đó là lông chuột cống, Freddy ơi! Khốn kiếp thật!”
Jinx quả thực vô cùng tức giận, vì sự hiện diện của một con chuột cống là đi ngược lại mọi luật lệ. Nhiều năm trước, lúc Jinx lần đầu bước chân đến trang trại đây, có một gia đình chuột cống sống ngay trong nhà, và vài con nữa sống trong khu chuồng trại. Khi Jinx yêu cầu chúng dời ra ngoài, cả bọn chỉ cười vào mặt nó, nhưng Jinx là một con mèo can đảm và kiên quyết, một chiến binh hung tợn, và sau nhiều trận đánh mà bọn chuột cống thua xiểng liểng, chúng đã tới gặp Jinx một đêm nọ dưới một lá cờ đình chiến, và đồng ý rằng nếu Jinx để chúng được yên, chúng sẽ kéo cả đám vào rừng sống mà không lẻn vào nhà hay vào khu chuồng trại nữa. Cho đến giờ chúng vẫn giữ đúng thỏa thuận đó.
“Không tin nổi,” Jinx nói. “Mấy sợi lông đó là lông chuột cống, đồng ý, nhưng chỉ có duy nhất một cách để một con chuột cống có thể chui vào nhé. Nó không thể trèo lên hàng hiên. Nó hẳn phải vào theo ngả cửa chính. Mà cửa chính thì đóng cả đêm. Tôi không tin có con chuột cống nào lại dám chui vào giữa ban ngày ban mặt rồi trốn trong nhà.”
“Nó chẳng cần phải làm thế,” Freddy nói. “Ngó dưới gầm giường coi Jinx.”
Con mèo chui xuống gầm giường và lúc sau chui ra, ngó mặt thất kinh chưa từng thấy. “Một lỗ chuột mới toanh!” nó kêu lên. “Đúng, không nghi ngờ gì nữa. Nhưng kéo được đoàn tàu ra ngoài cửa sổ thì chắc chắn phải rất kỳ công. Tôi cho rằng chúng đẩy đoàn tàu ra ngoài, rồi đưa ra theo ngả mái hiên nhà, xong lôi đoàn tàu theo gờ mái.”
“Và đó là những tiếng thình thịch anh nghe thấy đấy,” Freddy nói. “Nào giờ ra ngoài. Chúng không thể đưa đoàn tàu đi xa được đâu. Mỗi toa phải to bằng một con chuột cống, mà lại có bốn toa với một toa than, buộc hết lại với nhau. Chắc chúng phải lôi đoàn tàu đi, và chúng mình có lẽ sẽ tìm được chúng lôi đi đâu.”
Trong luống hoa to phía trước hiên nhà, sáu hay bảy con sóc gì đó đang làm việc chăm chỉ, kéo cỏ ra và lấy móng chân xới cỏ dại lên, rồi quét đất mịn bằng đuôi.
“Này Bill,” Freddy gọi con sóc to nhất, dường như là con đầu đàn, “đến đây một phút nào. Tôi muốn hỏi chú cái này.”
Bill phủi đất khỏi những vuốt chân, gầm gừ với những con sóc đang làm khác là “chăm chỉ lên nghe chưa, và không có chây ra lúc tao quay lưng đi đấy,” xong đi về phía con heo.
“Bill này, tôi cho rằng chú có nghe về việc đoàn tàu bị mất, đúng không?” Freddy hỏi.
“Không muốn nghe cũng không được ấy chứ, thưa ngài,” con sóc nói. “Ai cũng bàn tán về chuyện đó.”
“Thế này,” con heo nói, “chúng tôi có lý do để tin rằng kẻ trộm đã lấy đoàn tàu ra ngoài cửa sổ và đẩy nó ra mái hiên. Giờ, tôi thắc mắc, lúc các chú bắt đầu làm ở đây sáng nay, các chú có nhận thấy dấu vết nào cho biết vị trí đoàn tàu rơi trong luống hoa không?”
“Tôi có nhận thấy, thưa ngài,” đội trưởng sóc nói. “Chắc đúng là thế rồi, mặc dầu lúc đó tôi không nghĩ ra. Có một cái lá bị bong khỏi cây chuối hoa to, và có một vết lõm lớn trên nền đất, ngay chỗ...” Nó ngừng lại để hét lên giận dữ với một tên sóc làm công. “Này, Caspar! Đừng có nhổ cái ấy lên! Đó không phải là cỏ dại! Bộ không dạy được tụi bay sự khác nhau giữa cỏ gà và sen cạn sao? Não tụi bay không khá gì hơn một con sóc chuột!... Xin lỗi, ngài,” nó xin lỗi Freddy. “Đến một phút cũng không tin tưởng nổi bọn này. Chúng biết khác nhau ở đâu cả đấy, nhưng chúng cứ giả vờ tưởng sen cạn là cỏ gà để có thể nhổ lên rồi chén. Chúng thích vị sen cạn mà.”
“Phải rồi, phải rồi,” Freddy nói vội. “Nhưng chú đang nói...”
“Trời, trời, tôi đang nói gì ấy nhỉ?” con sóc gãi tai một cách suy tư. “Ồ, phải rồi... ngay phía bên trái, kia kìa, là chỗ đất lõm. Và tôi nhớ là có thấy cái chỗ mà từ đấy có vật gì ấy không biết đã bị kéo về hướng khu chuồng trại. Giờ không thấy gì được nữa rồi, vì sương trên cỏ đã khô cả, nhưng trước đó thì rõ rành rành. Thẳng xuống khu chuồng trại ấy, thưa ngài.”
Freddy cảm ơn con sóc, rồi cùng Jinx đi tới khu chuồng trại, để gặp Hank, con ngựa trắng già.
“À, Freddy,” Hank nói, “dạo này ít gặp gặp cậu ở đây quá. Nhưng tôi đồ là cậu đang bận bịu với mớ sách vở, đọc và làm thơ.”
“Ô, làm thơ thì được thôi,” Freddy nói, “nhưng tôi hiện có một thứ thực sự quan trọng để làm. Tôi là một thám tử.”
“Hay thế!” Hank nói một cách ngưỡng mộ. “Và cậu... è... chà... cậu đang thám thính chuyện gì hôm nay đấy?”
“Tôi đang theo dấu một băng trộm cắp,” con heo đáp. “Chúng ăn trộm đoàn tàu của Everett đêm qua, và tôi tin là chúng đã mang đoàn tàu xuống đây. Ít nhất thì chúng cũng đã vác đoàn tàu xuống gần đây, và tôi thắc mắc không biết bác có nghe thấy hay nhìn thấy bất kỳ cái gì không.”
Hank nhai nhai đầy suy nghĩ một miệng đầy cỏ khô. “Không,” con ngựa đáp. “Tôi không nhớ ra được gì cả. Nhưng ai ăn cắp đoàn tàu?”
Freddy nói rằng chúng có lý do để tin rằng đó là bọn chuột cống.
“Chuột cống trong nhà này!” Hank kêu lên. “Sao, thế thì tệ cho cậu quá đấy, Jinx. Ông Bean mà biết được thì ông ấy sẽ nói sao?”
“Tôi đoán là tệ cho tôi rồi!” con mèo nói. “Mà mấy con chuột cống cũng khốn kiếp cơ! Tôi chưa từng thấy con nào biết giữ lời! Giờ tôi sẽ phải bắt đầu lại từ đầu một lần nữa.”
Hank trầm ngâm nói, “Giờ cậu nói vậy thì tôi mới nhớ, gần đây tôi có nghe nhiều tiếng động kỳ quái. Có những tiếng cọt kẹt, rọt rẹt nho nhỏ dưới sàn. Lúc đó tôi không nghĩ đấy là chuột cống, vì bọn nó đã hứa là không vào đây mà, nhưng giờ thì tôi không chắc. Có thể chúng đã quay về hang ổ cũ, chỗ chúng vẫn sống trước khi cậu về đây.”
Mẩu tin này càng làm Jinx cáu, bởi trước đây bọn chuột cống vẫn có một cơ ngơi to lớn dưới khu chuồng trại, một mê lộ những đường hầm và lối đi cùng những hang ổ dưới đất. Đang ngồi trên máng ngựa, Jinx nhảy xuống, đi ra ngoài, có Freddy theo sau. “Lối đi chính của chúng nó xưa là dưới lớp nền phía sau chuồng,” Jinx nói. “Tụi mình sẽ xem có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy cái lối ấy lại mới được sử dụng gần đây không.”
Nhưng ngay khi hai đứa vừa bước ra ngoài cửa, một cái bóng xám vụt ngang qua khoảng không và lủi luôn vào một bụi cỏ dại mọc kề ngay bức tường khu chuồng trại.
Jinx phóng theo cái bóng. “ Ê, tên kia!” nó thét lên giận dữ. “Ra khỏi đó ngay!” Nhưng con chuột cống đã chúi xuống một cái lỗ và biến mất.
Jinx quay sang Freddy, giận run lên. “Chịu nổi không chứ?” nó hỏi. “Đúng là chúng nó ở đây. Đó là thằng cha Simon. Lão là thủ lĩnh của bọn chúng trong những trận chiến với tôi hồi ấy. Lão già láu cá khốn kiếp! Tôi đang tự hỏi chúng nó tính làm gì đây. Chúng nó sẽ chẳng đời nào dám quay lại nếu trong đầu không có một âm mưu ra trò.”
“Nói chuyện với chúng đã,” Freddy đề xuất. “Gửi một chú chuột nhắt xuống với một lá cờ đình chiến. Biết đâu chúng ta có thể tìm ra được cái gì thì sao.”
Vậy là Eeny, một trong những con chuột nhắt sống trong khu chuồng trại, được cử xuống với một lá cờ đình chiến, và ngay sau đó, lão Simon cùng hai thằng con trai, Zeke và Ezra, nhô lên.
“Chào, Jinx,” Simon nói với một nụ cười nịnh nọt. “Kể từ hồi được hân hạnh gặp cậu tới giờ cũng lâu quá rồi. Cậu trông khỏe nhỉ, với mèo thế là đặc biệt khỏe đấy. Mặc dầu trông có hơi lo lắng. Cậu có điều gì bận tâm sao?”
“Thôi dẹp mấy lời nịnh bợ đi!” Jinx nói thô bạo. “Nhìn đây, Simon; mưu đồ gì đây? Tao muốn biết chúng mày đang làm trò gì trong cái chuồng trại này?”
Simon ngó bộ ngạc nhiên. “Sao, Jinx... Đây là nhà cũ của tụi này, là dinh thự cũ của gia đình tụi này mà. Sao tụi này lại không được ở đây chớ?”
“Mày biến báo giỏi lắm,” Jinx giận dữ nói. “Mày đã thỏa thuận hai năm về trước...”
“Ồ vâng, cái thỏa thuận ấy.” Simon mơ hồ vẫy vẫy một bàn chân. “Cậu không thực sự coi chuyện đó là nghiêm túc đấy chớ? Thời ấy thì có vẻ như đó là giải pháp tốt nhất để giải quyết hiểu lầm nho nhỏ giữa chúng ta. Nhưng dĩ nhiên đây là nhà của tụi này; sao cậu lại cho rằng tụi này phải sống đến muôn đời trong cánh rừng ẩm ướt mốc meo kia chớ. Ai lại thế, đúng không nào?”
“Chúng mày dĩ nhiên sẽ không sống được đến muôn đời nếu cứ quay lại cái chuồng trại này,” Jinx nói khô khốc.
“Hà hà!” Simon cười to; hai thằng con lão cũng cười to. “Hà hà hà!” và đưa chân lên vuốt ria. “Cậu cứ đùa, Jinx à... Nhưng thôi, nghiêm túc nhé. Dường như đối với tụi này, mọi con vật đều có quyền được sống nơi chúng muốn sống. Chúng ta nói điều đó khắp nơi nơi. Tất cả các cậu - những con vật khác: bò và heo và chó và ngựa - các cậu đều có nhà ấm áp tiện nghi để sống. Vậy sao bọn chuột cống tớ lại phải làm cái giống duy nhất sống trong những cái hang kém vệ sinh, tăm tối dưới mặt đất?”
“Vì chúng mày là lũ trộm cắp, đó là lý do!” Jinx kêu lên. “Đáng ra tao chẳng phản đối gì việc chúng mày sống trong chuồng trại này, cả ông Bean cũng không, nhưng chúng mày ăn cắp ngũ cốc và động tới cái gì là chôm cái đó, rồi chúng mày gặm lỗ khắp nơi, phá hoại tài sản. Đó là lý do đấy.”
Con chuột xám già xòe chân ra, “Nhưng chúng tôi phải sống chứ! Ngay cả những con chuột cống thấp hèn cũng phải sống chứ.”
Jinx cười một tiếng ác nghiệt. “Ồ, không, chúng mày không sống nổi đâu,” nó nói. “Chừng nào tao còn vuốt còn răng. Chà,” nó nói thêm, “tao thấy mày coi bộ đã quyết định rồi, tức là chiến tranh lần nữa hả?”
Nhưng Simon không có vẻ gì là bị dao động.
“Chiến tranh gì chớ?” lão nói. “Sao lại chiến tranh? Sẽ chẳng có chiến tranh nào đâu. Chúng tôi không hề muốn đánh nhau với cậu để được sống trong chuồng ngựa đâu Jinx à.” Lão nhe răng cười ranh ma. “Cậu có thể nghĩ là chúng tôi sẽ đánh nhau, nhưng chúng tôi không làm thế. Mọi thứ đổi thay rồi, Jinx à.”
“Thế sao?” con mèo nói. “Chà, tao không biết mày định gì, nhưng nhớ lời tao đây, chuyện đó không kéo dài được đâu. Tao cảnh cáo mày... Lần sau mà tao còn thấy một con chuột cống trong chuồng ngựa, thì tạm biệt nhé, chuột. Và có nghĩa là mày, và mày, và mày,” vừa nói con mèo vừa lừ mắt lần lượt với từng đứa trong bọn, trông dữ tợn đến nỗi bọn chuột lo lắng lùi ra xa một chút.
“Chà,” Simon nói, “nếu cậu phải đến tận đây chỉ vì việc này thôi, thì có lẽ chúng tôi đi đây, rất vui được gặp cậu lần nữa. Các con...”
“Đợi một phút,” Freddy cắt ngang. “Simon, thế còn đoàn tàu hỏa đồ chơi lão ăn cắp đêm qua thì sao?”
Zeke và Ezra có vẻ hoảng hốt, nhưng Simon thì chỉ nhe răng cười. “Thì ra...” lão nói chậm rãi, “cậu đã phát hiện ra điều đó, hả?” Một nháng thán phục lóe lên trong đôi mắt đen tròn ti hí của lão. “Freddy à, cậu thông minh lắm. Nhưng điều ấy cũng sẽ chẳng giúp cậu được gì đâu. Cậu chỉ phát hiện ra khi chúng tớ đã có được nó rồi!”
“Chúng tôi tin là lão sẽ trả lại,” con heo nói. “Nếu lão không trả, tất cả các con vật trong trang trại này sẽ rất giận lão. Họ đều rất yêu quý Everett, và...”
“Ồ, dĩ rồi; chúng đều yêu quý Everett!” Zeke cắt ngang giận dữ. “Nó vuốt ve chúng và cho chúng ăn. Chứ nó đã bao giờ làm cái gì cho tụi tao chưa? Và ông Bean đó đã bao giờ làm cái gì cho tụi tao chưa? Chỉ đặt bẫy với đánh bả - đấy, cái mà lão ta làm cho tụi này là thế đấy. Đuổi tụi này ra khỏi những căn nhà ấm cúng của tụi này! Thế mà mày còn nghĩ tụi này phải tử tế, biết điều, làm cái này cái kia cho lão và xin xỏ làm ơn làm phước chỉ vì lão là một thằng người và là chủ nhân cái trại này. Thôi, tụi tao phát bệnh vì bọn người rồi. Người đứa nào cũng giống đứa nào, toàn một lũ biết-tuốt ích kỷ, và nếu mày mà không làm như chúng bảo xem - thì cút! Nhưng cứ đợi đi! Bọn mày và cả đống súc vật vênh vang ở lại trong cái trang trại này đều nghĩ là bọn mày mới khôn ngoan làm sao! Chúng tao còn nhiều trò chưa thèm giở ra thì thôi. Bọn mày cứ đợi cho tới khi gặp lại đoàn tàu lần sau đi: có mà mếu cả lũ! Cứ đợi đi...”
Nhưng đến đây Simon cắt ngang. “Thôi nào, thôi nào, con trai; bạo lực thì có mang lại gì đâu. Quý ông hãy thứ lỗi cho nó. Con trai tớ hăng máu quá đấy. Ôi! Tớ đồ rằng chúng ta ai cũng đã từng có thời như thế. Chà, tuổi trẻ, tuổi trẻ! Cả cậu cũng từng có thời tuổi trẻ, tớ đoán thế, Freddy à, mặc dầu giờ đây cậu đã trở nên quá ngu, quá mập, quá tẻ nhạt đến nỗi chắc chắn cậu đã quên tất những ngày xa xưa ấy, những ngày cậu còn là một chú heo con vui vẻ kêu éc éc, và cả thế giới này chính là cái máng ăn của cậu.”
“Tôi không già và không tẻ nhạt,” Freddy quạt lại; nhưng mèo Jinx nói: “Mày láo quá, Simon. Và trước giờ chưa con chuột nào dám láo với tao đến lần thứ hai. Tao cho mày đến đêm nay để dọn sạch khỏi chuồng trại và trả lại đoàn tàu. Nếu đến tám giờ mà chưa xong, thì thôi, chiến luôn! Và mày hiểu kỹ lời tao nhé: khi tao nói chiến, là chiến! Giờ, biến!” Và nó nhe răng trông dữ tợn tới mức cả ba con chuột cống, với một tiếng gầm gừ, lặn luôn xuống cái lỗ và biến mất.
“Anh biết không,” Freddy nói, khi cả hai đi bộ về nhà, “trong lời chúng nói thực sự là cũng có điều để nghĩ đấy. Đúng là bị tống ra khỏi nhà và bị săn đuổi từ chỗ này đến chỗ khác thì cũng khó mà sống thật.”
“Freddy à, cậu mang bản chất biết cảm thông,” anh bạn mèo đáp. “Cậu xứng đáng được khen vì điều đó, nhưng lòng thương cảm của cậu với mấy con chuột cống này chỉ tổ phí phạm thôi. Chẳng ai thèm săn đuổi chúng làm gì nếu chúng chịu sống cho tử tế. Mà này, nếu con vật nào cũng cư xử cho tử tế thì làm sao cậu còn làm thám tử được hả? Lấy đâu ra tội ác mà điều tra.”
“Tôi cũng nghĩ thế,” con heo thở dài. “Xét cho cùng, đáng ra tôi không nên làm thám tử, Jinx à. Lúc nào tôi cũng thấy tội nghiệp cho lũ tội phạm mỗi khi tìm ra chúng, đến nỗi khéo tôi phải thả chúng mất thôi.”
“Hừ, đừng có mà ngớ ngẩn thế nữa!” con mèo nói. “Tôi cũng thấy tội nghiệp cho lũ chuột cống ấy vậy - vâng, tội thật đấy! Nhưng cậu có dám cá là đêm nay chúng sẽ rời chuồng trại và trả lại đoàn tàu hay không?”
“Tôi cá là không,” Freddy đáp ngay. “Chúng còn mấy võ chưa giở ra, chắc rồi. Anh có thấy cách lão Simon ngăn Zeke vì sợ thằng này nói quá nhiều không? Thưa không! Chúng sắp bắt đầu làm gì đó thì có, và nếu tôi đoán không lầm thì chúng sẽ bắt đầu ngay thôi. Tối nay anh canh chuồng trại đấy chứ hả?”
“Dĩ rồi, tôi phải canh chứ.”
“Ừm, thế thì tôi sẽ đi canh với anh,” Freddy nói. “Anh thấy đấy, công việc của một thám tử đã hết đâu mặc dù đã tìm ra tội phạm là ai. Thám tử còn phải đưa thằng ấy vào ngục. Giờ tôi sẽ về nhà để nghĩ kỹ về vụ này. Gặp anh ở chuồng bác Hank lúc tám giờ nhé.”
Và chú lon ton chạy đi mất, chốc chốc lại dừng để xem xét kỹ càng nền đất, như thể đang tìm thêm manh mối.
Thám Tử Freddy Thám Tử Freddy - Walter R. Brooks Thám Tử Freddy