It is what you read when you don't have to that determines what you will be when you can't help it.

Oscar Wilde

 
 
 
 
 
Tác giả: Haruki Murakami
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: 色彩を持たない多崎つくると、彼の巡礼の年 Shikisai Wo Motanai Tazaki Tsukuru To, Kare No Junrei No Toshi
Dịch giả: Uyên Thiểm
Biên tập: Nhật Trường
Upload bìa: Nhật Trường
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2233 / 236
Cập nhật: 2021-09-28 03:26:45 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 15
ảy giờ sáng, tiếng điện thoại báo thức đổ chuông, nhờ thế gã mới mở được mắt. Gã có cảm giác mình đã ngủ một giấc khá dài và sâu, toàn thân tê dại một cách khoan khoái. Sự tê dại ấy còn kéo dài cho đến tận lúc gã tắm gội, cạo râu và đánh răng xong. Bầu trời bị phủ kín bởi một màn mây mỏng, nhưng không có dấu hiệu gì cho thấy mưa sẽ rơi. Tsukuru thay quần áo, dùng bữa sáng đơn giản theo kiểu buffet tại nhà hàng của khách sạn.
Chín giờ hơn, gã tới văn phòng của Olga. Đó là một văn phòng xinh xắn nằm ở lưng chừng con dốc, ngoài Olga ra chỉ có thêm một người đàn ông cao lêu nghêu với đôi mắt như mắt cá. Người đàn ông đang quay mặt vào chiếc điện thoại và giải thích điều gì đó. Trên tường là những tấm áp phích nhiều màu chụp các vùng ở Phần Lan. Olga đưa cho Tsukuru mấy tờ bản đồ đã in. Từ thành phố Hameenlinna đi men theo hồ một đoạn sẽ bắt gặp một thị trấn nhỏ, ở đó có nhà nghỉ mùa hè của gia đình Haatainen, vị trí đó đã được đánh dấu x. Hồ nước hẹp giống như một con kênh đào, vừa uốn lượn vừa chạy dài tít tắp. Hẳn nó đã bị khoét sâu bởi một dòng băng hà di chuyển cách nay mấy vạn năm.
“Tôi nghĩ anh sẽ tìm được đường dễ dàng thôi.” Olga nói. “Phần Lan khác với Tokyo hay New York. Lưu lượng giao thông không nhiều, nên cứ theo biển báo trên đường mà đi và đừng có đâm vào nai sừng tấm thì nhất định sẽ tới nơi.”
Tsukuru nói lời cảm ơn.
“Tôi đã đặt xe, một chiếc Volkswagen Golf mới chỉ chạy được hai nghìn cây số. Tiền thuê xe họ cũng bớt cho một chút gọi là.”
“Cảm ơn cô. Rất tuyệt.”
“Cầu cho anh mọi chuyện tốt đẹp, bởi vì anh đã cất công sang tới tận Phần Lan mà.” Olga mỉm cười nói. “Nếu gặp khó khăn, hãy gọi điện cho tôi.”
“Tôi sẽ làm thế,” Tsukuru nói.
“Hãy cẩn thận với nai sừng tấm, chúng là giống vật ngốc nghếch. Đừng có đi quá nhanh.”
Hai người lại bắt tay nhau, rồi từ biệt.
Gã thuê chiếc Golf màu lam sẫm còn mới ở văn phòng cho thuê xe, sau đó nhờ cô gái ở bàn thủ tục giải thích giúp cách đi lên đường cao tốc từ trung tâm Helsinki. Tuy phải chú ý một chút, song lộ trình không quá khó. Và một khi đã lên đường cao tốc thì phần còn lại thật đơn giản.
Tsukuru vừa nghe nhạc từ đài FM vừa chạy về phía Tây trên đường cao tốc với vận tốc xấp xỉ một trăm cây số giờ. Hầu hết các xe đều vượt qua gã, song gã không bận tâm. Lâu rồi gã không cầm vô lăng, hơn nữa lại là tay lái nghịch(23). Vả lại, gã muốn tới đó sau khi cả nhà Haatainen đã dùng xong bữa trưa. Thời gian còn rộng rãi, không có gì phải vội. Kênh chuyên về âm nhạc cổ điển đang phát một bản hòa tấu kèn trumpet rộn ràng, lung linh.
Hai bên đường hầu như là rừng khiến gã có ấn tượng như toàn bộ lãnh thổ được bao phủ bởi một màu xanh mơn mởn và trù phú. Cây ở đây phần lớn là bạch dương, xen lẫn trong đó là thông, hoặc vân sam, hoặc phong. Thông là loại thông đỏ gốc mọc thẳng đứng, còn bạch dương thì toàn thân trĩu xuống như một cái cành rũ, cả hai loại này đều không thấy ở Nhật Bản. Thi thoảng cũng bắt gặp một loài cây lá rộng mọc xen kẽ. Những con chim với đôi cánh lớn vừa tìm mồi trên mặt đất vừa lựa chiều gió chầm chậm liệng giữa trời không. Một vài nóc nhà nông dân lác đác hiện ra. Nhà của nông dân ở đây cái nào cũng lớn, hàng rào tiếp nối nhau chạy dài theo sườn đồi thoai thoải, có thể thấy bóng dáng những con gia súc đang được chăn thả tự do. Cỏ thức ăn đã cắt sẵn và được bó lại thành những bó lớn bằng máy.
Tsukuru đến thành phố Hameenlinna lúc mười hai giờ kém. Gã dừng xe ở bãi đậu rồi thả bộ trên con phố chừng mười lăm phút, sau đó vào một quán cà phê nhìn ra quảng trường trung tâm, uống cà phê và ăn một chiếc bánh mì sừng bò. Bánh mì sừng bò ngọt quá, nhưng lại rất ngon vì cà phê đặc. Bầu trời ở Hameenlinna cũng giống như Helsinki, bị bao phủ toàn bộ bởi một màn mây mỏng. Mặt trời không hề ló dạng, chỉ có thể thấy một đường viền lờ mờ màu cam trên không trung. Gã phải khoác thêm một chiếc áo len mỏng ra bên ngoài áo phông Polo vì gió thổi qua quảng trường khiến gã thấy gai gai.
Hầu như chẳng có bóng dáng du khách ở Hameenlinna, chỉ thấy những người ăn mặc bình thường xách túi mua sắm đi qua đi lại. Dọc con đường nằm ở trung tâm thành phố cũng chỉ toàn những cửa hàng buôn bán bày các đồ thực phẩm và tạp hóa phục vụ cho nhu cầu thường nhật của dân địa phương, hoặc những người sống trong biệt thự, hơn là cho khách du lịch. Đối diện phía bên kia quảng trường là một nhà thờ lớn. Một ngôi nhà thờ lè tè có những chóp mái hình tròn màu xanh lục. Lũ chim đen bay hàng đàn tất bật từ mái nhà này sang mái nhà kia, như những trận sóng sỏi. Bọn chim mòng trắng vừa quan sát xung quanh bằng đôi mắt không chút lơ là, vừa bước đi chậm rải trên nền lát đá của quảng trường.
Bên cạnh quảng trường có một dãy mấy chiếc xe đẩy bán rau quả, gã mua một túi sơ ri ở đó, rồi ngồi ăn trên ghế đá. Trong lúc đang ăn sơ ri, có hai bé gái trạc mười hoặc mười một tuổi tiến lại gần, chăm chú nhìn gã từ cách đó một chút. Hẳn là không có nhiều người châu Á đến đây. Một cô bé cao lêu nghêu, da trắng, còn cô bé kia thì có tàn nhang trên đôi má nắm nắng, cả hai đều buông xõa tóc. Tsukuru quay sang cười với hai cô bé.
Hai cô rón rén tiến lại gần gã giống như lũ chim mòng đầy cảnh giác.
“Người Trung Quốc?” Cô bé cao hơn hỏi bằng tiếng Anh.
“Người Nhật Bản.” Tsukuru nói. “Tuy gần nhau, nhưng hơi khác một chút.”
Hai cô bé lắc đầu liền mấy cái.
“Người Phần Lan.” Cô bé tàn nhang trả lời với vẻ mặt nghiêm túc.
“Thì cũng giống như vậy đấy.” Tsukuru nói. “Tuy gần nhau, nhưng hơi khác một chút.”
Hai cô bé gật đầu.
“Chú đang làm gì ở đây?” Cô bé tàn nhang hỏi, như để thử một mẫu ngữ pháp tiếng Anh. Chắc các cô bé đang học tiếng Anh ở trường nên muốn đem ra thử với người nước ngoài.
“Chú đến gặp bạn.” Tsukuru nói.
“Từ Nhật Bản tới đây mất bao lâu?” Cô bé cao hơn hỏi.
“Đi bằng máy bay thì khoảng mười một tiếng đồng hồ.” Tsukuru nói. “Trong lúc ấy, chú ăn hai bữa và xem một bộ phim.”
“Phim gì?”
“Die Hard 12.”
Có vẻ như đến đây thì các cô bé đã hài lòng. Hai cô nắm tay nhau, hất tung tà váy chạy ra phía quảng trường như những bông có gai bị gió thổi, không có những phản tỉnh hay châm ngôn về cuộc đời. Tsukuru thở phào, tiếp tục ăn sơ ri.
Tsukuru tìm tới được nhà nghỉ mùa hè của gia đình Haatainen vào lúc một rưỡi. Việc tìm ra chỗ ở của họ không đơn giản như dự đoán của Olga, bởi ở đó không tồn tại cái được gọi là đường. Nếu không có một ông lão tốt bụng thì có lẽ gã vĩnh viễn chẳng tìm ra nó.
Nhìn thấy bộ dạng lơ ngơ với tấm bản đồ Google trên tay trong lúc cho xe tấp vào lề đường của gã, một ông lão nhỏ thó đi xe đạp liền sáp đến. Ông đội một chiếc bê rê đã cũ, đi đôi ủng cao su. Từ trong tai thò ra rất nhiều những sợi lông bạc, mắt đỏ ngầu, hệt như đang vô cùng tức giận điều gì. Tsukuru đưa bản đồ cho ông lão xem và bảo rằng mình cần tìm nhà nghỉ mùa hè của gia đình Haatainen.
“Ở gần đây thôi. Ta sẽ chỉ đường cho cậu.” Ông lão ban đầu nói tiếng Đức, sau đó thì nói như vậy bằng tiếng Anh. Ông dựng chiếc xe đạp màu đen có vẻ rất nặng vào một gốc cây gần đó, rồi thoăn thoắt leo lên ghế phụ của chiếc Golf mà không cần nghe câu trả lời, sau đó chĩa ngón tay xù xì như một gốc cây đã bị đốn về phía trước để chỉ lối cho gã. Có một con đường chưa trải nhựa chạy xuyên qua rừng và men theo hồ. Đó là một lối mòn được tạo bởi những vệt bánh xe thì đúng hơn là một con đường, cỏ xanh mọc tốt um giữa hai vệt bánh xe. Tiếp tục đi thêm một đoạn thì con đường chia làm hai ngã. Tại ngã rẽ đó mấy tấm biển để tên bằng sơn được đóng đinh lên thân cây, một tấm bên tay phải ghi “Haatainen”.
Tiến vào con đường bên phải và đi thêm chút nữa thì ra đến một khoảng đất rộng. Có thể nhìn thấy hồ nước qua những thân cây bạch dương. Có một con đê chắn sóng nhỏ và một chiếc thuyền màu hoàng thổ bằng nhựa neo ở đó. Một chiếc thuyền câu đơn giản. Tiếp đến là một căn nhà gỗ xinh xắn được bao quanh bởi rặng cây, trên nóc nhô lên một ống khói hình vuông xây bằng gạch. Đậu bên hông nhà là một chiếc van(24) hiệu Renault màu trắng đeo biển Helsinki.
“Đó là nhà Haatainen.” Ông lão thông báo bằng một giọng nặng trịch. Rồi chỉnh lại mũ cho ngay ngắn, nhổ đờm đánh toẹt một cái xuống đất giống như người sắp sửa đi vào cơn bão tuyết. Cục đờm nom cứng như một hòn sỏi văng xuống.
Tsukuru nói lời cảm ơn. “Để cháu đưa ông đến chỗ dừng xe đạp. Cháu nhớ đường rồi.”
“Thôi khỏi. Ta tự đi bộ về.” Ông lão nói như đang nổi cáu. Đấy là gã nghĩ ông cụ đã nói thế, bởi vì đó là thứ ngôn ngữ là Tsukuru không hiểu. Ngữ điệu cho thấy đó hình như không phải là tiếng Phần Lan. Rồi cũng không cho Tsukuru kịp chìa tay ra bắt, ông lại thoăn thoắt leo xuống khỏi xe và sải những bước dài đi mất, cũng không ngoái đầu nhìn lại, tựa như vị tử thần vừa thông báo cho kẻ đã đã chết con đường dẫn tới âm ty.
Tsukuru cứ đậu luôn chiếc Golf trên bãi cỏ mùa hạ bên vệ đường và nhìn theo bóng lưng ông lão. Sau đó gã xuống xe, hít một hơi đầy lồng ngực. Gã cảm thấy không khí ở đây trong lành hơn hẳn Helsinki, cứ như loại không khí vừa mới ra lò. Làn gió mơn man làm lá bạch dương lay động, thi thoảng có tiếng thuyền lịch kịch va nhẹ vào bờ kè. Chim hót ở đâu đó, giọng hót rành rọt, vang xa.
Tsukuru nhìn đồng hồ đeo tay. Liệu bữa trưa đã xong chưa nhỉ? Gã hơi phân vân, tuy nhiên cũng chẳng có việc gì để làm nên quyết định thử gõ cửa nhà Haatainen. Gã đạp lên thảm cỏ xanh mùa hạ, rảo bước thẳng về phía căn nhà gỗ. Con chó đang ngủ trưa dưới mái hiên nhổm dậy, nhìn về phía gã. Đó là một con chó nhỏ lông dài màu nâu. Thế rồi nó sủa lên vài tiếng. Tuy không bị xích, nhưng tiếng sủa không có ý đe dọa nên gã tiếp tục tiến tới.
Chắc bên trong đã nghe thấy tiếng chó sủa. Ngay trước khi gã đến gần thì cánh cửa bật mở, một người đàn ông ló mặt ra. Đó là một người đàn ông có bộ râu quai nón màu vàng sậm, chắc khoảng bốn mươi lăm tuổi. Vóc người không cao lắm. Vai vuông và bè sang hai bên như một cái bàn chải rối. Hai tay thò ra từ trong mớ tóc. Trên mình mặc sơ mi kẻ sọc ngắn tay và quần bò bảo hộ màu xanh. Anh ta nhìn Tsukuru tiến lại gần trong lúc vẫn đặt tay trái trên nắm cửa, sau đó gọi tên con chó để nó thôi sủa.
“Hello.” Tsukuru cất tiếng.
“Xin chào.” Người đàn ông nói bằng tiếng Nhật.
“Xin chào.” Tsukuru cũng đáp lại bằng tiếng Nhật. “Có phải nhà anh Haatainen đấy không ạ?”
“Đúng rồi. Tôi là Haatainen.” Người đàn ông nói bằng một thứ tiếng Nhật trôi chảy. “Tôi tên là Edward Haatainen.”
Tsukuru bước lên bậc thang dưới hiên và chìa tay ra. Người đàn ông cũng chìa tay, hai người bắt tay nhau.
“Tôi tên là Tazaki Tsukuru.” Tsukuru nói.
“Tsukuru nghĩa là làm trong từ “làm đồ vật” phải không?”
“Đúng. Chính là Tsukuru đó.”
Người đàn ông mỉm cười. “Tôi cũng làm ra các đồ vật.”
“Hay quá.” Tsukuru nói. “Tôi cũng làm công việc đó.”
Con chó chạy đến, cọ đầu vào chân người đàn ông. Sau đó, nó cũng làm tương tự với chân Tsukuru giống như một món tặng kèm. Đó chắc là một nghi thức chào đón. Tsukuru đưa tay xoa đầu con chó.
“Anh Tazaki làm ra thứ gì vậy?”
“Tôi làm ra những nhà ga.” Tsukuru đáp.
“Ồ. Anh biết không? Tuyến đường sắt đầu tiên được xây dựng ở Phần Lan là đoạn nối giữa Helsinki và Hameenlinna này đấy. Bởi lẽ đó mà người dân ở đây luôn tự hào về nhà ga thành phố, ngang bằng với niềm tự hào vì đây là mảnh đất sinh ra Jean Sibelius. Nghĩa là anh đã đến đúng chỗ.”
“Ra thế. Tôi không biết điều đó. Thế còn anh Edward làm ra thứ gì?”
“Tôi làm đồ gốm.” Edward nói. “Chúng nhỏ bé hơn nhiều so với nhà ga. Thôi, mời anh vào trong, anh Tazaki.”
“Không phiền anh chứ?”
“Không hề.” Edward nói. Rồi dang rộng hai tay. “Tôi chào đón tất cả mọi người tới đây. Bất cứ ai làm ra đồ vật gì đó thì đều là bạn tôi, nên tôi càng đặc biệt chào đón.”
Không có ai trong nhà, chỉ có một cốc cà phê và một quyển sách bìa mềm bằng tiếng Phần Lan đang để mở trên bàn. Có vẻ như vừa rồi anh ta đang uống cà phê sau bữa ăn trong lúc đọc sách một mình ở đó. Anh ta chỉ ghế cho Tsukuru, còn mình ngồi xuống phía đối diện. Anh ta lấy thẻ kẹp sách đánh dấu trang và gấp lại, sau đó đẩy sang một bên.
“Anh uống cà phê chứ?”
“Vâng.” Tsukuru đáp.
Edward đi về phía máy pha, rót cà phê nóng đang bốc hơi vào chiếc cốc có quai, rồi đặt trước mặt Tsukuru.
“Anh có cần đường và kem không?”
“Không, tôi thích cà phê đen.” Tsukuru nói.
Chiếc cốc màu kem được làm thủ công. Quai cốc có hình thù méo mó, kỳ lạ, nhưng dễ cầm và tạo cảm giác gần gũi khi chạm vào. Giống như những câu bông đùa ấm cúng chỉ gây cười được ở trong gia đình.
“Chiếc cốc đó là do con gái lớn của tôi làm đấy.” Edward mỉm cười nói. “Tất nhiên người nung nó trong lò là tôi.”
Mắt anh ta màu xám nhạt trông dịu dàng, thật hợp với màu vàng sậm của râu và tóc. Tsukuru có một thiện cảm vô cùng tự nhiên đối với người đàn ông này. Anh ta là kiểu người hợp với rừng cây và hồ nước, hơn là cuộc sống chốn thị thành.
“Anh Tazaki chắc là đến đây vì có việc muốn gặp Eri phải không?” Edward hỏi.
“Vâng, tôi đến để gặp cô Eri.” Tsukuru nói. “Cô Eri hiện có ở đây không ạ?”
Edward gật đầu. “Eri đang ở đây. Bây giờ cô ấy đang ra ngoài đi dạo sau bữa ăn cùng bọn trẻ, chắc đang thả bộ ven hồ. Ở đây có một con đường đi dạo tuyệt lắm. Theo lệ thì con chó luôn về sớm hơn một tẹo, nên chắc là cô ấy sẽ về ngay bây giờ.”
“Tiếng Nhật của anh giỏi quá.” Tsukuru nói.
“Tôi từng sống ở Nhật năm năm, Gifu và Nagoya. Tôi học nghề gốm Nhật Bản ở đó, không biết tiếng Nhật thì chẳng làm được gì.”
“Anh quen cô Eri ở đó phải không?”
Edward bật ra một tiếng cười vui vẻ. “Đúng vậy. Tôi bị đổ chóng vánh quá. Chúng tôi cử hành hôn lễ ở Nagoya tám năm trước, sau đó cùng quay về Phần Lan. Hiện giờ tôi làm đồ gốm ở đây. Dạo mới về Phần Lan, tôi có làm nhân viên thiết kế cho công ty ARABIA một thời gian, nhưng tôi vẫn thích có một công việc riêng nên chuyển sang làm nghề tự do từ hai năm trước. Tôi cũng dạy cả ở trường đại học trên Helsinki, tuy chỉ hai buổi một tuần.”
“Hè nào anh cũng tới nghỉ ở đây à?”
“Phải, tôi sống ở đây từ đầu tháng Bảy cho đến giữa tháng Tám. Ngay gần đây tôi có một xưởng gốm nhỏ dùng chung với bạn bè. Tôi bắt đầu công việc ở đó từ sáng sớm, nhưng trưa sẽ về nhà ăn. Buổi chiều tôi chủ yếu dành thời gian cùng gia đình, đi dạo hoặc đọc sách, thỉnh thoảng cả nhà lại đi câu.”
“Chỗ này tuyệt thật đấy.”
Edward nở nụ cười sung sướng. “Cảm ơn anh. Xung quanh đây rất yên tĩnh, công việc cũng tiến triển tốt. Chúng tôi sống đơn giản. Lũ trẻ cũng thích nơi này, chúng có thể tiếp xúc với thiên nhiên.”
Chiếc kệ gỗ được gắn từ dưới sàn cho tới tận sát trần nhà, che kín cả một mặt tường trát vữa trắng trong căn phòng, trên đó bày biện những đồ gốm chắc hẳn do anh ta tự nung. Ngoài ra hầu như chẳng có thứ gì đáng được gọi là đồ trang trí. Chỉ có chiếc đồng hồ tròn giản dị treo trên tường, một bộ dàn âm thanh gọn nhẹ và một chồng đĩa CD được để trên nóc cái tủ gỗ cũ nom có vẻ chắc chắn.
“Khoảng một phần ba số tác phẩm bày trên cái kệ đó là do Eri làm.” Edward giới thiệu, giọng nói pha lẫn âm hưởng tự hào. “Nói thế nào nhỉ, cô ấy có một tài năng tự nhiên. Đó là một thứ bẩm sinh, nó thấm đẫm trong các tác phẩm. Tôi ký gửi tác phẩm của cô ấy ở vài cừa hàng trên Helsinki, tại một số chỗ, chúng thậm chí còn được ưa chuộng hơn cả của tôi.”
Tsukuru hơi ngỡ ngàng, gã chưa bao giờ nghe nói đến việc Đen tỏ ra hứng thú với nghề gốm.
“Tôi không biết là cô ấy làm gốm.” Tsukuru nói.
“Từ độ bước qua tuổi hai mươi, Eri bắt đầu hứng thú với nghề gốm. Sau khi tốt nghiệp một trường đại học bình thường, cô ấy tiếp tục học ở khoa Mỹ nghệ Đại học Nghệ thuật tỉnh Aichi. Chúng tôi đã gặp nhau ở đó.”
“Vậy à. Tôi thì hầu như chỉ biết cô ấy của cái thời trước hai mươi tuổi.”
“Là bạn thời trung học?”
“Đúng vậy.”
“Anh Tazaki Tsukuru.” Edward nhắc lại tên gã, lim dim mắt và lần về ký ức. “Nói đến mới nhớ, tôi đã từng nghe Eri kể chuyện về anh. Một thành viên trong nhóm bạn năm người rất thân, ở Nagoya. Có đúng vậy không?”
“Vâng, đúng vậy. Chúng tôi đã từng thuộc về một nhóm.”
“Có ba người trong nhóm đã tới dự hôn lễ của chúng tôi ở Nagoya. Đỏ, Trắng và Xanh. Hình như là thế đúng không nhỉ? Những con người đầy màu sắc.”
“Chính xác là như vậy.” Tsukuru nói. “Đáng tiếc là tôi đã không thể tham dự.”
“Nhưng bây giờ thì chúng ta đang được gặp nhau ở đây.” Anh ta nói, và nở một nụ cười ấm áp. Đám râu má rung rinh trên mặt như những ngọn lửa trại thân mật. “Anh Tazaki sang Phần Lan du lịch?”
“Đúng vậy.” Tsukuru đáp. Nếu nói thật sẽ phải giải thích dài dòng. “Tôi đi du lịch tới Helsinki, rồi bất chợt nảy ra ý định gặp Eri vì nhận ra rằng đã lâu rồi chúng tôi chưa gặp nhau, và thế là tôi tới đây. Tôi xin lỗi vì đã không liên lạc trước, hy vọng không quấy rầy anh.”
“Không hề, không hề, sao lại quấy rầy được chứ. Tôi rất hoan nghênh. Chào mừng anh đã tới một nơi xa xôi thế này. Thật may là còn có tôi ở nhà. Eri chắc chắn sẽ rất vui.”
Hy vọng là cô ấy vui, Tsukuru nhủ thầm.
“Tôi xem các tác phẩm ở đây được chứ?” Gã chỉ vào những món đồ gốm bày trên kệ, hỏi Edward.
“Chắc chắn rồi. Anh có thể chạm vào chúng. Tác phẩm của tôi và của Eri được bày lẫn với nhau, nhưng ấn tượng rất khác nhau, nên không cần giải thích chắc anh cũng sẽ nhận ra ngay cái nào là của ai.”
Tsukuru đến bên mép tường, lần lượt xem từng món đồ bày trên đó. Quá nửa trong số ấy là các vật dụng thực tế có thể đem dùng trên bàn ăn như đĩa, chén, cốc. Ngoài ra còn có thêm một vài lọ hoa và bình.
Đúng như lời Edward, chỉ cần liếc qua cũng có thể nhận thấy sự khác biệt giữa các tác phẩm của anh ta và của Eri. Những món có lớp men nhẵn mịn, sử dụng gam màu phấn là tác phẩm của Edward. Màu sắc chỗ đậm, chỗ nhạt, tạo nên những khoảng sáng tối mơ hồ như thể gió thổi hay nước trôi. Không cái nào có họa tiết, chính sự thay đổi gam màu có tác dụng giống như hoa văn. Ngay đến một kẻ ngoại đạo về nghề gốm như Tsukuru cũng dễ dàng hình dung được rằng, để lên được những màu như thế cần phải có một trình độ kỹ thuật rất cao. Lối thiết kế loại bỏ mọi sự trang trí rườm rà, cảm giác nhẵn mịn, trang nhã khi chạm vào là đặc trưng trong các tác phẩm của anh ta. Về cơ bản chúng theo phong cách Bắc Âu, tuy nhiên có thể thấy ảnh hưởng rõ ràng của đồ gốm Nhật Bản trong sự đơn giản như thể được cắt tỉa ấy. Khi cầm lên, chúng nhẹ và vừa tay hơn nhiều lần tưởng tượng, và được chăm chút tỉ mỉ tới từng chi tiết. Tóm lại, đó là một công việc thủ công chỉ có thể được thực hiện bởi một nghệ nhân hàng đầu. Một tài năng như thế hẳn sẽ không thể phát huy tại những công ty lớn chuyên sản xuất hàng loạt.
Trong khi đó, phong cách sáng tác của Eri đơn giản hơn rất nhiều. Xét từ góc độ kỹ thuật thì còn xa mới đạt đến sự tỉ mỉ, tinh xảo như trong tác phẩm của chồng mình. Về tổng thể, tác phẩm của Eri khá dày dặn, các đoạn cong ở phần vành miệng dường như không thật đều, vì thế khó có thể tìm ra ở chúng một vẻ đẹp sắc nét, điêu luyện. Tuy nhiên, tác phẩm của cô lại mang một hương vị ấm áp riêng, khiến lòng người xem nhẹ nhõm đến khó tả. Chính những chỗ không đều, và sự thô ráp khi chạm vào đã đem đến cảm giác yên ổn nhẹ nhàng, tựa như khi cầm trên tay một tấm vải bằng chất liệu tự nhiên, hay như khi ngồi dưới hiên nhà mà ngắm mây trôi trên trời.
Nét đặc trưng ở các tác phẩm của cô đối lập hẳn với chồng, nó nằm trong các họa tiết. Bất cứ tác phẩm nào cũng được cô điểm bởi các họa tiết nhỏ, khi thì tản ra, khi thì tụ lại, tự như tán lá cây bị gió xô đẩy. Tùy vào mức độ tản mác của các họa tiết mà ấn tượng tổng thể sẽ trở nên hoặc là thâm trầm, hoặc là rực rỡ. Sự tinh diệu ấy gợi nhắc đến những hoa văn bé xíu trên bộ kimono đã cũ, Tsukuru thử đưa mắt lại gần để xem mỗi một họa tiết ấy đang thể hiện điều gì, nhưng không sao xác định được ý nghĩa hình tượng của chúng, những hình họa kỳ lạ. Những nếu đưa ra xa một chút và ngắm kỹ, sẽ chỉ thấy hiện lên những chiếc lá rụng lả tả trên mặt đất của khu rừng. Đám lá cây mà rồi đây những con vật vô danh sẽ len lén giẫm lên, lèn chặt xuống, không ai biết và không một tiếng động.
Màu sắc trong các tác phẩm của Eri, trái ngược hẳn với tác phẩm của chồng mình, chẳng qua chỉ là cái nền. Làm thế nào để các họa tiết trở nên sinh động và nổi bật chính là nhiệm vụ mà màu sắc được giao phó. Màu sắc vô cùng mờ nhạt, thầm lặng, nhưng gánh vác một cách hiệu quả vai trò làm nền cho họa tiết.
Tsukuru lần lượt cầm từng món đồ của Edward và Eri để so sánh. Hẳn là trong cuộc sống thực tế, đôi vợ chồng này luôn giữ được sự thăng bằng một cách khéo léo. Có một sự tương phản dễ chịu khiến người ta nghĩ thế. Phong cách tuy khác nhau, song người này sẽ sẵn sàng chấp nhận hương vị riêng của người kia.
“Là một người chồng, mà khen các tác phẩm của vợ như thế, có lẽ không phải là một việc làm đúng.” Edward vừa quan sát Tsukuru vừa nói. “Tiếng Nhật nói là gì nhỉ? Mẹ hát con khen hay – phải không?”
Tsukuru chỉ tủm tỉm cười mà không nói gì.
“Tuy nhiên, tôi khen không phải vì chúng tôi là vợ chồng, mà vì yêu thích tác phẩm của Eri. Trên đời này thiếu gì người làm gốm giỏi hơn, đẹp hơn. Nhưng trong tác phẩm của cô ấy không có sự hạn hẹp. Tôi có thể cảm thấy sự rộng lớn trong tâm hồn cô ấy. Giá mà tôi có thể diễn đạt tốt hơn.”
“Tôi rất hiểu điều anh đang nói.” Tsukuru lên tiếng.
“Đó chắc chắn là do trời phú.” Anh ta chỉ lên trần nhà. “Một món quà. Và không nghi ngờ gì nữa, cô ấy sẽ ngày càng giỏi hơn. Trong Eri vẫn còn rất nhiều không gian.”
Bên ngoài, con chó cất tiếng sủa. Tiếng sủa thật thân thiết và đặc biệt.
“Hình như Eri và bọn trẻ đã về.” Edward quay mặt về phía đó nói. Đoạn đứng dậy, đi ra cửa.
Tsukuru cẩn trọng đặt lại lên kệ món đồ gốm của Eri đang cầm trên tay, cứ đứng yên đó và chờ cô hiện ra nơi ngưỡng cửa.
Tazaki Tsukuru Không Màu Và Những Năm Tháng Hành Hương Tazaki Tsukuru Không Màu Và Những Năm Tháng Hành Hương - Haruki Murakami Tazaki Tsukuru Không Màu Và Những Năm Tháng Hành Hương