Nothing is worth reading that does not require an alert mind.

Charles Dudley Warner

 
 
 
 
 
Tác giả: Haruki Murakami
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: 色彩を持たない多崎つくると、彼の巡礼の年 Shikisai Wo Motanai Tazaki Tsukuru To, Kare No Junrei No Toshi
Dịch giả: Uyên Thiểm
Biên tập: Nhật Trường
Upload bìa: Nhật Trường
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2233 / 236
Cập nhật: 2021-09-28 03:26:45 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 14
au khi xuống sân bay Helsinki, việc đầu tiên gã làm là đổi tiền mặt từ Yên Nhật sang Euro tại quầy ngoại hối, kiếm cửa hàng điện thoại di động và mua một chiếc loại trả trước dễ thao tác nhất có thể. Xong xuôi đâu đấy, gã khoác độc cái túi đeo chéo lên vai, đi ra điểm bắt taxi. Gã chui vào một chiếc Mercedes-Benz đời cũ, nói cho người tài xế tên khách sạn trong thành phố.
Chiếc xe ra khỏi sân bay, chạy vào đường cao tốc. Gã ngắm nhìn những vạt rừng xanh sẫm, những tấm biển quảng cáo bằng tiếng Phần Lan đang lướt qua ô cửa, và tuy là lần đầu tiên xuất ngoại, nhưng gã hầu như chẳng cảm nhận được rằng mình vừa đặt chân ra nước ngoài. Tâm trạng chẳng khác đi đến Nagoya là mấy, ngoại trừ việc phải mất nhiều thời gian di chuyển hơn một chút. Điểm thay đổi duy nhất là loại tiền trong ví. Cách ăn mặc của gã cũng vẫn như ngày thường: quần kaki với áo phông Polo đen, giày thể thao, khoác áo bằng vải sợi bông màu nâu nhạt. Gã chỉ mang sang đây số quần áo tối thiểu để thay, nếu không đủ có thể mua ở đâu đó.
“Anh từ đâu đến thế?” Người tài xế trung niên có hàng râu quai nón rậm rì cất tiếng hỏi trong lúc nhìn mặt gã qua mảnh gương của buồng lái.
“Từ Nhật Bản.” Tsukuru đáp
“Đi xa vậy mà mang ít đồ đạc nhỉ.”
“Vì tôi không thích những đồ nặng.”
Người tài xế bật cười. “Có ai thích đồ nặng đâu cơ chứ. Nhưng khi để ý đến mới nhận ra là mình đang mang toàn đồ nặng. Đời là thế. C’est la vie.” Sau đó ông ta lại cười vui vẻ.
Tsukuru cũng cười một chút chiếu lệ.
“Anh làm công việc gì?” Người tài xế hỏi.
“Xây dựng ga đường sắt.”
“Kỹ sư à?”
“Phải.”
“Anh sang tận Phần Lan để xây nhà ga đấy à?”
“Không, tôi nghỉ phép và sang đây để gặp bạn.”
“Như thế thì tốt.” Người tài xế nói. “Nghỉ phép và bạn bè là hai thứ tuyệt nhất trần đời.”
Người Phần Lan nào cũng thích nói những câu châm ngôn kiểu cách về sự đời như thế, hay khuynh hướng ấy chỉ có ở người tài xế này? Tsukuru hy vọng nó rơi vào trường hợp thứ hai.
Đi chừng ba mươi phút thì chiếc taxi dừng lại trước một khách sạn trong thành phố Helsinki, đến lúc đó gã mới chợt nhớ ra là mình chưa đọc trong sách hướng dẫn du lịch xem nên bo bao nhiêu thì đủ, hoặc thậm chí là có cần phải bo hay không (ngẫm ra thì gã còn chưa tìm hiểu bất cứ điều gì về đất nước này). Vì thế gã đưa nhiều hơn con số ghi trên đồng hồ khoảng mười phần trăm coi như khoản tiền bo. Người tài xế tỏ ra vui sướng và đưa cho gã tờ hóa đơn trắng, nên gã nghĩ là mình không nhầm. Mà giả sử có nhầm thì chắc cũng không đến nỗi làm ông ta mếch lòng.
Khách sạn Sara chọn cho gã là một tòa nhà xây theo lối cổ nằm ở trung tâm thành phố. Gã được một cậu nhân viên hành lý tóc vàng đẹp trai dẫn lên, sau một hồi rung lắc trong chiếc thang máy cổ diển, gã vào phòng mình trên tầng bốn. Trong phòng kê những đồ gỗ cũ và một chiếc giường lớn, trên mặt giấy dán tường bạc màu có những hoa văn giống như hình lá thông. Bồn tắm là loại chân lượn kiểu cổ, còn cửa sổ là loại cánh mở lên trên, rèm cửa có một lớp vải dày và một lớp voan mỏng. Đâu đó tỏa ra một thứ mùi quen thuộc. Từ cửa sổ có thể phóng tầm mắt ra một con phố rộng với những toa tàu điện mặt đất màu xanh lục chạy ở chính giữa. Một căn phòng có vẻ yên bình. Không có máy pha cà phê hay ti vi màn hình tinh thể lỏng, nhưng đằng nào thì gã cũng không dùng đến những thứ như vậy.
“Cảm ơn cậu. Phòng này được rồi.” Tsukuru nói, rồi bo cho cậu ta hai đồng một Euro. Cậu nhân viên hành lý nhoẻn miệng cười rồi nhẹ nhàng lui ra như một chú mèo khôn ngoan.
Gã tắm gội và thay sang bộ đồ mới. Vừa xong thì đã xế chiều, nhưng bên ngoài cửa sổ trời vẫn sáng như đang trưa. Trên không trung, vầng bán nguyệt màu trắng hiện ra rõ mồn một, nom tựa như một hòn đá bọt dùng đã lâu ngày. Ai đấy đã quăng nó lên không trung và vì một lý do nào đó, nó cứ ở trên ấy mãi.
Xuống đến sảnh chờ, gã đi tới quầy hướng dẫn, xin người phụ nữ tóc đỏ ở đó một tờ bản đồ miễn phí của thành phố. Gã đọc địa chỉ văn phòng sở tại của công ty du lịch mà Sara đang làm việc, rồi nhờ người phụ nữ đánh dấu bằng bút bi lên đó. Văn phòng chỉ cách khách sạn ba khối nhà. Theo lời khuyên của cô nhân viên hướng dẫn, gã mua một chiếc thẻ giao thông công cộng dùng chung cho cả xe buýt nội đô, tàu điện ngầm và tàu điện mặt đất. Gã nhờ cô chỉ cho cách đi từng loại phương tiện, sau đó xin cô bản đồ lộ trình. Cô khoảng chừng bốn nhăm đến năm mươi tuổi, đôi mắt màu lục nhạt, và rất tốt bụng. Khi nói chuyện với phụ nữ hơn tuổi, Tsukuru luôn cảm thấy bình tâm và thoải mái, điều đó dường như không thay đổi cho dù ở bất cứ nơi đâu trên thế giới.
Từ một góc yên tĩnh dưới sảnh chờ, gã gọi đến căn hộ nơi Đen đang sống trong nội thành bằng chiếc điện thoại di động mua được tại sân bay. Máy đang để ở chức năng trả lời tự động. Giọng một người đàn ông trầm ấm phát ra đoạn thông báo trong khoảng hai mươi giây bằng tiếng Phần Lan, cuối cùng là tiếng tín hiệu, có lẽ sau đấy gã sẽ phải đọc lời nhắn vào trong máy. Tsukuru ngắt điện thoại mà không nói gì. Đợi thêm một lát, gã thử gọi lại vào số đó, nhưng cũng chỉ nhận được kết quả tương tự. Giọng ghi âm chắc là của chồng Đen. Tất nhiên gã không hiểu nội dung, nhưng gã cảm thấy một ấn tượng rành mạch, lạc quan ở trong ấy. Chất giọng của một người đàn ông khỏe mạnh, đang hưởng thụ cuộc sống nhàn hạ, chẳng thiếu thốn gì.
Tsukuru dập máy, rồi cất điện thoại di động vào túi áo, sau đó hít một hơi sâu. Gã có dự cảm không hay, không chừng hiện giờ Đen đang không ở đó. Cô có chồng và hai đứa con nhỏ, lúc này đã sang tháng Bảy, biết đâu cả nhà họ đã đi chơi ở đảo Mallorca nhân dịp nghỉ hè đúng như lời Sara nói.
Đồng hồ chỉ sang sáu giờ ba mươi. Văn phòng của công ty du lịch mà Sara nói với gã hẳn là đã đóng cửa, nhưng cứ thử một lần cũng đâu có mất gì. Gã lấy điện thoại di động từ túi áo ra lần nữa và bấm số của văn phòng đó. Trái ngược với suy đoán, văn phòng có vẫn có người.
Giọng một cô gái nói gì đó bằng tiếng Phần Lan.
“Có cô Olga ở đó không ạ?” Tsukuru hỏi bằng tiếng Anh.
“Tôi là Olga đây.” Cô gái đáp lại bằng một thứ tiếng Anh thuần thục, không hề lơ lớ.
Tsukuru xưng tên, nói rằng được Sara giới thiệu.
“À vâng, anh Tazaki, tôi có nghe chị Sara nói về anh.” Olga nói.
Gã trình bày tình hình, rằng mình đến để gặp một người bạn, nhưng điện thoại nhà cô ấy lại đang đặt ở chế độ trả lời tự động, mà gã thì không hiểu được tiếng Phần Lan trong đoạn ghi âm.
“Anh Tazaki, anh đang ở khách sạn phải không?”
Vâng, Tsukuru trả lời.
“Tôi sẽ đóng cửa văn phòng bây giờ. Khoảng ba mươi phút nữa thì đến được chỗ anh. Ta gặp nhau ở sảnh khách sạn được chứ?”
Olga là một cô gái tóc vàng, mặc quần jean bó với áo phông trắng dài tay. Tuổi chừng hai nhăm đến ba mươi, chiều cao khoảng một mét bảy mươi, khuôn mặt đẫy đà, hồng hào. Người ta dễ có ấn tượng rằng cô sinh ra trong một gia đình nông dân sung túc và lớn lên cùng với đàn ngỗng tốt bụng, lắm lời ở đó. Cô búi tóc ra đằng sau, khoác trên vai chiếc túi đeo chéo loại da bóng màu đen. Cô sải những bước dài qua cửa khách sạn, với tư thế ngay ngắn giống như một người bưu tá.
Hai người bắt tay, rồi ngồi xuống cạnh nhau trên một chiếc xô pha lớn ở chính giữa ở chính giữa sảnh.
Sara đã từng sang Helsinki vài lần và lần nào cũng làm việc cùng với Olga. Olga dường như rất có thiện cảm cới Sara không chỉ trên tư cách đối tác trong công việc mà trên cả tư cách cá nhân.
“Lâu rồi tôi không gặp, chị Sara vẫn khỏe chứ?” Cô hỏi.
“Cô ấy vẫn khỏe. Công việc có vẻ bận rộn, nên lúc nào cũng chạy đôn chạy đáo khắp nơi,” Tsukuru đáp.
“Chị ấy nói qua điện thoại với tôi rằng anh là một người bạn riêng tư và thân thiết.”
Tsukuru cười mỉm. Một người bạn riêng tư và thân thiết, gã nhẩm lại câu nói đó trong đầu.
“Tôi sẵn sàng giúp đỡ bất cứ điều gì trong khả năng của mình. Có gì anh cứ nói với tôi.” Olga cười tủm tỉm, nhìn thẳng vào mắt gã và nói.
“Cảm ơn cô.” Có vẻ như gã đang bị bình xét xem có xứng đáng là người yêu của Sara không đây. Nếu đủ điểm đạt thì tốt, gã nghĩ.
“Để tôi thử nghe đoạn ghi âm đó.” Olga nói.
Tsukuru lấy điện thoại di động ra, bấm số căn hộ của Đen. Trong lúc ấy, Olga lấy từ trong túi ra tập giấy nhớ và một chiếc bút bi nhỏ màu vàng, đặt lên đầu gối. Khi thấy có tín hiệu, gã liền đưa điện thoại cho Olga. Olga lắng nghe đoạn thông báo với vẻ mặt chăm chú, nhanh nhẹn ghi ra giấy các thông tin cần thiết, rồi dập máy. Xem ra đây là một cô gái lanh lợi, có năng lực, chắc là rất hợp chuyện với Sara.
“Giọng ghi âm hình như là của chồng chị ấy.” Olga nói.
“Cả nhà anh ta đã rời khỏi căn hộ ở Helsinki vào thứ Sáu tuần trước và chuyển đến nhà nghỉ mùa hè. Họ sẽ không quay trở lại cho đến trước trung tuần tháng Tám, nhưng có để lại số điện thoại của chỗ đó.”
“Nó có xa đây không?”
Cô lắc đầu. “Tôi không nắm được địa điểm. Theo lời nhắn lại, tôi chỉ biết rằng ngôi nhà đó nằm trong đất Phần Lan cùng với số điện thoại của nó. Tôi nghĩ là có thể gọi điện để dò hỏi địa chỉ.”
“Nếu được vậy thì may quá, nhưng mong cô làm ơn cho một việc.” Tsukuru nói. “Đó là xin cô đừng nhắc đến tên tôi trên điện thoại. Vì nếu được, tôi định sẽ tới trực tiếp mà không báo trước.”
Gương mặt Olga thoáng hiện ra vẻ tò mò.
Tsukuru giải thích. “Cô ấy là bạn thân thời trung học của tôi, và đã lâu lắm rồi tôi không gặp. Tôi nghĩ cô ấy không thể tưởng tượng được là tôi lại sang tận đây để gặp cô ấy. Tôi muốn thình lình gõ cửa nhà cô ấy để gây bất ngờ.”
“Surprise,” Olga nói. Rồi lật ngửa hai bàn tay đang đặt trên đầu gối và xòe ra. “Chuyện đó xem chừng vui đấy.”
“Đấy là nếu cô ấy cảm thấy thú vị.”
Olga nói. “Chị ấy là người yêu cũ của anh à?”
Tsukuru lắc đầu. “Không, không phải vậy. Chúng tôi từng thuộc về cùng một nhóm bạn. Tất cả chỉ có thế. Nhưng chúng tôi rất thân thiết.”
Cô hơi nghiêng đầu. “Những người bạn thời trung học thật không dễ kiếm. Tôi cũng có một người bạn từ thời trung học, đến giờ chúng tôi vẫn thường gặp và trò chuyện với nhau.”
Tsukuru gật gù.
“Thế rồi bạn anh lấy một người Phần Lan, và chuyển tới đây. Đã lâu rồi anh không gặp chị ấy. Câu chuyện là như vậy phải không?”
“Đã mười sáu năm nay chúng tôi không gặp nhau.”
Olga đưa đầu ngón trỏ day day thái dương. “Tôi hiểu rồi. Tôi sẽ tìm cách hỏi cho ra địa chỉ mà không nhắc đến tên anh. Tôi sẽ thử nghĩ ra diệu kế nào đó. Anh cho tôi biết tên chị ấy được không?”
Tsukuru viết tên Đen lên tập giấy nhớ.
“Trường trung học của các anh ở thành phố nào của Nhật Bản?”
“Nagoya,” Tsukuru đáp.
Olga cầm lấy chiếc điện thoại di động của Tsukuru một lần nữa và bấm theo số máy để lại trong lời nhắn. Sau mấy hồi chuông thì có người xuất hiện ở đầu dây bên kia, Olga nói chuyện thật duyên dáng với người phía bên kia bằng tiếng Phần Lan. Cô giải thích điều gì đó, rồi người kia hỏi lại, và cô tiếp tục giải thích một cách ngắn gọn. Cái tên Eri mấy bận phát ra từ miệng cô. Sau vài lần trao đi đổi lại như thế, cuối cùng người ở đầu dây bên kia dường như cũng đã hài lòng. Olga cầm bút bi lên, viết cái gì đó vào giấy nhớ. Sau đó lịch sự nói lời cảm ơn rồi dập máy.
“Mọi chuyện đều ổn.” Olga nói.
“Tốt quá.”
“Đó là một gia đình có họ Haatainen, tên của anh chồng là Edward. Anh ta có một ngôi nhà ven hồ ở ngoại ô thành phố Hameenlinna nằm về phía Tây Bắc Helsinki và hiện đang nghỉ hè tại đó, tất nhiên là cùng với chị Eri và lũ trẻ.”
“Bằng cách nào cô có thể dò hỏi được ngần ấy thông tin mà không cần nhắc đến tên tôi?”
Olga cười tinh nghịch. “Tôi phải nói dối một tí tẹo. Tôi đóng giả làm nhân viên chuyển phát nhanh của FedEx. Tôi hỏi là có thể chuyển tiếp một bưu phẩm nhỏ được gửi từ Nagoya Nhật Bản cho chị Eri tới đâu thì được. Anh chồng nghe máy, thấy tôi nói thế thì ngay lập tức cho tôi biết nơi cần chuyển đến, và đây là địa chỉ.”
Nói rồi, cô đưa mẩu giấy nhớ cho gã. Đoạn cô đứng dậy, đi tới quầy hướng dẫn, xin về một tấm bản đồ đơn giản của vùng phía Nam Phần Lan. Cô trải tấm bản đồ ra, lấy bút bi đánh dấu vào Hameenlinna.
“Đây là Hameenlinna. Tôi sẽ tra ra vị trí chính xác ngôi nhà mùa hè của họ bằng Google. Hôm nay thì văn phòng đóng cửa mất rồi, nên ngày mai tôi sẽ in ra cho anh.”
“Từ đây tới Hameenlinna mất bao xa?”
“Để tôi xem nào, về khoảng cách thì cỡ chừng một trăm cây số, còn đi bằng ô tô từ đây, nếu tính dư ra thì có lẽ mất khoảng một tiếng rưỡi. Đường cao tốc chạy thẳng một mạch tới chỗ họ. Cũng có thể đi tới thành phố bằng đường sắt, nhưng muốn đi tiếp đến nhà họ thì cần phải thuê xe.”
“Tôi sẽ thuê xe tự lái.”
“Ở Hameenlinna có tòa lâu đài tuyệt đẹp nằm bên hồ, và ngôi nhà mà Sibelius từng sống, nhưng chắc là anh Tazaki còn có việc quan trọng hơn những thứ ấy. Ngày mai, lúc nào tiện anh ghé qua văn phòng tôi được không? Văn phòng mở cửa từ chín giờ. Gần văn phòng có một điểm cho thuê xe tự lái, nên tôi sẽ thu xếp để anh có thể thuê xe vào bất cứ lúc nào.”
“Cô ở gần đây thật là may cho tôi quá.” Tsukuru nói lời cảm ơn.
“Nếu là bạn thân của Sara, thì cũng là bạn thân của tôi.” Olga nháy mắt nói. “Mong là anh sẽ gặp được chị Eri. Và giá như có thể làm cho chị ấy ngạc nhiên thật sự.”
“Tôi cũng mong là vậy. Vì đó là mục đích mà tôi sang đây.”
Olga tỏ ra hơi băn khoăn, đoạn quả quyết hỏi gã. “Chuyện này không liên quan đến tôi, nhưng anh đã cất công lặn lội sang đây để gặp chị ấy thì chắc phải có việc gì đó rất quan trọng đúng không?”
“Có thể đối với tôi thì quan trọng.” Tsukuru nói. “Nhưng chưa chắc đã quan trọng với cô ấy. Vì thế tôi mới phải sang đây để xác nhận lại điều này.”
“Chuyện xem ra có vẻ phức tạp nhỉ.”
“Có lẽ nó phức tạp hơn những gì mà tôi có thể giải thích được bằng vốn tiếng Anh của mình.”
Olga bật cười. “Cuộc đời chúng ta có những thứ thật khó để giải thích dù bằng ngôn ngữ nào.”
Tsukuru gật đầu. Luôn nghĩ ra những câu châm ngôn về cuộc đời có khi là đặc tính chung của người Phần Lan thật. Phải chăng những mùa đông dài có can hệ đến điều này. Nhưng đúng như Olga nói, đó là vấn đề chẳng liên quan gì đến ngôn ngữ, có lẽ thế.
Cô đứng dậy khỏi ghế xô pha, Tsukuru cũng đứng lên theo và bắt tay cô.
“Vậy tôi sẽ đợi anh đến vào sáng ngày mai. Có thể sự mệt mỏi do chênh lệch múi giờ và bầu trời ở đây còn sáng cho đến tận khuya sẽ khiến những ai chưa quen khó mà chợp mắt được. Vì thế anh nên đặt cuộc gọi báo thức thì hơn.”
“Tôi sẽ làm thế,” Tsukuru nói. Cô khoác chiếc túi đeo chéo lên vai, và lại băng qua sảnh chờ bằng những sải chân rộng rồi ra khỏi khách sạn. Cô hướng thẳng phía trước, không một lần ngoái lại.
Tsukuru gấp tờ giấy nhớ cô đưa cho rồi nhét vào trong ví, bản đồ thì gã đút vào túi áo. Sau đó gã rời khách sạn và thả bộ lang thang trên phố.
Ít ra thì nhờ vậy mà gã đã biết được nơi ở của Eri. Đen ở đó, cùng với chồng và hai đứa con thơ. Vấn đề còn lại là liệu cô có chịu tiếp Tsukuru hay không. Rất có thể cô sẽ từ chối gặp Tsukuru, cho dù gã đã vượt qua cả Bắc Cực bằng máy bay để tới gặp cô. Điều đó hoàn toàn có thể xảy ra. Theo như lời của Xanh thì người đầu tiên đứng về phía Trắng và đòi cắt đứt quan hệ với Tsukuru sau vụ cưỡng hiếp chính là Đen. Gã không thể hình dung ra tình cảm của cô đối với gã như thế nào kể từ sau khi Trắng bị kẻ nào đó giết hại và nhóm bạn tan rã. Có thể đó là một thứ vô cùng lạnh nhạt, nên gã không còn cách nào khác là phải trực tiếp tới đó để xác nhận.
Đồng hồ đã chỉ sang tám giờ, nhưng đúng như lời Olga, bầu trời chẳng cho thấy dấu hiệu nào của buổi chiều. Phần lớn các cửa hàng buôn bán vẫn mở cửa và mọi người vẫn đang dạo bước trên đường phố sáng trưng như ban ngày. Trong các quán cà phê, người ta uống bia hoặc rượu vang và cười nói. Bước đi trên con phố cổ kính lát đá cuội, gã nghe mùi nướng cá từ đâu đó thoảng lại. Nó giống như mùi nướng cá thu ở các quán cơm phần Nhật Bản. Tsukuru cảm thấy đói bụng, gã thử len vào một con ngõ hẹp toan lần theo mùi hương ấy, nhưng chẳng thể nào xác định được nguồn phát ra nó. Sau một hồi trở đi trở lại trên con phố, cuối cùng thứ mùi ấy cũng tan dần và biến mất.
Không muốn phải đắn đo nhiều về chuyện ăn uống, gã bước đại vào một quán pizzeria(22) vừa nhác thấy, ngồi xuống chiếc bàn kê ngoài trời, gọi trà đá và pizza Margherita. Gã tưởng như nghe thấy tiếng cười của Sara ở bên tai. Nàng hẳn sẽ bảo với gã rằng, cậu cất công đi máy bay sang tận Phần Lan chỉ để ăn pizza Margherita rồi về đấy à, và tỏ ra khoái chí. Nhưng pizza ngon hơn gã tưởng. Hình như bánh được nướng bằng lò than hoa, nên đế mỏng và giòn, có cả những vệt cháy thơm phức.
Cái quán pizzeria không lấy gì làm màu mè ấy gần như được lấp kín bởi những thực khách là các gia đình và cặp đôi trẻ, có cả các nhóm sinh viên. Tất cả đều đang cầm trên tay một ly bia hoặc rượu vang. Rất nhiều người được vô tư hút thuốc. Ví thử có tìm khắp quán chắc cũng chẳng kiếm được người nào vừa một mình uống trà đá vừa lặng lẽ ăn pizza như Tsukuru. Mọi người nói chuyện với nhau rất to và náo nhiệt, nhưng tất cả những từ ngữ lọt vào tai gã (có lẽ) đều là tiếng Phần Lan. Những người ngồi bàn bên cạnh hình như đều là dân bản địa, chẳng kiếm nổi bóng dáng một ai có vẻ là du khách. Đến lúc ấy, gã mới nhận ra một thực tế là mình đã rời rất xa Nhật Bản và đang ở nước ngoài. Dù ở đâu thì khi ăn, gã cũng luôn một mình, nên gã không mấy bận tâm về việc ấy. Tuy nhiên, trong trường hợp này, gã không đơn giản là chỉ có một mình. Vì sự một mình ở đây có hai lớp nghĩa. Gã là kẻ ngoại bang, và những người xung quanh đang trò chuyện bằng thứ ngôn ngữ mà gã không hiểu nổi.
Đó là một cảm giác đơn độc hoàn toàn khác so với cái mà gã luôn cảm thấy khi ở Nhật Bản. Cũng không đến nỗi tệ, Tsukuru nghĩ. Chỉ có một mình theo hai lớp nghĩa, biết đâu sẽ đem đến kết quả phủ định của phủ định đối với sự đơn độc. Nghĩa là, trong vai một kẻ ngoại bang, việc gã đơn độc ở xứ này là hoàn toàn hợp lẽ, đâu có gì khó hiểu. Nghĩ thế, gã cảm thấy bình tâm, vì gã đang ở đúng chỗ của mình. Gã giơ tay gọi bồi bàn, kêu một ly vang đỏ.
Gần như ngay sau khi ly vang được mang ra, có một ông cụ chơi đàn accordion đội mũ phớt, khoác chiếc ghi lê nhầu nhĩ, dắt theo một con chó tai nhọn đi tới. Với đôi tay thành thục, ông buộc sợi dây xích chó vào cây đèn đường giống như cột ngựa, đứng như tựa vào đó, rồi bắt đầu chơi một bản nhạc theo phong cách dân ca Bắc Âu. Một bài biểu diễn điêu luyện được trau dồi qua năm tháng, cũng có người hát theo. Rồi ai đó yêu cầu và bài “Don’t be cruel” của Elvis Presley được hát bằng tiếng Phần Lan. Con chó đen còm cõi ngồi đó, chẳng buồn để mắt tới xung quanh, chỉ chong chong nhìn vào một điểm trên không trung như đang hồi tưởng lại điều gì. Nó chẳng buồn vẫy tai lấy một cái.
“Cuộc đời chúng ta có những thứ thật khó để giải thích dù bằng ngôn ngữ nào.” Olga đã nói thế.
Quả đúng như vậy, Tsukuru vừa nhấm nháp rượu vang vừa nghĩ. Không chỉ với người khác. Mà ngay cả với chính mình, thì việc giải thích cũng là quá khó. Và nếu cứ cố để giải thích cho bằng được, thì đâu đó sẽ thành ra dối trá. Dù gì đi nữa, khi ngày mai tới, chắc chắn có nhiều chuyện sẽ trở nên sáng tỏ hơn lúc này. Hãy cứ chờ đợi. Và dù cho không sáng tỏ thì cũng có sao đâu, đành phải vậy thôi. Tazaki Tsukuru thiếu màu vẫn cứ tiếp tục sống với sự thiếu màu, điều đó đâu có quấy rầy gì ai.
Gã nghĩ đến Sara, đến chiếc váy liền thân màu xanh bạc hà, tiếng cười rạng rỡ và người đàn ông trung niên mà nàng nắm tay đi trên phố. Thế nhưng ý nghĩ ấy cũng chẳng đưa gã tới đâu. Lòng người là cánh chim đêm, nó âm thầm chờ đợi điều gì, rồi khi thời cơ đến, nó sẽ bay vút đi thẳng tắp về phía đó.
Gã nhắm mắt, lắng nghe những âm sắc của chiếc accordion. Giai điệu đơn điệu ấy phải luồn qua những tiếng chuyện trò huyên náo để đến được tai gã, tựa như tiếng còi báo sương mù sắp sửa bị âm thanh của thủy triều át mất.
Chỉ uống hết nửa ly rượu vang, Tsukuru đặt lên bàn tờ tiền cùng ít xu lẻ mà theo gã là đủ và đứng dậy. Gã thả vài đồng xu Euro vào trong chiếc mũ đặt trước mặt người chơi đàn accordion, rồi bắt chước mọi người sờ vào đầu con chó bị buộc ở cột đèn lúc đi ngang qua. Song con chó cũng chẳng buồn động đậy, như thể đang đóng giả một đồ vật trang trí. Sau đó, gã thong thả cất bước về phía khách sạn. Gã tạt vào một ki ốt trên đường, mua nước khoáng và bản đồ chi tiết hơn của vùng phía Nam Phần Lan.
Trong công viên được bố trí ngay chính giữa đại lộ có một dãy bàn cờ vua bằng đá gắn cố định, mọi người đang say sưa tỷ thí bằng những quân cờ mang theo. Tất cả đều là đàn ông, và hầu hết là bậc cao niên. Khác với những người trong quán pizzeria, họ trầm lặng từ đầu đến cuối. Những người đứng xem xung quanh cũng trầm lặng, bởi vì cần im lặng để có thể nghĩ cho kỹ. Phần lớn những người qua đường đều dắt theo chó, và lũ chó cũng trầm lặng. Trong lúc bước đi trên phố, mùi cá nướng, rồi mùi kebab chốc chốc lại theo gió bay tới. Đã sắp chín giờ tối, vậy mà hàng hoa vẫn mở cửa, những đóa hoa mùa hạ muôn màu được xếp thành hàng, như thế quên phắt mất rằng đêm đã xuống.
Gã yêu cầu lễ tân khách sạn gọi báo thức vào lúc bảy giờ sáng. Sau đó chợt nhớ ra, gã bèn hỏi thử: “Ở gần đây có bể bơi không?”
Nhân viên khách sạn sẽ nhíu mày, nghĩ ngợi, rồi lắc đầu một cách lịch sự. Như thể ăn năn về sự thiếu sót của lịch sử quốc gia. “Xin lỗi ngài, nhưng ở gần đây không có bể bơi.”
Gã về phòng, khép kín tấm rèm dày bịch nơi cửa sổ để ngăn ánh sáng từ bên ngoài lọt vào, sau đó cởi quần áo và lên giường. Mặc dầu vậy, ánh sáng, giống như một ký ức cũ không dễ dàng xóa bỏ, vẫn lọt vào từ đâu đó. Trong lúc nhìn lên trần nhà mờ tối của căn phòng, gã chợt cảm thấy thật kỳ lạ vì mình đang ở Helsinki chứ không phải Nagoya để thăm Đen. Bầu trời sáng bạch đặc trưng của đêm Bắc Âu gây ra trong lòng gã một sự run rẩy khó tả. Cơ thể thì thèm ngủ, trong khi đầu óc lại muốn tỉnh táo ít lâu.
Sau đó gã nghĩ đến Trắng. Đã lâu rồi gã không chiêm bao thấy cô. Ngày xưa gã hay bắt gặp những giấc mơ có cô xuất hiện. Phần lớn trường hợp là mộng tinh, gã sẽ phóng tinh dữ dội vào trong cô. Thế rồi khi thức dậy, gã thường bị đeo bám bởi những ý nghĩ phức tạp trong lúc giặt chiếc quần lót vấy bẩn vì tinh dịch ở bồn rửa mặt. Một cảm xúc rối rắm kỳ lạ, khó mà phân tách được giữa cảm giác tội lỗi và sự thèm muốn mãnh liệt. Đó có lẽ là thứ cảm xúc đặc biệt, chỉ được sinh ra ở một nơi tối tăm, không ai biết tới, nơi mà hiện thực và phi hiện thực len lén trộn lẫn vào nhau. Gã thấy thèm thuồng cảm xúc ấy một cách kỳ lạ. Mơ thế nào cũng được, cảm giác thế nào cũng được, miễn là được chiêm bao thấy Trắng một lần nữa.
Cuối cùng giấc ngủ cũng tìm đến, nhưng chẳng có giấc mơ nào.
Tazaki Tsukuru Không Màu Và Những Năm Tháng Hành Hương Tazaki Tsukuru Không Màu Và Những Năm Tháng Hành Hương - Haruki Murakami Tazaki Tsukuru Không Màu Và Những Năm Tháng Hành Hương