Books support us in our solitude and keep us from being a burden to ourselves.

Jeremy Collier

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Dịch giả: Hồ Thanh Ái
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 41
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 6271 / 109
Cập nhật: 2017-04-18 13:32:36 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5 - Thư Nhà
rong ba tuần kế tiếp, Anne và Priscilla tiếp tục cảm thấy mình là người lạ giữa một vùng đất chưa quen. Rồi đột nhiên mọi việc trở nên đâu vào đó, Redmond, giáo sư, giờ học, sinh viên, học tập, giao tế. Cuộc sống trở lại liên tục, không còn là những mảnh vỡ rời rạc nữa. Sinh viên năm nhất, thay vì là tập hợp những cá nhân đơn lẻ, giờ đã chuyển mình thành một lớp, có tinh thần đồng đội, khẩu lệnh, sở thích, kẻ thù và tham vọng chung. Họ chiến thắng sinh viên năm hai trong trận giao đấu hữu nghị nghệ thuật hằng năm, nhờ vậy chiếm được sự tôn trọng của các lớp còn lại, cộng thêm cảm giác tự tin khổng lồ về bản thân. Trong ba năm liền, sinh viên năm hai đều chiến thắng trận giao đấu, và chiến thắng năm nay của lớp sinh viên năm nhất là nhờ vào sự lãnh đạo đầy chiến lược của Gilbert Blythe, người tổ chức chiến dịch và phát minh ra những kế sách mới, làm lớp năm hai mất tinh thần và đưa lớp năm nhất đến chiến thắng. Để tưởng thưởng, anh được bầu làm lớp trưởng, một chức vụ đầy vinh dự và trách nhiệm được bao người thèm muốn, ít nhất là trong mắt sinh viên năm nhất. Anh cũng được mời gia nhập câu lạc bộ Lamb, tiếng gọi tắt của dân Redmond cho tên Lamba Theta, một vinh dự hiếm khi dành cho sinh viên năm nhất. Để thử thách trước khi chính thức gia nhập, anh phải đi diễu hành trên các đường phố chính của Kingsport suốt cả ngày trời, đội mũ rộng vành và mặc tạp dề làm bếp thùng thình bằng vải trúc bâu hoa hòe hoa sói. Anh vui vẻ làm theo yêu cầu, nhấc mũ rộng vành với vẻ lịch thiệp mỗi khi gặp phải các quý bà quý cô quen biết. Charlie Sloane, vốn không được mời gia nhập hội Lamb, nói với Anne là anh chẳng hiểu nổi làm sao Blythe có thể vượt qua nổi thử thách, và chính anh đây sẽ chẳng bao giờ hạ thấp bản thân như thế.
“Tưởng tượng Charlie Sloane trong một cái tạp dề ‘khoa khòe’ và một chiếc nón ‘rộng dành’ xem,” Priscilla cười khúc khích. “Cậu ta sẽ giống y hệt bà nội Sloane. Gilbert nhìn vẫn rất đàn ông, chẳng kém khi cậu ấy mặc lễ phục là bao nhiêu.”
Anne và Priscilla bị cuốn vào vòng xoay giao tế ở Redmond. Họ hòa nhập nhanh chóng như vậy đa phần là nhờ vào Philippa Gordon. Philippa là con gái của một người giàu có và nổi tiếng, thuộc về một gia đình “Mũi xanh” danh giá lâu đời. Điều này kết hợp với vẻ đẹp và sức quyến rũ của cô, sức quyến rũ mà ai gặp cô rồi cũng phải công nhận, đã mở toang mọi cánh cửa của các hội đoàn, câu lạc bộ và lớp học ở Redmond, và nơi nào cô đặt chân tới thì Anne và Priscilla cũng cùng đi theo. Phil “mê tít” Anne và Priscilla, đặc biệt là Anne. Cô là một cô bé cực kỳ trung thành, hoàn toàn không có tí tẹo trịch thượng nào. “Chơi với tớ thì phải chơi với cả bạn tớ,” hình như là tôn chỉ không nói ra lời của cô. Không cần nỗ lực chút nào, cô kéo hai người bạn vào vòng tròn xã giao ngày càng mở rộng của mình, và hai cô gái làng Avonlea thấy các mối quan hệ xã hội đến với mình rất dễ dàng và vui vẻ, khiến các nữ sinh ma mới còn lại không khỏi ngưỡng mộ và ghen tỵ. Bọn họ không được Philippa bảo trợ nên bị ra rìa trong suốt năm học đầu tiên.
Trước quan điểm sống chín chắn hơn của Anne và Priscilla, Phil vẫn là một cô bé đáng yêu dễ mến như cô đã thể hiện trong lần gặp đầu tiên. Thế nhưng, đúng như cô cũng đã nói, cô có “hàng đống” não. Thời gian và địa điểm học hành của cô vẫn là một bí mật, vì lúc nào cô cũng được lôi kéo tham dự một trò “vui thú” nào đó, các buổi tối nhà cô chật kín những kẻ viếng thăm. Cô có vô số “người ngưỡng mộ” đủ đáp ứng khao khát của mọi cô gái, vì chín phần mười đám nam sinh năm nhất và một tỷ lệ khá lớn các lớp còn lại tranh giành từng nụ cười của cô. Cô vui sướng một cách hết sức trong sáng về việc này, và hớn hở kể từng cuộc chinh phục mới cho Anne và Priscilla nghe, kèm theo bình luận có thể khiến cho lỗ tai chàng si tình kém may mắn bỏng ran vì xấu hổ.
“Alec và Alonzo xem ra vẫn chưa có đối thủ nào đáng kể,” Anne trêu.
“Chẳng có ai,” Philippa đồng ý. “Tớ viết thư cho cả hai mỗi tuần và kể cho họ nghe về tất cả các chàng trai theo đuổi ở đây. Tớ chắc là họ cũng lấy làm thú vị lắm. Nhưng, đương nhiên, người tớ thích nhất thì tớ chẳng chiếm được. Gilbert Blythe chẳng thèm để ý gì đến tớ cả, anh ta có nhìn tớ thì cũng chỉ như nhìn con mèo con đáng được vuốt ve thôi. Tớ biết rõ lý do mà. Nữ hoàng Anne, tớ thù cậu lắm đấy nhé. Lẽ ra tớ phải ghét cậu, thế mà tớ lại yêu cậu chết đi được, và tớ sẽ phát rồ nếu không nhìn thấy cậu mỗi ngày. Cậu khác hẳn với các cô gái tớ biết trước giờ. Khi cậu nhìn tớ theo một kiểu nào đó, tớ cảm thấy mình đúng là một con quái vật tầm thường phù phiếm, tớ ước gì tớ có thể trở nên mạnh mẽ, tốt đẹp và thông minh hơn. Thế là tớ quyết tâm thay đổi bản thân, nhưng chỉ cần một anh chàng đẹp trai xuất hiện trong tầm mắt là tớ quên hết tất cả. Cuộc đời sinh viên tuyệt vời quá phải không? Thật tức cười khi nhớ lại là ngày đầu tiên tớ ghét nó biết bao. Nhưng nếu tớ không cảm thấy như vậy, chắc tớ chẳng bao giờ thực sự làm quen được với cậu. Anne ơi, làm ơn nói với tớ một lần nữa là cậu thích tớ một chút xíu đi. Tớ khao khát được nghe câu nói đó.”
“Tớ thích cậu rất nhiều xíu, và tớ nghĩ cậu là một... con mèo con dễ thương, ngọt ngào, đáng yêu, mịn như nhung và chẳng có chút móng vuốt nào,” Anne phá lên cười, “nhưng tớ không biết cậu học bài vào lúc nào nữa.”
Phil rõ ràng là có dành thời gian để học, vì cô được điểm cao trong tất cả các môn học. Ngay cả vị giáo sư Toán già khó tính căm ghét việc nam nữ học chung, chua chát phản đối việc cho phép nữ sinh vào Redmond, cũng không thể đánh rớt được cô. Cô dẫn đầu các nữ sinh năm nhất trong tất cả các môn, trừ môn Văn, môn này thì Anne Shirley bỏ xa cô. Chính Anne cũng thấy các môn học năm nhất rất dễ dàng, chủ yếu nhờ cô và Gilbert đã không ngừng chăm chỉ ôn tập suốt hai năm vừa qua ở Avonlea.
Nhờ vậy, cô có nhiều thời gian cho các hoạt động xã giao mà cô rất thích thú. Nhưng chẳng giây phút nào cô quên được Avonlea và bạn bè của mình ở nhà. Đối với cô, giây phút vui sướng nhất mỗi tuần là khi nhận được thư nhà. Cho đến khi nhận được những lá thư đầu tiên, cô mới bắt đầu nghĩ mình có thể yêu Kingsport và cảm thấy gần gũi với nơi này. Trước khi nhận được thư, Avonlea dường như cách nơi này cả ngàn dặm, nhưng những lá thư kéo nó lại gần hơn, gắn kết cuộc sống cũ và mới lại với nhau khiến chúng chỉ là một và duy nhất, chứ không phải là hai cuộc sống tách biệt không có chút liên hệ nào. Đợt thư đầu tiên có sáu lá, của Jane Andrews, Ruby Gillis, Diana Barry, Marilla, bà Lynde và Davy. Lá thư của Jane chẳng khác nào một bản in mẫu, mỗi chữ “t” đều gạch ngang chỉn chu, và mỗi chữ “i” có một dấu chấm ngay ngắn, trong thư chẳng có một câu nào thú vị cả. Cô chẳng hề nhắc đến trường học, điều mà Anne khao khát muốn biết, cô thậm chí chả hề trả lời câu hỏi nào trong thư của Anne. Nhưng cô kể cho Anne nghe cô đã móc được bao nhiêu thước đăng ten, thời tiết ở Avonlea thế nào, kiểu váy mới cô định may, và cảm giác của cô khi đầu bị nhức. Ruby Gillis viết hẳn một bài văn dài thườn thượt than thở về sự vắng mặt của Anne, khẳng định ai cũng nhớ cô muốn chết, hỏi xem các “bạn học” Redmond thế nào, phần còn lại của lá thư là bản kê khai về những kinh nghiệm đau đớn của cô với hàng đống người ngưỡng mộ. Đó là một lá thư ngớ ngẩn vô hại, Anne hẳn đã lấy nó làm trò vui nếu không đọc đến phần tái bút. “Theo mấy lá thư của Gilbert thì cậu ấy có vẻ thích Redmond đấy,” Ruby viết. “Tớ không nghĩ là Charlie thích nơi đó.”
Vậy là Gilbert có liên lạc với Ruby! Tốt lắm. Đương nhiên, anh ta có quyền làm thế mà. Chỉ là...!!! Anne không biết rằng Ruby đã viết thư trước, Gilbert chỉ trả lời theo phép lịch sự thôi. Cô khinh bỉ quăng lá thư của Ruby sang một bên. Nhưng nỗi nhức nhối do dòng tái bút đó gây nên chỉ phai nhạt đi sau lá thư phấn khởi đầy những tin tức thú vị của Diana. Thư của Diana nhắc đến Fred có phần nhiều hơn mức cần thiết, nhưng dù sao cũng tràn đầy những điều đáng quan tâm, và Anne cảm thấy như mình đang ở Avonlea khi đọc bức thư đó. Lá thư của bà Marilla khá cứng ngắc và vô vị, hoàn toàn chẳng có chút buôn chuyện hay chút tình cảm nào. Nhưng bằng cách nào đó, nó vẫn gợi lại cho Anne chút hơi hướm của cuộc sống đơn giản lành mạnh ở Chái Nhà Xanh, với mùi vị thanh thản cổ xưa và tình yêu vĩnh viễn không hề thay đổi dành cho cô. Thư của bà Lynde thì đầy tin tức về công việc nhà thờ. Sau khi thoát khỏi công việc nội trợ, bà Lynde có nhiều thời gian hơn hẳn để cống hiến cho nhà thờ, và dành hết trái tim cùng sức lực vào đó. Hiện giờ, bà đang khá bực bội vì những “người thử việc” kém cỏi nhăm nhe vị trí giảng đạo đang bỏ trống ở Avonlea.
“Ta nghĩ giờ chắc chỉ có những tay khờ khạo mới làm linh mục,” bà chua chát viết. “Họ đã gửi tới cho chúng ta những loại ứng cử viên nào cơ chứ, và những bài giảng khủng khiếp làm sao! Phân nửa đều sai toét cả, và còn tệ hơn thế, nghe chẳng có vẻ đạo mạo chút nào. Ứng cử viên hiện tại là tệ hại nhất. Ông ta cứ trích ra một đoạn kinh, xong rồi lại giảng giải về một vấn đề khác. Và ông ta nói mình không tin tất cả bọn ngoại đạo đều phải xuống địa ngục. Ối trời ơi! Nếu không phải vậy thì số tiền chúng ta đóng góp cho hội truyền giáo quá phí phạm đi, thế đấy! Tối Chủ nhật trước, ông ta tuyên bố Chủ nhật tới ông ta sẽ giảng về lưỡi rìu nổi lên mặt nước. Ta nghĩ ông ta tốt nhất hãy tự giới hạn mình trong Kinh Thánh và tránh xa các chủ đề giật gân ra. Thế giới này đảo lộn tùng phèo lên cả rồi, mục sư mà lại không thể tìm được chủ đề nào đó để giảng giải trong Kinh Thánh, thế đấy. Anne, cháu đi nhà thờ nào? Ta mong cháu đi nhà thờ thường xuyên. Người ta thường quên bẵng việc đi nhà thờ khi xa nhà, ta biết đám sinh viên đại học toàn là những con chiên tội lỗi về vấn đề này. Ta nghe nói có nhiều đứa còn học bài vào Chủ nhật nữa chứ. Ta hy vọng cháu sẽ chẳng bao giờ tệ đến mức ấy, Anne ạ. Nhớ lấy chúng ta đã nuôi dạy cháu thế nào. Và hãy cẩn thận khi làm quen với bạn mới. Cháu chẳng biết được loại người nào đi học đại học đâu. Bên ngoài thì trắng tinh tươm như bia mộ ấy, nhưng bên trong thì y hệt con sói đen sì, thế đấy. Tốt nhất là cháu đừng có nói chuyện với đám trai trẻ không phải dân Đảo.
“Ta quên không kể cho cháu nghe chuyện xảy ra hôm mục sư đến thăm nhà. Đó là chuyện tức cười nhất mà ta từng thấy. Tôi bảo Marilla, ‘Nếu Anne có ở đây, chắc nó cười dữ lắm đấy.’ Ngay cả Marilla cũng phá lên cười. Cháu biết đấy, ông mục sư khá nhỏ con, lùn, mập, chân vòng kiềng. Và, cái con lợn già nhà ông Harrison, cái con vừa to vừa cao ấy, hôm đó đi lang thang sang nhà mình, xông vào sân, chui vào hiên sau mà chẳng ai biết, nó xuất hiện ngay đó khi viên mục sư bước vào cửa. Nó nhào mạnh tới để thoát ra, nhưng chẳng có chỗ nào để thoát ngoại trừ khoảng trống giữa đôi chân vòng kiềng của ông mục sư. Thế là nó chui ra theo lối ấy, nhưng vì nó quá to, mà ông mục sư lại quá nhỏ con, nó cõng luôn ông ta lên lưng và phóng đi. Mũ ông ta văng một đằng, gậy văng một ngả ngay khi Marilla và ta ra đến cửa. Ta chẳng bao giờ quên được bộ dạng ông ta lúc đó. Và con lợn tội nghiệp thì sợ phát khiếp. Ta sẽ chẳng bao giờ có thể đọc đoạn Kinh Thánh nói về bầy lợn chạy điên cuồng xuống dốc lao xuống biển[9] mà không tưởng tượng ra cảnh con lợn nhà ông Harrison chạy hết tốc lực xuống đồi với ông mục sư. Ta đoán con lợn nghĩ là nó đang cõng Quỷ sứ trên lưng chứ không phải mang hắn trong mình. Thật may là hai đứa sinh đôi không có mặt. Để chúng nhìn thấy một mục sư trong tình trạng chẳng đường hoàng chút nào thì thật không đúng đắn. Ngay trước khi đến dòng suối, ông mục sư nhảy ra, hay là bị té lăn ra thì đúng hơn. Con lợn điên cuồng băng qua dòng suối và chạy thẳng vào rừng. Marilla và ta chạy xuống giúp ông mục sư đứng dậy và phủi áo cho ông ta. Ông ta không bị thương nhưng tức điên lên. Dường như ông ta cho rằng Marilla và ta bày ra mọi chuyện, dẫu bọn ta nói rõ con lợn không phải là của nhà, và nó phá phách nhà chúng ta suốt cả mùa hè rồi. Hơn nữa, ông ta vòng ra cửa sau làm quái gì? Cháu sẽ chẳng bao giờ thấy ông Allan làm điều đó. Cũng còn lâu lắm chúng ta mới kiếm được một người như ông Allan. Nhưng trong cái xui cũng có cái hên. Bọn ta chẳng bao giờ thấy một cọng lông hay một vết chân của con lợn ấy nữa, và ta tin là bọn ta đã được giải thoát khỏi nó.
[9]. Tân ước, Phúc âm theo thánh Matthew 8, Phúc âm theo thánh Mark 5: Jesus gặp người bị quỷ ám, lệnh cho quỷ rời khỏi người ấy và nhập vào đàn lợn đang ăn gần đó; cả đàn lợn lao xuống biển chết.
“Mọi chuyện diễn ra khá êm đềm ở Avonlea. Ta không thấy Chái Nhà Xanh quá cô độc như ta từng nghĩ. Ta định làm một cái chăn bông nữa cho mùa đông này.
Bà Silas Sloane có một mẫu thêu lá táo mới nhìn rất đẹp.
“Khi ta muốn có chút hứng khởi, ta đọc các vụ án mạng đăng trên tờ báo Boston cháu gái ta gửi. Ta chưa làm thế bao giờ, nhưng chúng thật hấp dẫn. Nước Mỹ hẳn là một nơi thật khủng khiếp. Hy vọng cháu chẳng bao giờ phải đi đến đó, Anne ạ. Nhưng bọn con gái ngày nay đi khắp trái đất, thật khủng khiếp. Nó luôn gợi cho ta nhớ đến Satan trong sách Job, đi qua đi lại, đi lên đi xuống. Ta nghĩ Chúa trời không hề muốn như vậy đâu, thế đấy.
“Kể từ khi cháu đi thì Davy khá là ngoan. Có một hôm nó hư nên bị Marilla phạt đeo tạp dề của Dora suốt ngày, sau đó nó cắt nát hết tất cả tạp dề của Dora. Ta đánh nó một trận, thế là nó đuổi theo con gà trống của ta cho đến khi con gà chết ngắc.
“Gia đình MacPherson đã chuyển đến nhà cũ của ta. Bà MacPherson là một người nội trợ giỏi giang tuy có phần kỳ quặc. Bà ấy nhổ sạch mấy bông loa kèn tháng Sáu của ta vì chúng làm khu vườn lộn xộn quá. Hoa ấy Thomas trồng khi chúng ta cưới nhau. Chồng bà ta coi cũng tử tế, nhưng bà ta hình như chưa tỉnh lại từ thời kỳ làm gái già, thế đấy.
“Đừng học hành vất vả quá, nhớ để ý mặc quần áo ấm ngay khi thời tiết trở lạnh. Marilla lo lắng cho cháu lắm, nhưng ta bảo bà ấy là cháu khôn ngoan hơn hẳn so với trước kia ta vẫn tưởng, và cháu sẽ ổn thôi.” Thư của Davy bắt đầu bằng lời kêu rên.
“Cô anne yêu dấu, xin hãy viết thư bảo bà marilla đừng trói cháu vào trụ cầu khi cháu đi câu cá bọn con trai trêu chọc cháu dữ lắm khi bà ấy làm thế. Không có cô thì buồn khủng khiếp nhưng ở trường thì dất vui. Jane andrews dữ hơn cô. Cháu bắt ma trơi dọa bà lynde tối qua. Lúc nào bà ấy cũng bực bội, bà ấy bực vì cháu dí con gà trống già chạy dòng dòng quanh sân cho tới khi nó chết ngắc. Cháu không muốn làm nó chết mà. Cô anne, sao nó lại chết, cháu muốn biết. bà lynde ném nó vào chuồng lợn bà ấy có thể bán nó cho ông blair. ông blair mua gà trống chết còn ngon lành với giá 50 su. Cháu nghe bà lynde nhờ mục sư cầu nguyện giùm cho bà ấy. Bà ấy làm chuyện xấu gì vậy hả cô anne, cháu muốn biết. Cháu có một con diều với cái đuôi hết xẩy, cô anne ạ. Milty bolter kể cho cháu nghe một chuyện dất hay trong lớp hôm qua. chuyện thật đấy. ông già Joe Mosey và Leon đang chơi bài đêm tuần qua trong rừng. Bài đặt trên một gốc cây và một người đàn ông to lớn đen thùi to hơn cái cây đi tới chộp lấy bài và gốc cây và biến mất với tiếng động rầm rầm như sấm. Cháu đoán là họ sợ hết hồn. Milty nói người đàn ông đen là quỷ xứ đấy, phải vậy không hở cô anne, cháu muốn biết. Ông kimball ở spenservale bệnh nặng và phải đi bệnh diện. đợi cháu chút để cháu hỏi bà marilla coi viết vậy đúng chưa. Bà marilla nói là ông ta đi bệnh diện tâm thần thì có. Ông ta nghĩ có một con rắn trong người, có con rắn trong người là sao hở cô anne. Cháu muốn biết. bà lawrence bell cũng bị bệnh. bà lynde nói vấn đề duy nhất của bà ta là bà ta nghĩ quá nhiều về những thứ bên trong bà ấy.”
“Mình tự hỏi,” Anne nói khi gấp các lá thư lại, “bà Lynde sẽ nghĩ gì về Phillippa đây.”
Tập 3 - Anne Tóc Đỏ Ở Đảo Hoàng Tử Edward Tập 3 - Anne Tóc Đỏ Ở Đảo Hoàng Tử Edward - Lucy Maud Montgomery Tập 3 - Anne Tóc Đỏ Ở Đảo Hoàng Tử Edward