When they asked me what I loved most about life, I smiled and said you.

Unknown

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Dịch giả: Hồ Thanh Ái
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 41
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 6271 / 110
Cập nhật: 2017-04-18 13:32:36 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4 - Quý Bà Tháng Tư
ingsport là một thị trấn cổ duyên dáng, được thành lập từ thời kỳ đô hộ đầu tiên, và chìm đắm trong bầu không khí cổ xưa cứ như một quý bà xinh đẹp lớn tuổi vẫn ăn mặc như thuở còn thiếu nữ. Có đôi chỗ lộ vẻ hiện đại, nhưng từ trong bản chất, thị trấn vẫn còn nguyên vẹn như xưa, đầy những dấu tích kỳ dị và lấp lánh hào quang của những truyền thuyết trong quá khứ. Xưa kia đây chỉ là một tiền trạm mấp mé vùng hoang dã, và có thời người da đỏ đã giúp cho cuộc sống của những người định cư nơi này bớt phần đơn điệu. Rồi nó lớn lên, trở thành khúc xương bị giành giật giữa người Anh và người Pháp, lúc thì bị bên này chiếm, lúc thì bị bên kia chiếm, mỗi lần lại xuất hiện thêm vài vết sẹo mới do các quốc gia tham chiến khắc lên.
Trong công viên có một tháp canh bị du khách ký tên khắp bốn bề, một pháo đài Pháp cũ đã bị dỡ sạch trên đồi bên ngoài thị trấn, và vài ba khẩu đại bác cổ lỗ sĩ đặt ở các quảng trường công cộng. Thị trấn cũng có vài ba di tích lịch sử có thể tìm thấy được nếu đủ tò mò, và chẳng có nơi nào duyên dáng và đẹp đẽ như nghĩa địa Cựu St. John ở ngay trung tâm thị trấn, hai phía là những con đường san sát những căn nhà cũ kỹ yên tĩnh, và hai phía còn lại là đường phố hiện đại bận bịu ồn ã. Mỗi cư dân của Kingsport đều tự hào về Cựu St. John, vì nếu quả thật là người “có gốc có rễ”, họ sẽ có tổ tiên được chôn ở đó, với một tấm bia kỳ dị cong oằn trên đầu, hay trải rộng ra bảo vệ cả ngôi mộ, ở trên ghi chi chít những chi tiết cuộc đời của người nằm bên trong. Đa số các tấm bia mộ chẳng hề được chạm trổ khéo léo nghệ thuật gì. Phần lớn chỉ là mấy tảng đá địa phương màu nâu hay xám bị đẽo gọt vụng về, hiếm hoi lắm mới được điêu khắc trang hoàng thêm chút ít. Một vài bia mộ được tô điểm đầu lâu xương chéo, mẫu trang trí ghê rợn này lại thường đi kèm với đầu thiên sứ. Nhiều bia đã ngã rạp và hư hại nghiêm trọng. Hầu hết bia mộ đều bị hàm răng Thời gian gặm nhấm, cho đến khi chữ viết bên trên bị xóa đi hoàn toàn, những chữ còn sót lại khó khăn lắm mới nhận ra được. Nghĩa địa rộng đầy chật mộ và rợp bóng cây, những hàng du và liễu mọc đan xen bao quanh nghĩa địa, dưới bóng cây, người quá cố nằm ngủ say không mộng mị, được gió và lá ngâm nga hát ru trong một giai điệu vĩnh cửu, chẳng hề bị làm phiền bởi tiếng xe cộ ồn ào bên ngoài.
Buổi chiều hôm sau, Anne bắt đầu chuyến thăm đầu tiên mở đầu cho nhiều chuyến nữa tới nghĩa địa Cựu St. John. Hồi sáng, cô và Priscilla đến Redmond để đăng ký nhập học, sau đó thì họ chẳng còn nhiệm vụ gì khác trong ngày. Hai cô gái vui sướng khi thoát khỏi đó, vì bị hàng đống người lạ vây quanh thì chẳng đáng phấn khởi chút nào, nhất là bọn họ hầu như đều có bề ngoài xa lạ, cứ như chẳng biết là họ đến từ đâu cả.
Mấy cô nàng “ma mới” đứng túm tụm thành nhóm hai ba người, e dè nhìn nhau, đám ma mới nam sinh thì có vẻ thạo đời hơn, tụ tập nơi cầu thang lớn ở tiền sảnh, hát hò và gào hết sức từ lồng ngực trẻ trung như một hành động thách thức kẻ thù truyền thống của bọn họ: sinh viên năm hai. Vài sinh viên năm hai trịch thượng lảng vảng một ở gần đó, đầy vẻ khinh bỉ đám “vắt mũi chưa sạch” trên cầu thang. Chẳng thấy Gilbert và Charlie đâu.
“Tớ chẳng bao giờ nghĩ là có thể vui sướng nổi khi nhìn thấy một tay họ Sloane,” Priscilla nói khi họ băng qua khuôn viên trường, “nhưng bây giờ tớ sẵn sàng vui mừng đón tiếp đôi mắt lồi của Charlie. Ít nhất thì đó cũng là một đôi mắt quen thuộc.”
“Ôi,” Anne thở dài. “Tớ chẳng diễn tả nổi cảm giác của mình khi đứng chờ đăng ký - tầm thường như một giọt nước bé tí tẹo trong một xô nước khổng lồ. Cảm thấy mình tầm thường đã tệ rồi, nhưng bị cái mác tầm thường đấy in sâu vào linh hồn, cảm thấy tớ sẽ chẳng bao giờ, chẳng bao giờ có thể vượt qua khỏi cái mức tầm thường ấy, thì không chịu đựng nổi, mà đó chính là cảm giác khi nãy của tớ, cứ như tớ vô hình nếu không dùng kính lúp mà soi, và vài tay sinh viên năm hai sẽ giẫm lên tớ mà đi. Tớ biết tớ sẽ đi xuống mồ, chẳng được ai khóc thương, chẳng được ai tôn trọng, chẳng được ai ca ngợi.”
“Đợi tới sang năm đi,” Priscilla an ủi. “Khi ấy chúng ta sẽ có vẻ ngoài chán chường và thạo đời chẳng kém gì bọn sinh viên năm hai bây giờ. Đương nhiên, cảm thấy tầm thường nhỏ nhoi thì khá là tệ, nhưng còn hơn là cảm thấy to đùng vụng về như tớ, cứ như tớ phình tướng ra choán hết Redmond vậy. Đó là cảm giác của tớ đấy, có lẽ vì tớ cao hơn đám đông cả hai phân. Tớ không sợ bị các tay sinh viên năm hai giẫm đạp, tớ sợ họ tưởng tớ là một con voi, hay là điển hình một dân Đảo ăn toàn khoai tây quá cỡ.”
“Tớ nghĩ vấn đề nằm ở chỗ chúng ta không chấp nhận nổi thực tế trường Redmond to lớn này không thể giống y hệt trường Queen nhỏ bé,” Anne cố gắng gom góp những mảnh vụn triết lý lạc quan cũ của mình lại để che đi cảm giác trần trụi của linh hồn. “Khi rời Queen, chúng ta biết hết mọi người ở đó và biết vị trí riêng của mình. Tớ cho là trong vô thức, chúng ta mong là cuộc sống của Redmond nối tiếp cuộc sống ở Queen, và giờ thì ta cảm thấy như đất đang bị trượt dưới chân vậy. Tạ ơn Chúa là bà Lynde và bà Elisha Wright không biết và chẳng bao giờ biết suy nghĩ của tớ hiện giờ. Họ sẽ hả hê mà nói ‘đã bảo rồi mà không nghe’, và tin chắc rằng đây là bắt đầu của sự kết thúc. Trong khi đây chỉ là kết thúc của sự khởi đầu mà thôi.”
“Chính xác. Giống Anne hơn rồi đấy. Một thời gian nữa, chúng ta sẽ quen nước quen cái, quen bạn quen bè, mọi việc sẽ ổn thôi. Anne, cậu có để ý cô gái đứng một mình bên ngoài cửa phòng thay đồ chung cả buổi sáng không, cô nàng xinh đẹp mắt nâu môi hơi trề ra ấy?”
“Có chứ. Tớ để ý đến cô nàng vì cô nàng dường như là sinh vật duy nhất nơi này trông có vẻ cô độc và lạc lõng y như cảm giác của tớ. Tớ có cậu, nhưng cô nàng thì chả có ai cả.”
“Tớ nghĩ cô nàng chắc cũng cảm thấy cô đơn. Thỉnh thoảng tớ thấy cô nàng dợm chân định bước về phía chúng ta, nhưng rồi lại thôi, quá nhút nhát, tớ nghĩ thế. Tớ ước cô nàng chịu đi qua đây. Nếu không cảm thấy quá giống con voi cỡ bự, tớ đã đến chỗ cô nàng rồi. Nhưng tớ không thể hùng hục băng qua cái sảnh to đùng ấy trong khi bọn con trai đang hú hét trên cầu thang. Cô nàng là ma mới xinh đẹp nhất mà tớ thấy hôm nay, nhưng có lẽ thiên ân là lừa dối, nhan sắc chẳng có giá trị gì[6] trong ngày đầu tiên ở Redmond,” Priscilla kết thúc và phá lên cười.
[6]. Cựu ước, sách Cách Ngôn, 31:30.
“Sau bữa trưa tớ sẽ đi đến Cựu St. John,” Anne nói. “Tớ không nghĩ nghĩa địa là nơi phù hợp để lên dây cót tinh thần, nhưng đó là nơi duy nhất trong tầm chân mà có nhiều cây cối, tớ cần phải ở gần cây thôi. Tớ sẽ ngồi trên một phiến đá cũ, nhắm mắt lại và tưởng tượng rằng mình đang ở trong rừng Avonlea.”
Thế nhưng Anne không có dịp làm vậy, vì ở Cựu St. John cô phát hiện ra có quá nhiều thứ thú vị đáng cho cô mở to mắt ngắm nhìn. Họ đi vào từ cổng chính, băng qua vòm đá đơn giản đồ sộ có con sư tử biểu tượng Anh quốc cưỡi lên phía trên.
“‘Ở Inkerman, bụi gai dại vấy máu, Và những đỉnh cao hoang vắng từ nay sẽ nổi tiếng trong truyền thuyết.’”[7] Anne ngâm nga và nhìn quanh đầy hứng khởi. Họ thấy mình đang đứng ở một khoảng xanh âm u mát mẻ, tiếng gió ngân nga. Đi lên đi xuống dọc những lối đi cỏ mọc cao, họ thong thả đọc những đoạn văn bia cổ kính dài dòng, được khắc chạm vào thời kỳ cuộc sống thong thả hơn hẳn hiện giờ.
[7]. Trích truyện thơ Lucile của Owen Meredith.
“‘Nơi đây an nghỉ ông Albert Crawford,’” Anne đọc từ một bia mộ màu xám đã mòn, “‘từng là người quản lý hậu cần của hoàng gia ở Kingsport nhiều năm liền. Ông phục vụ trong quân đội cho đến khi hòa bình lập lại vào năm 1763, rồi ông xuất ngũ vì sức khỏe kém. Ông là một sĩ quan dũng cảm, người chồng tốt nhất, người cha tốt nhất, người bạn tốt nhất. Ông qua đời ngày 29 tháng Mười, năm 1792, hưởng thọ 84 tuổi.’ Một bài văn bia hết chỗ chê, Prissy ạ. Rõ ràng là có nhiều ‘khoảng trống cho tưởng tượng’ trong đó. Cuộc đời của ông ấy chắc phải tràn đầy phiêu lưu mạo hiểm. Về các ưu điểm cá nhân, tớ tin văn bia nhân loại không thể đi xa hơn thế. Tớ tự hỏi hồi ông ấy còn sống người ta có khen ông ấy cái gì cũng là nhất hay không.”
“Một bài khác nữa này,” Priscilla nói. “Nghe này: ‘Tưởng niệm Alexander Ross, mất vào ngày 22 tháng Chín, 1840, 43 tuổi. Bia này được dựng để biểu lộ tình cảm của người được ông phục vụ tận tâm suốt 27 năm ròng, coi ông như một người bạn, xứng đáng với sự tin tưởng và gắn bó tuyệt đối.’”
“Một văn bia rất có ý nghĩa,” Anne trầm tư. “Tớ chẳng mong được gì hơn thế. Chúng ta đều là người phục vụ, về mặt nào đó, và nếu sự tận tâm của chúng ta có thể được ghi lại một cách chân thực trên bia mộ thì chẳng cần ghi thêm gì nữa. Đây là một bia mộ xám buồn thảm, Prissy ạ, ‘Tưởng niệm đứa con yêu dấu.’ Và đây nữa ‘Dựng lên để tưởng niệm người chôn thân nơi khác.’ Tớ tự hỏi ngôi mộ thực của người đó nằm ở đâu. Thiệt tình, Pris ạ, nghĩa địa thời nay chẳng được thú vị thế này. Cậu nói đúng, tớ sẽ thường ghé qua đây. Tớ thích nó rồi đấy. Tớ thấy chúng ta không cô độc, có một cô gái ở cuối đường kìa.”
“Ừ, và tớ tin đó chính là cô gái chúng ta nhìn thấy ở Redmond sáng nay. Tớ đã quan sát cô nàng năm phút rồi. Cô nàng dợm chân bước đến đây được cả năm, sáu lần, rồi năm, sáu lần đều xoay người quay trở lại. Hoặc là cô nàng cực kỳ nhút nhát, hoặc là lương tâm cô nàng đang cắn rứt vì chuyện gì đó. Chúng ta đến gặp cô nàng đi thôi. Làm quen trong nghĩa địa thì dễ hơn là ở Redmond, tớ nghĩ thế.”
Họ đi dọc theo đường mái vòm cỏ mọc đầy về phía cô gái lạ đang ngồi trên một phiến đá xám dưới cây liễu khổng lồ. Cô nàng rõ ràng là hết sức xinh đẹp, một vẻ đẹp sống động, bất thường và quyến rũ hút hồn. Mái tóc mịn như nhung sáng bóng như hạt dẻ, đôi má bầu bĩnh ửng mọng dịu dàng. Đôi mắt cô nàng to, màu nâu và thẫm như nhung, chân mày đen sắc nhọn lạ thường, đôi môi hơi trề đỏ thắm. Cô nàng vận bộ váy nâu thanh lịch, hai mũi giày nhỏ đúng mốt thò ra bên dưới, mũ rơm màu hồng sẫm, vòng hoa anh túc vàng sậm đan quanh, chiếc mũ mang vẻ duyên dáng khó gọi thành lời, rõ ràng là “sáng tạo” của một nghệ nhân may vá. Priscilla lập tức bối rối nhớ ra chiếc mũ mình mua của một thợ may làng, Anne thì bất an không biết chiếc áo cô tự may và bà Lynde đo cắt có vẻ quá quê mùa và tầm thường trước bộ đồ đúng mốt của cô gái lạ hay không. Trong một thoáng, hai cô gái đều muốn quay lưng đi.
Nhưng họ đã dừng lại và quay về phía bia mộ màu xám. Rút lui bây giờ thì quá trễ, vì cô gái mắt nâu rõ ràng đã kết luận rằng họ đến để nói chuyện với mình. Cô lập tức đứng bật dậy, đi tới trước mặt họ với bàn tay chìa ra và nụ cười vui vẻ thân thiện chẳng có dấu ấn nào của sự nhút nhát hay lương tâm bị cắn rứt.
“Ồ, tớ rất muốn biết hai cậu là ai,” cô hào hứng kêu lên. “Tớ muốn biết đến chết được. Sáng nay tớ nhìn thấy các cậu ở Redmond. Nói xem, ở đó khủng khiếp quá phải không? Lúc đó tớ ước gì tớ ở nhà lấy chồng cho rồi.”
Anne và Priscilla không nén được tiếng cười trước câu kết luận bất ngờ này. Cô gái mắt nâu cũng phá lên cười.
“Thật đó. Tớ có thể đã làm vậy, các cậu biết đấy. Lại đây, chúng ta ngồi xuống tấm bia này mà làm quen với nhau đi. Không khó khăn gì đâu. Tớ biết ngay là chúng ta sẽ thích mê nhau mà, tớ biết ngay từ lúc nhìn thấy các cậu ở Redmond sáng hôm nay. Tớ hết sức mong muốn được chạy ngay lại và ôm chầm lấy các cậu.”
“Sao cậu không làm vậy?” Priscilla hỏi.
“Bởi vì đơn giản là tớ không thể quyết định làm vậy được. Tớ chẳng thể tự quyết định được bất cứ việc gì, tớ lúc nào cũng bị sự do dự xâm chiếm. Ngay khi quyết định làm chuyện gì đó, tớ cảm thấy từ trong xương tủy rằng làm khác đi mới là đúng. Đó đúng là một sự bất hạnh khủng khiếp, nhưng bẩm sinh tớ là thế, có trách móc tớ cũng chẳng có tác dụng gì, dù nhiều người trách móc lắm rồi. Thế nên tớ không thể quyết định đến nói chuyện với các cậu được, dù tớ rất muốn.”
“Bọn tớ tưởng là cậu quá nhút nhát,” Anne nói.
“Không, không, cưng à. Nhút nhát không phải là một trong những khuyết điểm, hay là ưu điểm, của Phillippa Gordon, gọi tắt là Phil. Cứ gọi luôn tớ là Phil đi. Nào, còn các cậu tên là gì?”
“Cô ấy là Priscilla Grant,” Anne chỉ sang bạn.
“Còn cô ấy là Anne Shirley,” Priscilla chỉ lại sang Anne.
“Và chúng tớ đều là dân Đảo,” cả hai đồng thanh.
“Tớ sống ở Bolingbroke, Nova Scotia,” Philippa nói.
“Bolingbroke!” Anne kêu lên. “Ôi, đó là nơi tớ sinh ra.”
“Thật không? Ôi, thế thì cậu là dân Mũi xanh rồi.”[8]
[8]. Biệt hiệu của dân Nova Scotia.
“Không đời nào,” Anne phản đối. “Chẳng phải Dan O’Connell từng nói người sinh ra ở trong tàu ngựa cũng không biến thành ngựa sao? Tớ là dân Đảo từ trong xương đấy nhé.”
“Ôi, dù sao thì tớ cũng mừng là cậu sinh ra ở Bolingbroke. Chúng ta gần như là láng giềng, nhỉ? Tớ thích thế, vì nếu tớ kể những chuyện bí mật cho cậu nghe, tớ sẽ không có cảm giác đang kể cho người lạ. Tớ phải kể hết bí mật ra thì mới chịu được. Tớ chẳng giữ được bí mật đâu, cố cũng chẳng có tác dụng gì. Đó là khuyết điểm tệ hại nhất của tớ, và cả sự thiếu quyết đoán nữa, như đã nói lúc nãy. Các cậu có tin nổi không? Tớ tốn đến nửa tiếng để quyết định xem nên đội cái mũ nào để đi đến đây, đến đây, đến nghĩa địa! Lúc đầu tớ ưa cái mũ nâu đính lông hơn, nhưng vừa đội lên thì tớ nghĩ cái mũ hồng vành mềm này sẽ hợp hơn. Nhưng khi đội nó lên tớ lại thích cái màu nâu. Thế là cuối cùng tớ đặt cả hai cái lên giường, nhắm tịt mắt và chọc cái đinh gài mũ. Cái đinh đâm vào cái mũ hồng, thế là tớ bèn đội nó. Nó khá hợp đấy chứ, phải không? Trả lời tớ xem, các cậu thấy trông tớ thế nào?”
Trước câu hỏi ngây thơ với giọng điệu hoàn toàn nghiêm túc đó, Priscilla phá lên cười. Nhưng Anne bốc đồng siết chặt lấy tay Philippa.
“Sáng nay bọn tớ đã nghĩ cậu là cô gái xinh đẹp nhất mà bọn tớ thấy ở Redmond.”
Đôi môi mọng của Philippa hé ra một nụ cười hết sức quyến rũ, để lộ hàm răng trắng bóng.
“Tớ cũng nghĩ thế,” đó là câu tuyên bố bất ngờ thứ hai của cô, “nhưng tớ muốn tham khảo ý kiến của người khác để duy trì suy nghĩ của tớ. Tớ thậm chí còn chẳng quyết định được về vẻ ngoài của mình nữa. Ngay khi vừa cho rằng mình xinh đẹp, tớ lại lập tức đau khổ cảm thấy mình chẳng xinh chút nào. Hơn nữa, có một bà dì già cỗi khủng khiếp cứ lúc nào cũng thở dài thườn thượt bảo tớ, ‘Hồi nhỏ cháu xinh lắm. Nhưng khi lớn lên thì sao mà con nít thay đổi nhiều thế.’ Tớ thương các dì, nhưng tớ căm ghét các bà dì. Làm ơn hãy thường nói với tớ là tớ xinh đi nhé, nếu các cậu không phiền. Tớ cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều khi tớ tin rằng mình xinh đẹp. Và tớ sẵn sàng làm điều tương tự với các cậu nếu các cậu muốn, tớ có thể mà, với một lương tâm trong sạch.”
“Cảm ơn,” Anne phá lên cười, “nhưng Priscilla và tớ hoàn toàn tin chắc vào vẻ ngoài xinh đẹp của mình mà chẳng cần đến sự xác thực nào, nên không phiền cậu đâu.”
“Ôi, các cậu lại cười tớ. Tớ biết các cậu nghĩ tớ là một kẻ tự phụ hão huyền, nhưng không phải vậy đâu. Tớ chẳng có một tí ti tự phụ nào hết. Và tớ cũng chẳng bao giờ cảm thấy miễn cưỡng khi khen những cô gái khác nếu họ xứng đáng. Tớ rất mừng được làm quen với các cậu. Tớ vừa tới hôm thứ Bảy, và thế rồi suýt chết vì nhớ nhà. Đúng là một cảm giác khủng khiếp, phải không? Ở Bolingbroke, tớ là nhân vật quan trọng, còn ở Kingsport tớ là kẻ vô danh! Có lúc tớ cảm giác được linh hồn của tớ chuyển sang màu xanh buồn thảm nữa cơ. Các cậu ở đâu?”
“Số ba mươi tám đường St. John.”
“Tốt quá tốt quá. Ôi, tớ ở ngay đường Wallace qua ngã tư. Nhưng tớ chẳng ưa nhà trọ của mình tí nào. Nó ảm đạm và buồn bã lắm, phòng của tớ nhìn ra sân sau thật kinh khủng. Đó là nơi xấu xí nhất trên thế giới. Còn mèo nữa, ôi, rõ ràng là tất cả mèo ở Kingsport không thể tụ tập hết ở đó được, nhưng ít nhất là phân nửa bọn chúng đều có mặt. Tớ thích mèo nằm trên thảm trải trước lò sưởi, gừ gừ trước ngọn lửa ấm áp thân thiện, nhưng mèo ở sân sau vào giữa khuya là một giống vật hoàn toàn khác hẳn. Hôm đầu mới tới, tớ khóc suốt đêm, bọn mèo cũng rú cả đêm. Các cậu phải nhìn mũi tớ vào sáng hôm sau mới hiểu. Lúc đó tớ chỉ ước gì mình chưa từng rời nhà ra đi!”
“Tớ chẳng hiểu làm sao cậu có thể quyết định đi học ở Redmond, nếu cậu là người hay do dự như thế,” Priscilla hứng thú hỏi.
“Cưng à, Chúa phù hộ cho cưng, tớ có quyết định đâu. Ba tớ muốn tớ đi học đấy chứ. Ba tớ quyết chí như thế, vì sao ư, tớ chả biết nữa. Tớ học để lấy bằng đại học, thật ngớ ngẩn phải không? Được rồi, không phải vì tớ không học được. Tớ có nhiều não lắm.”
“Ồ!” Priscilla mơ hồ đáp.
“Ừ. Nhưng dùng đến nó chẳng dễ dàng gì. Cử nhân đại học là những kẻ thông thái, thông minh, nghiêm túc và đáng trọng, nhất định là thế. Không, tớ không muốn đi học ở Redmond. Tớ làm vậy để chiều ba tớ thôi. Ba tớ dễ thương lắm nhé. Hơn nữa, nếu ở nhà thì tớ phải đi lấy chồng là cái chắc. Mẹ tớ muốn thế, kiên quyết muốn như thế. Mẹ tớ có dư tính quả quyết mà. Nhưng tớ ghét phải đi lấy chồng, ít nhất là trong vài năm tới. Tớ muốn chơi cho thỏa đã trước khi dừng chân ổn định. Và, cứ nghĩ đến chuyện tớ là người có bằng đại học thì thấy thật ngớ ngẩn, nhưng vẫn không vớ vẩn bằng việc tưởng tượng ra tớ là một bà vợ đứng tuổi, phải không? Tớ mới mười tám. Không, tớ rút ra là thà đi học ở Redmond còn hơn lấy chồng. Hơn nữa, làm sao mà tớ có thể quyết định được là lấy ai cơ chứ?”
“Có nhiều người để chọn không?” Anne phá lên cười.
“Cả đống. Bọn con trai thích tớ khủng khiếp, thật đó. Nhưng chỉ có hai người đáng để chọn thôi. Số còn lại hoặc quá trẻ hoặc quá nghèo. Tớ phải lấy một người giàu có, các cậu biết đấy.”
“Vì sao?”
“Cưng à, cậu có thể tưởng tượng tớ là vợ của một người nghèo được không? Tớ chẳng làm trò gì nên hồn, và lại cực kỳ phung phí nữa. Ồ, không, chồng tớ phải có cả đống tiền. Cho nên số người để chọn giới hạn lại còn có hai thôi. Nhưng chọn một trong hai chẳng dễ hơn chọn một trong hai trăm. Tớ biết chắc chắn rằng dù chọn ai thì cả đời tớ cũng sẽ hối hận vì không cưới người còn lại.”
“Cậu... yêu... cả hai người à?” Anne hỏi, hơi ngần ngừ. Nói chuyện với người lạ về những bí ẩn và biến đổi của cuộc đời chẳng dễ dàng chút nào.
“Ôi trời, không. Tớ chẳng yêu nổi ai đâu. Bản chất tớ là thế. Hơn nữa tớ cũng chẳng muốn thế. Yêu sẽ biến ta thành một kẻ nô lệ, tớ nghĩ thế. Và nó sẽ trao cho người đàn ông rất nhiều quyền lực để làm tổn thương ta. Tớ e là thế. Không, không, Alec và Alonzo là hai cậu bạn dễ thương, tớ thích họ nhiều đến mức tớ chẳng biết là tớ thích ai hơn. Đó là vấn đề. Đương nhiên, Alec đẹp trai hơn, và tớ chẳng thể cưới một người đàn ông xấu trai được. Anh ấy cũng tốt tính nữa, và có mái tóc xoăn đen tuyệt đẹp.
Anh ấy có vẻ hơi quá hoàn hảo, tớ không nghĩ là tớ thích có một người chồng hoàn hảo mà tớ chẳng thể tìm ra được khuyết điểm nào.”
“Vậy sao không cưới Alonzo?” Priscilla nghiêm túc hỏi.
“Nghĩ đến việc cưới người mang tên Alonzo coi!” Phil u sầu đáp. “Tớ không tin là tớ chịu đựng nổi điều đó. Nhưng anh ấy có một cái mũi đẹp theo kiểu cổ điển, và thật dễ chịu nếu trong gia đình có một cái mũi đẹp để nương tựa vào. Tớ không thể tin tưởng vào cái mũi của tớ. Cho tới giờ thì nó giống kiểu mũi của người họ Gordon, nhưng tớ e là khi tớ già đi thì nó sẽ giống người họ Byrne. Ngày nào tớ cũng kiểm tra một lượt để chắc là nó vẫn mang họ Gordon. Mẹ tớ họ Byrne và có mũi kiểu Byrne ở mức độ Byrne nhất. Các cậu đợi xem đi rồi biết. Tớ mê tít những cái mũi đẹp. Cái mũi của cậu đẹp khủng khiếp, Anne Shirley ạ. Cái mũi của Alonzo suýt nữa đã giúp anh ấy chiến thắng. Nhưng mà Alonzo sao! Không, tớ không thể quyết định được. Giá như tớ có thể làm như khi chọn mũ ấy, để hai người họ đứng kế nhau, nhắm mắt lại và chọc đinh ghim, thì sẽ dễ dàng biết mấy.”
“Alec và Alonzo nghĩ gì khi cậu đi?” Priscilla hỏi.
“Ồ họ vẫn còn hy vọng mà. Tớ bảo họ hãy đợi đến khi tớ có thể quyết định được. Họ sẵn sàng chờ đợi mà. Các cậu biết đó, họ tôn thờ tớ. Trong lúc ấy, tớ quyết tâm phải chơi cho thỏa. Tớ hy vọng tớ sẽ có hàng đống bạn trai ở Redmond. Các cậu biết đấy, không có bạn trai thì tớ chẳng vui nổi. Nhưng các cậu có nghĩ rằng đám con trai năm nhất nhìn quê kinh khủng không? Tớ chỉ thấy có một tay thực sự đẹp trai thôi. Anh ta đi trước khi các cậu đến. Tớ nghe bạn anh ta gọi anh ta là Gilbert. Bạn của anh ta có đôi mắt lồi ra đến thế này này. Các cô gái, các cậu định đi à? Khoan đi mà.”
“Tớ nghĩ bọn tớ phải đi thôi,” Anne đáp khá lạnh nhạt. “Trễ rồi và tớ còn có việc.”
“Nhưng các cậu sẽ đến chơi với tớ phải không?” Philippa hỏi, đứng dậy nắm tay hai người. “Và cho tớ đến thăm các cậu nhé. Tớ muốn làm thân với các cậu. Tớ đã mê các cậu rồi. Và tớ không làm các cậu muốn ói vì tính khí màu mè của tớ, phải không?”
“Không hẳn,” Anne phá lên cười và thân tình trở lại, siết chặt tay đáp lại Phil.
“Vì tớ không ngốc bằng nửa bề ngoài của tớ đâu, các cậu biết đấy. Các cậu cứ chấp nhận Philippa Gordon như Chúa đã tạo ra cô ấy, cùng mọi khuyết điểm của cô ấy, và tớ tin là các cậu sẽ mến cô ấy thôi. Nghĩa địa này thật dễ thương phải không? Tớ thích được chôn ở đây. Đây là một ngôi mộ tớ chưa thấy trước đây, nằm bên hàng rào sắt, ồ, các cô gái, nhìn này, trên bia mộ ghi đây là mộ của một chuẩn úy hải quân hy sinh trong trận chiến giữa tàu Shannon và tàu Chesapeake đấy. Tưởng tượng xem!”
Anne dừng lại bên hàng rào, nhìn tấm bia đã bị thời gian bào mòn, mạch đập dồn dập bởi cảm giác phấn khởi bất ngờ. Khu nghĩa địa cũ, với những hàng cây đan xen và những lối đi râm mát, từ từ biến mất khỏi tầm mắt cô. Thay vào đó, cô nhìn thấy cảng Kingsport cách đây gần một thế kỷ. Một chiếc tàu chiến chầm chậm xuất hiện giữa màn sương, “lá cờ sao băng Anh quốc” tung bay phần phật phía trên. Theo sau là một con tàu khác, trên bệ chỉ huy là một thi thể anh hùng bất động, được lá cờ đầy sao của quốc gia mình bọc quanh, là Lawrence anh dũng. Ngón tay thời gian lần giở từng trang sách, đó chính là con tàu Shannon đắc thắng khải hoàn cùng với chiến lợi phẩm là tàu Chesapeake.
“Trở lại, Anne Shirley, trở lại đi,” Philippa phá lên cười, kéo kéo tay cô. “Cậu cách bọn tớ cả trăm năm thời gian lận. Quay lại thôi.”
Anne trở lại hiện thực với một tiếng thở dài, mắt cô long lanh.
“Tớ lúc nào cũng ưa thích câu chuyện xưa cũ đó,” cô nói, “và dẫu người Anh chiến thắng, tớ thích câu chuyện chỉ vì người thuyền trưởng chiến bại nhưng vẫn tràn đầy can đảm. Ngôi mộ này khiến câu chuyện trở nên gần gũi và thực tế hơn biết mấy. Chàng chuẩn úy hải quân đáng thương chỉ mới mười tám tuổi. Chàng ‘hy sinh vì vết thương trầm trọng trong cuộc chiến đấu anh hùng’, đó là văn bia của chàng. Người lính chỉ mong có vậy thôi.”
Trước khi quay đi, Anne tháo chùm hoa păng xê tím cài trên áo và nhẹ nhàng thả xuống nấm mộ của chàng trai trẻ hy sinh trong trận thủy chiến vĩ đại.
“Sao, cậu nghĩ gì về người bạn mới của chúng ta?” Priscilla hỏi sau khi Phil chia tay bọn họ.
“Tớ thích cô nàng. Cô nàng có vẻ gì đó rất đáng yêu, mặc cho mọi trò lố lăng khác. Tớ tin, cũng như lời cô nàng nói, rằng cô nàng chỉ ngốc bằng phân nửa vẻ ngoài thôi. Cô nàng là một đứa bé dễ thương chỉ nhìn thôi đã muốn hôn rồi, và tớ chẳng biết liệu cô nàng có bao giờ trưởng thành hay không nữa.”
“Tớ cũng thích cô nàng,” Priscilla quả quyết. “Cô nàng tán nhảm về bọn con trai y như Ruby Gillis vậy. Nhưng nghe Ruby nói thì lúc nào tớ cũng tức điên lên hay là muốn ói, trong khi tớ chỉ muốn phá lên cười vui vẻ với Phil. Nào, vì sao lại như vậy?”
“Có khác biệt chứ,” Anne ngẫm nghĩ. “Tớ nghĩ bởi vì Ruby quá để tâm đến bọn con trai. Cậu ấy đùa giỡn với tình yêu và hay tán tỉnh. Hơn nữa, cậu cảm thấy mỗi khi cậu ấy khoe khoang về số bạn trai của mình, cậu ấy có ý muốn nhấn mạnh với cậu rằng cậu chẳng có đến phân nửa số bạn trai của cậu ấy. Còn bây giờ, khi Phil nói đến đám bạn trai, nghe như cô nàng đang kể về bạn bè thân vậy. Cô nàng quả thật coi bọn con trai là bạn bè, và vui sướng khi có hàng đống con trai theo đuôi, chỉ vì cô nàng thích được ngưỡng mộ và thích được coi là đáng ngưỡng mộ. Cả Alex và Alonzo nữa - về sau tớ sẽ chẳng thể nào tách riêng hai cái tên này ra được - họ chỉ là hai người bạn muốn cô nàng chơi cùng đến suốt cuộc đời thôi. Tớ mừng vì chúng ta gặp được cô nàng, và mừng vì chúng ta đã đến Cựu St. John. Tớ tin là tớ đã bén một cái rễ tâm hồn nhỏ xíu xuống mảnh đất Kingsport chiều nay. Tớ hy vọng thế. Tớ ghét cảm giác lỏng gốc lắm.”
Tập 3 - Anne Tóc Đỏ Ở Đảo Hoàng Tử Edward Tập 3 - Anne Tóc Đỏ Ở Đảo Hoàng Tử Edward - Lucy Maud Montgomery Tập 3 - Anne Tóc Đỏ Ở Đảo Hoàng Tử Edward