This will never be a civilized country until we expend more money for books than we do for chewing gum.

Elbert Hubbard

 
 
 
 
 
Thể loại: Giáo Dục
Nguyên tác: Start-Up Nation
Dịch giả: Trí Vương
Upload bìa: Golden Olive
Số chương: 21
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 5297 / 385
Cập nhật: 2015-09-23 12:57:45 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Lời Bạt
au hai năm kể từ khi cuốn sách này được xuất bản, nền kinh tế của “Quốc gia khởi nghiệp” vẫn tiến triển mạnh mẽ. Ở chương 1, chúng tôi đã so sánh số vốn đầu tư mạo hiểm tính trên đầu người mà các quốc gia khởi nghiệp nhận được. Theo số liệu gần đây (năm 2010), Israel vẫn là quốc gia dẫn đầu về lượng gia tăng vốn đầu tư mạo hiểm trên đầu người, gấp 2,5 nước đứng thứ nhì là Mỹ.
Thành công nối tiếp khiến các nước chú ý nhiều hơn đến mô hình kinh tế của Israel, và chúng tôi đã được mời đi nói chuyện khắp châu Á, Âu, Nam Mỹ, Mỹ và Canada về các bài học được rút ra từ Quốc gia khởi nghiệp. Vì có quá nhiều câu hỏi lặp đi lặp lại nên chúng tôi sẽ đề cập một số vấn đề chính trong ấn bản này.
Chúng tôi luôn thoải mái công nhận rằng Israel có rất nhiều thách thức. Hơn nữa, cũng như bất kỳ nền kinh tế sôi nổi nào, Israel luôn gặp phải mối nguy là họ có thể trở nên tự mãn và đánh mất ưu thế cạnh tranh của mình. Tuy đây là những vấn đề thường được chất vấn nhiều nhất, chúng tôi tin là Israel chỉ mới bắt đầu khai thác tiềm năng của mình, và sẵn sàng trở thành đối thủ tầm cỡ hơn trên đấu trường sáng tạo toàn cầu, nếu so với hôm nay. Qua những câu hỏi và câu trả lời bên dưới, chúng tôi cân nhắc tiềm năng này và những gì tiếp theo cho Quốc gia khởi nghiệp.
Tháng 5-2011
DAN SENOR và SAUL SINGER
1. Quốc gia khởi nghiệp ra mắt đã làm dấy lên cuộc tranh luận gì?
Cuốn sách đã và đang được dịch sang tiếng Trung (ở Trung Quốc và Đài Loan), tiếng Hàn Quốc, Nga, Bồ Đào Nha (ở Brazil), Đức, Pháp, Ý, Bulgaria, Séc, Do Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, và Ả-rập. Nó cũng là cuốn sách bán chạy ở Singapore và Ấn Độ. Sự quan tâm của độc giả quốc tế đối với mô hình kinh tế của Israel cho thấy rằng tầm quan trọng của sự sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp không chỉ rất lớn, mà còn đang tăng lên.
Trong quyển sách này, chúng tôi giải thích lý do tại sao một chương trình chính phủ được thai nghén ở Israel mang tên Yozma, đã giúp xây dựng khu vực đầu tư mạo hiểm và tiếp nhiên liệu cho hàng nghìn công ty khởi nghiệp đầy tiềm năng. Chương trình Yozma hoạt động được là do nó xúc tác cho một thực tế đang diễn ra. Nó không tạo ra thực tế đó, nhưng nó tạo lực đẩy. Chúng tôi ngờ rằng cuốn sách này thành công - dĩ nhiên ở mức độ nhỏ hơn - theo một cách tương tự. Chúng tôi không tạo ra thứ gì mà chỉ kể lại câu chuyện. Đáng lẽ Israel đã mang tên Quốc gia khởi nghiệp từ lâu, nhưng phương diện nổi bật này của Israel đã bị bỏ sót và đánh giá thấp.
Với các quốc gia đã và đang phát triển, một trong những cách tốt nhất để thay thế số công việc bị mất và duy trì tăng trưởng là thông qua sự sáng tạo, và phần lớn sáng tạo sẽ đến từ các công ty khởi nghiệp. Quả thực, Tổng thống Mỹ Barack Obama và Thủ tướng Anh David Cameron đã nhanh chóng khởi động các kế hoạch đầy tham vọng: “Nước Mỹ khởi nghiệp” và “Nước Anh khởi nghiệp”. Gạt sang một bên những câu hỏi về tính hiệu quả của các chương trình này, thật khó để tìm ra một nền kinh tế phát triển hay mới nổi nào mà không muốn có thêm các công ty khởi nghiệp và tinh thần khởi nghiệp lớn hơn nữa.
2. Điều gì kế tiếp cho Quốc gia khởi nghiệp?
Israel đang bắt đầu xây dựng một cơ sở công nghệ vững chắc với các hình thức sáng tạo khác. Một khu vực đầy hứa hẹn là sự sáng tạo trong mô hình kinh doanh. Ví dụ, hệ thống xe hơi chạy bằng điện của Better Place không phải dựa trên ắc quy kỳ diệu mà dựa trên một cuộc cách mạng về cơ cấu quyền sở hữu chiếc xe, giúp cắt giảm giá trợ giá hiện tại đối với xe hơi chạy điện. Công ty thực phẩm lớn nhất Israel, Strauss - một công ty nhỏ nếu xét theo tiêu chuẩn quốc tế - bán cà phê ở Brazil đang sử dụng một mô hình kinh doanh sáng tạo, chứ không phải công nghệ mới.
Điều tương tự cũng đúng với KCPS, một hãng quản lý đầu tư ở Tel Aviv làm việc cho rất nhiều nhà đầu tư tinh vi nhất thế giới ở cả các quốc gia đã và đang phát triển. Các nhà sáng lập công ty tin rằng việc Israel tập trung vào sự cách tân có thể được xem là mang tính chuyển hóa trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, cũng như trong lĩnh vực công nghệ trước đây.
Toàn cầu hóa cũng là lĩnh vực quan trọng của tiềm năng phát triển. Một công ty Trung Quốc gần đây đã mua lại Machteshim Agan - một công ty Israel bán các sản phẩm bảo vệ cây trồng - không hẳn vì công nghệ, mà vì công ty này đã hoạt động ở hơn một trăm quốc gia. Sự hợp tác này giúp công ty Trung Quốc nhanh chóng toàn cầu hóa ngay lập tức.
Bởi vì người Israel gần như không có thị trường nội địa và bị loại ra khỏi phần lớn thị trường khu vực, Israel đã trở thành chuyên gia trong việc tìm lối tiếp cận toàn cầu theo dạng này - xuất khẩu mọi lúc. Với những công ty đang tìm cách mở rộng thị trường quốc tế, tư duy này khiến trở thành một đối tác tự nhiên của họ.
Chúng tôi cũng trông đợi Israel sẽ trở thành một “quốc gia thử nghiệm” (trích lời nhà sáng lập Better Place là Shai Agassi) để giải quyết các thách thức gần như không thể vượt qua trong lĩnh vực giáo dục, thực phẩm, năng lượng, nước và chăm sóc sức khỏe. Công nghệ và sự sáng tạo, sau cùng, đều không phải mục đích, mà là các công cụ và phương tiện để tiến đến thế giới tốt đẹp hơn. Việc giải quyết những vấn đề toàn cầu thông qua sự sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp kinh doanh - cùng với nguồn năng lượng sáng tạo đến từ sự kết hợp của họ trong một cụm tập trung - có thể trở thành mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Israel.
3. Những yếu tố nào đang kìm hãm nền kinh tế khởi nghiệp hiện nay của Israel?
Trong khi Israel có những trường đại học đẳng cấp thế giới - Đại học Tel Aviv đã xếp trên Oxford, Cambridge và Yale tính theo số trích dẫn khoa học trên số lượng cán bộ nghiên cứu - các học sinh trung học của Israel lại thua nếu tính trên điểm số các kỳ thi quốc tế, và các trường đại học đang đau đầu với vấn nạn “chảy máu chất xám” khi một số lượng lớn giảng viên đã chuyển sang Mỹ. Israel còn có tỉ lệ tham gia lao động tương đối thấp, và mức chênh lệch thu nhập lớn giữa khu vực công nghệ và phần còn lại của nền kinh tế.
Vẫn còn nhiều việc phải làm. Song nếu có thứ gì đó lớn hơn cả những thách thức, thì đó là tiềm năng của nền kinh tế Israel. Hơn 80 phần trăm vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp ở Israel (FDI - chủ yếu là các trung tâm phát triển của các công ty đa quốc gia lớn) ở Israel đến từ Mỹ; chưa tới 20 phần trăm đến từ châu Âu, châu Á và phần còn lại của thế giới. Điều này nghĩa là vẫn còn tiềm năng khổng lồ cho các công ty từ những khu vực khác sao chép các đồng nghiệp Mỹ của họ và hưởng lợi từ sự sáng tạo của Israel.
4. Có phải Quốc gia khởi nghiệp là một bức ảnh chụp nhanh, phản chiếu thời kỳ khởi sắc của nền kinh tế Israel? Liệu Israel có duy trì được vị trí đa năng của nó không?
Israel là một quốc gia non trẻ, chỉ mới hơn sáu mươi năm tuổi, và nền kinh tế sáng tạo của nó chỉ vừa bắt đầu khởi sắc vào giữa thập niên 1990. Căn cứ vào đó, câu hỏi quan trọng mà chúng tôi đã tự hỏi mình là, liệu nó có bền vững không?
Sau khi quyển sách được phát hành, một cột báo trong tờ Economist thừa nhận rằng Israel là một “cường quốc công nghệ cao”, nhưng sau đó tự hỏi “Tin tốt lành này kéo dài được bao lâu
Bằng chứng mạnh mẽ nhất cho sự bền vững của nền kinh tế sáng tạo Israel có thể được tìm thấy trong thành tích của quốc gia này qua hai cuộc khủng hoảng kinh tế lớn: sự bùng nổ của bong bóng Internet vào năm 2000 và hệ quả là sự sụp đổ nền công nghệ/viễn thông năm 2001, và cuộc suy thoái toàn cầu bắt đầu năm 2008. Năm 2000, khi quang cảnh khởi nghiệp ở Israel vẫn còn chông chênh, nhiều yếu tố thuận lợi đã cùng lúc biến mất: tiến trình hòa bình Oslo tan vỡ, dòng nhập cư khổng lồ từ Liên Xô cũ trở nên nhỏ giọt, vốn đầu tư mạo hiểm toàn cầu cạn kiệt và khu vực công nghệ sụp đổ, và làn sóng chủ nghĩa khủng bố đã nhấn chìm nền kinh tế Israel vào suy thoái. Tuy vậy, đến năm 2005, các công ty khởi nghiệp của Israel đã được vực dậy mạnh mẽ tới nỗi quốc gia này nhận được lượng vốn đầu tư mạo hiểm còn lớn hơn năm 2000, như đã nêu trong các chương trước. Đứng dậy từ đống đổ nát, Israel vươn lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Điều tương tự xảy ra vào năm 2008. Theo tờ Economist, Israel là một trong những “quốc gia cuối cùng bước chân vào suy thoái và trong số những nước thoát ra sớm nhất.” Quả thực, Israel chỉ có một quý tăng trưởng âm, và từ đó đến nay luôn dẫn đầu khu vực OECD về tốc độ tăng trưởng.
Một báo cáo vào tháng 12 năm 2010 của Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã nêu ra một câu hỏi, “Tại sao Israel lại ít chịu ảnh hưởng từ cuộc Đại suy thoái?” Báo cáo của IMF cho thấy lượng thất nghiệp tại nước này đã nhanh chóng giảm từ đỉnh cao ngất ngưởng so với mức trung bình của khối OECD năm 2003, thấp hơn rất nhiều mức trung bình năm 2010. Và còn bất ngờ hơn, lượng xuất khẩu của Israel tiếp tục tăng trưởng, bất chấp đây là một trong những đồng tiền mạnh nhất trên thế giới và xuất khẩu không có hàng hóa.
Trong khi IMF ghi nhận vai trò của việc giám sát ngân hàng và kỷ luật trong tài khóa đối với sự phục hồi nhanh chóng của Israel, chúng tôi tin rằng các yếu tố này chỉ là một phần của câu chuyện. Trên hết, nền kinh tế của Israel lấy sự khởi nghiệp làm trọng tâm, và khu vực công nghệ cao là một nửa nguồn lực xuất khẩu của Israel. Các công ty công nghệ khởi nghiệp tuy nhỏ, nhưng là chất xúc tác ở trung tâm một hệ sinh thái đang mạnh mẽ.
Israel đã gây dựng một đặc tính khác thường: khả năng không chỉ đương đầu mà còn tận dụng mọi nghịch cảnh - từ việc thiếu thị trường nội địa và khu vực, sự kham hiếm tài nguyên thiên nhiên, cho đến một loạt sự tẩy chay và các cuộc tấn công. Cốt lõi trong câu chuyện Quốc gia khởi nghiệp chính là khả năng của một quốc gia biến nghịch cảnh thành một nguồn năng lượng sáng tạo có thể tái chế được - phần lớn trong số này đi vào lĩnh vực công nghệ cao, nhưng cũng có thể thấy trong tinh thần khởi nghiệp xã hội, trong y học, khoa học và nghệ thuật.
5. Liệu Israel có thể xây dựng những công ty lớn hơn, không “chỉ” là các công ty khởi nghiệp?
Đây là câu hỏi khiến nhiều người Israel làm việc trong khu vực công nghệ và trong chính phủ bận tâm. Nhiều năm nay, có nhiều người đã hỏi đầy nuối tiếc, “Nokia của chúng ta đâu?” - họ nhìn vào Phần Lan như một nước nhỏ bé nhưng đã sinh ra và thống trị một thương hiệu công nghệ danh tiếng và nhà máy sản xuất điện, chứ không “chỉ” là các công ty khởi nghiệp loại nhỏ. Điều lo lắng nằm ở chỗ Israel đã không tiếp tục sản sinh ra các công ty lớn kể từ sau Checkpoint, Converse, Amdocs và những công ty khác, ấy là chưa kể một công ty lớn đích thực toàn cầu là Teva, một gã khồng lồ về dược phẩm gốc. (Ngẫu nhiên, có thể nói Nokia là Teva của Phần Lan. Thị trường của Teva gấp 1,5 lần thị trường của Nokia.)
Điều mà những người này chưa hoàn toàn nhận thức được là nhiều người ở các quốc gia khác nhau như Brazil, Phần Lan, Trung Quốc, Hàn Quốc, và Singapore đã đến Israel để tìm lời giải đáp cho câu hỏi của chính họ: “Công ty khởi nghiệp của chúng ta đâu?”
Nó chỉ ra rằng Israel đã tình cờ phát triển một sở trường là việc sản sinh ra các yếu tố khó khăn nhất, cần thiết nhất cho hệ sinh thái công nghệ toàn cầu. Hầu hết công ty khởi nghiệp đã thực hiện điều đó trong hoàn cảnh không thuận lợi về doanh thu, nhân lực, hay khách hàng; điều họ làm được là tập trung sáng tạo. Giai đoạn chuyển biến này khó khăn hơn bạn tưởng, một phần bởi vì nó lãng mạn hóa (nhiều công ty khởi nghiệp được mô tả như là vài thành viên mày mò làm việc trong một ga-ra), và cũng vì cái bản chất của sự sáng tạo này bị hiểu sai.
Nếu tra từ “sáng tạo” ở Google Images, sẽ cho ra tới tấp những bóng đèn điện. Điều này cho thấy cách hiểu phổ biến là sự đổi mới chỉ đơn thuần là các ý tưởng sáng chói. Tuy vậy, nghiên cứu của chúng tôi về mô hình Israel cho thấy các ý tưởng chỉ là khởi đầu của sự sáng tạo, chứ không phải phần cốt yếu nhất.
Nếu như các ý tưởng là bản chất của sự sáng tạo, chúng ta có thể mong chờ các quốc gia dẫn đầu thế giới về số bằng sáng chế tính trên đầu người - bao gồm Hàn Quốc, Phần Lan và Israel - tất thảy đều có số lượng công ty khởi nghiệp ngang nhau.
Thế thì tại sao Israel, một quốc gia nhỏ bé như thế, lại có nhiều công ty khởi nghiệp hơn các quốc gia, tính trên các bằng sáng chế, lại sản sinh ra nhiều ý tưởng vĩ đại? Có vẻ như Israel còn có hai yếu tố quan trọng khác: định hướng nhiệm vụ và sự ấp nhận rủi ro nằm trong đặc tính văn hóa. Đó là những điều chúng ta nên khuyến khích các nhà hoạch định chính sách và nhà lãnh đạo kinh doanh tập trung vào.
Phải ngốn một lượng thời gian đáng kể, nguồn lực để biến một ý tưởng lớn thành một công ty khả thi. Hầu hết các công ty khởi nghiệp đều thất bại, bất kể chúng giới thiệu ở Israel hay thung lũng Silicon. Thế nên câu hỏi câu hỏi về sáng tạo trở thành câu hỏi về nguồn gốc mà xác định và chấp nhận rủi ro.
Hầu hết cuốn sách được dành để giải đáp câu hỏi này. Một phần câu trả lời là: tự bản thân Israel đã là một quốc gia khởi nghiệp. Ý tưởng Phục quốc Do Thái không chắc sẽ xảy ra như các kế hoạch kinh doanh mà những doanh nhân ngày nay đang tìm kiếm. Nhiều doanh nhân trong số đó nói rằng điều họ đang làm cũng tương tự như ông cha họ, chỉ khác là ở thế kỷ XXI - không phải tát cạn đầm lầy hay phủ xanh sa mạc, mà là tạo dựng công ty.
6. Nhiều quốc gia khác, nổi bật là Trung Quốc và Ấn Độ, đang nhanh chóng tạo dựng chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này có ý nghĩa gì với Israel?
Trung Quốc đã trở thành nhà sản xuất tấm pin năng lượng mặt trời lớn nhất thế giới, và tiến tới chế tạo những sản phẩm công nghệ ngày càng tinh vi hơn. Chính phủ Trung Quốc, chưa kể đến hàng trăm nghìn kỹ sư mới tốt nghiệp ở nước này mỗi năm, đang quyết tâm biến “Made in China” (Sản xuất tại Trung Quốc) thành “Made by China” (Sản xuất bởi Trung Quốc). Trong vài năm tới, chúng ta có thể thấy Trung Quốc vượt qua Mỹ để dẫn đầu các ngành như phát triển và chế tạo xe hơi chạy điện và sản xuất pin dùng cho nó. Ấn Độ đang trở thành một nhà máy khoa học và công nghệ. Cả hai nước này cũng có lợi thế trong việc tiếp cận thị trường phát triển nhanh chóng của họ, điều này khiến nhiều quốc gia phát triển phải ghen tỵ.
Song không có gì là tồi tệ cho Israel. Thực ra, đó lại là một cơ hội lớn. Cũng như việc các công ty khởi nghiệp và các trung tâm phát triển ở Israel đóng vai trò trọng yếu cho các gã khổng lồ công nghệ như Google, Microsoft, IBM, Intel và Cisco, các công ty Israel cũng có thể là đối tác lý tưởng cho các công ty của Trung Quốc và Ấn Độ - kể cả công ty khởi nghiệp - khi họ muốn tìm sự cách tân và cơ hội toàn cầu hóa. Một thách thức chính đối với các công ty phương Tây, bao gồm cả Mỹ và Israel, là giúp đưa hàng tỷ người ở các quốc gia như Trung Quốc và Ấn Độ tiến vào tầng lớp trung lưu, và khi đó, các công ty này phải làm sao tiếp cận được thị trường tiềm năng của sự thay đổi lớn nhất trong lịch sử của con người vào thế giới hoàn toàn hiện đại.
13">LỜI TỰA CỦA ĐẠI SỨ ISRAEL TẠI VIỆT NAM
(Bản dịch)
Sáng tạo công nghệ đã trở thành nền tảng cho thành công của ngành công nghiệp công nghệ cao của Israel trong hơn một thập kỷ qua. Các công ty công nghệ cao của Israel tiếp tục có cổ phiếu được giao dịch trên sàn NASDAQ và là một trong những quốc gia không thuộc Hoa Kỳ có nhiều công ty được niêm yết trên sàn giao dịch này nhất. Israel là nước liên tục dẫn đầu trong lĩnh vực Nghiên cứu & Phát Triển (R&D).
Những công ty khởi nghiệp của Israel tiếp tục thu hút phần lớn nguồn tài trợ từ các nhà đầu tư địa phương và toàn cầu. Thật vậy, Israel vẫn đang dẫn đầu về tỉ lệ thu hút vốn đầu tư mạo hiểm/đầu người. Những công ty xuất sắc trong phát triển công nghệ đã được nhận biết trong nền công nghiệp toàn cầu. Rất nhiều công ty công nghệ cao hàng đầu quốc tế đã thành lập các trung tâm R&D ở Israel.
Quốc gia khởi nghiệp là câu chuyện về sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Israel, nó đã đem đến cho người đọc Việt Nam cơ hội để tìm hiểu cách thức mà Israel - một quốc gia của tám triệu dân, được thành lập chỉ mới 65 năm trong những điều kiện địa lý - chính trị khó khăn và không có nguồn tài nguyên thiên nhiên nào - lại sản sinh ra nhiều công ty khởi nghiệp hơn bất cứ quốc gia nào trên thế giới.
Israel và Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao được hai mươi năm. Sự hợp tác giữa hai nước đang phát triển rất nhanh, bao gồm kinh tế và thương mại. Cuốn sách này sẽ giúp các đối tác của chúng tôi ở Việt Nam hiểu thêm về Israel, về con người và động cơ của chúng tôi - trong ngành công nghiệp công nghệ cao; và sự thấu hiểu này sẽ tạo tiền đề cho các chương trình hợp tác tốt hơn trong tương lai.
HẾT
[1] Thông tin trong phần tiếp theo được lấy từ những cuộc phỏng vấn Scott Thompson, Giám đốc PayPal (tháng 10 năm 2008 và tháng 1 năm 2009); Meg Whitman, nguyên Giám đốc kiêm CEO của eBay (tháng 9 năm 2008); và Eli Barkat, nhà đồng sáng lập kiêm Chủ tịch BRM Group và là nhà đầu tư chính trong Fraud Sciences (tháng 1 năm 2009).
[2] Sách The Joys of Yiddish, trang 5, tác giả: Leo Rosten.
[3] “The Right Kind of Failure” của Loren Gary, Havard Management Update (ngày 1 tháng 1 năm 2002).
[4] Phỏng vấn chuyên gia huấn luyện Không quân Israel.
[5] Báo cáo số 12592 của tổ chức National Bureau of Economic Research, nhan đề “Skill vs. Luck in Entrepreneurship and Venture Capital: Evidence from Serial Entrepreneurs” (tháng 10 năm 2006), http://imio.haas.berkley.edu/williamsonseminar/scharfstein041207.pdf. Tác giả: Paul Gompers, Anna Kovner, Josh Lerner, and David S. Scharf-stein.
[6] Bài viết “The Geography of Bliss: One Grump’s Search for the Happiest Places in the World”, đăng trên tạp chí Twelve (2008), trang 163. Tác giả: Eric Weiner.
[7] Bài viết “How Israel Saved Intel” của Ian King, đăng trên Seattle Times (ngày 9 tháng 4 năm 2007).
[8] Bài viết “Intel Dedicates Fab 28 in Kiryat Gat” của Shahar Zadok, tạp chí Globes Online (ngày 1 tháng 7.
[9] Sách Infinite Loop: How Apple, the World’s Most Insanely Great Computer Company, Went Insane của tác giả Michael S. Malone (1999); được trích dẫn trong bản tin “Inside Intel: The Art of Andy Grove “ của Khoa Thương mại, Trường Đại học Harvard (tháng 12 năm 2006).
[10] David Perlmutter trong bài viết “Intel Beyond 2003: Looking for Its Third Act” của Robert A. Burgelman và Philip Meza, Stanford Graduate School of Business (năm 2003).
[11] Bài viết “Intel’s Israelis Make Chip to Rescue Company from Profit Plunge” của Ian King, đăng trên Bloomberg.com (ngày 28 tháng 3 năm 2007).
[12] Sách Supreme Command: Soldiers, Statesmen, and Lead-ership in Wartime (năm 2002), trang 144. Tác giả: Eliot A.Cohen.
[13] Sách Leadership the Hard Way: Why Leadership Can’t Be Taught and How You Can Learn It Anyway (năm 2008), trang 7. Tác giả: Dov Frohman và Robert Howard.
[14] Đoạn này dựa vào bài viết “Intel’s Israelis Make Chip to Rescue Company from Profit Plunge” của Ian King đăng trên Bloomberg.com (ngày 28 tháng 3 năm 2007).
[15] Phim thuyết trình “Energy Savings: The Right Hand Turn” của John Skinner trên trang web Intel Web, http://video.intel.com/?fr_story=542de663c9824ce580001de5fba31591cd5b5cf3&rf=sitemap.
[16] Phỏng vấn Shmuel Eden.
[17] Phỏng vấn sử gia Abraham Rabinovich (tháng 12 năm 2008).
[18] Bài viết “Misguided Weapons: Technological Failure and Surprise on the Battlefield” của tác giả Azriel Lorber, trang 76-80.
[19] Phỏng vấn Michael Oren, nghiên cứu sinh tại Shalem Center (tháng 5 năm 2008).
[20] Phỏng vấn Edward Luttwak, cố vấn cao cấp tại Centre for Strategic and International Studies (tháng 12 năm 2008).
[21] Phần này dựa trên nội dung cuộc phỏng vấn thiếu tá Gilad Farhi, chỉ huy trưởng đơn vị bộ binh Kfir, quân đội Israel (tháng 11 năm 2008).
[22] Phỏng vấn thiếu tướng Aharon Zeevi-Farkash, cựu chỉ huy đơn vị 8200, quân đội Israel (tháng 5 năm 2008).
[23] Phỏng vấn học giả kiêm sử gia quân sự Frederick W.Kagan, thuộc American Enterprise Institute for Public Policy Research (AEI) (tháng 12 năm 2009).
[24] Phỏng vấn công tố viên ki tá quân dự bị Israel Nathan Ron, Văn phòng luật Ron-Festinger (tháng 12 năm 2008).
[25] Phỏng vấn nhà đầu tư Amos Goren, hãng đầu tư Apaz (tháng 1 năm 2009).
[26] Bài nói chuyện của Amos Oz tại hội nghị Israeli Presidential Conference, Jerusalem (ngày 14 tháng 5 năm 2008).
[27] Phỏng vấn Michael Oren.
[28] Phỏng vấn Trung tướng Moshe Yaalon, quân đội Israel (tháng 5 năm 2008).
[29] Dẫn nguồn từ bài viết “The Book” của phóng viên Patrick Symmes, xuất bản trên tạp chí Outside số tháng 8 năm 2005; cuộc phỏng vấn cùng nhà nhân chủng học Darya Maoz (tháng 6 năm 2009) và buổi phỏng vấn với bà Dorit Moralli, chủ tổ hợp nhà hàng và khách sạn El Lobo ở La Paz, Boliva vào tháng 3 năm 2009.
[30] Sách Boycott and Blacklist: A History of Arab Economic Warfare Against Israel (nhà xuất bản Rowman & Littlefield, 1986) của tác giả Aaron J.Sarna, phần Phụ lục.
[31] Bài viết “The Effect of the Arab Boycott on Israel: The Automobile Market”, xuất bản trên trang 5 tạp chí Rand Journal of Economics (1998).
[32] Câu nà của Christopher Joyner được trích dẫn trong trang 14, sách Boycott and Blacklist: A History of Arab Economic Warfare Against Israel của tác giả Aaron J.Sarna.
[33] Trang 56-57 của sách Boycott and Blacklist: A History of Arab Economic Warfare Against Israel (tác giả: Aaron J.Sarna).
[34] Phỏng vấn Orna Berry, thuộc quỹ đầu tư Gemini Israel Funds (tháng 1 năm 2009).
[35] Phỏng vấn Edward Luttwak.
[36] Phỏng vấn Alex Vieux, CEO tạp chí Red Herring (tháng 5 năm 2009).
[37] Phỏng vấn David Amir (tên hư cấu) (tháng 8 năm 2008).
[38] Phỏng vấn nhà đầu tư Gil Kerbs (tháng 1 năm 2009).
[39] Phỏng vấn Gary Shainberg, Phó Giám đốc bộ phận công nghệ và cải tiến của British Telecom (tháng 8 năm 2008).
[40] IMD World Competitiveness Yearbook (năm 2005).
Phỏng vấn Mark Gerson, Chủ tịch Gerson Lehrman Group (tháng 1 năm 2009).
[42] Phỏng vấn Tal Keinan, đồng sáng lập KCPS (tháng 5 năm 2008).
[43] Phỏng vấn Yossi Vardi, “thiên thần đầu tư” (tháng 5 năm 2008).
[44] Phỏng vấn các tuyển trạch viên quân đội Mỹ (tháng 1 năm 2009).
[45] Sách Absolutely American: Four Years at West Point của David Lipsky; và phỏng vấn Lipsky (tháng 3 năm 2009).
[46] Thông tin trong đoạn này chủ yếu dựa trên cuộc phỏng vấn đại tá John Lowry, Tổng Giám đốc Harley-Davidson Motor Company (tháng 11 năm 2008).
[47] Phỏng vấn Jon Medved, CEO Vringo (tháng 5 năm 2008).
[48] Trải nghiệm này đã thúc đẩy giới lãnh đạo quân đội theo đuổi một chiến dịch quan hệ công chúng chủ động nhằm bắc nhịp cầu qua hố ngăn giữa quân đội và dân sự, bao gồm việc mời tạp chí Rolling Stone ghé thăm một lớp học ở West Point. Nỗ lực này đạt cao trào trong sách Absolutely American của David Lipsky. Đoạn này cũng dựa trên buổi phỏng vấn của tác giả với đại tướng John Abizaid (tháng 5 năm 2009).
[49] Phỏng vấn Tom Brokaw, tác giả sách The Greatest Generation (tháng 4 năm 2009).
[50] Phỏng vấn Al Chase, lãnh ạo tuyển trạch kiêm sáng lập White Rhino Partners (tháng 2 năm 2009).
[51] Phỏng vấn Nathaniel Fick, tác giả sách One Bullet Away (tháng 3 năm 2008).
[52] Phỏng vấn đại úy Brian Tice, binh chủng thủy quân lục chiến Mỹ (tháng 2 năm 2009).
[53] CIA, “Field Listing - Military Service Age and Obligation”, The 2008 World Factbook.
[54] Bộ Quốc phòng Singapore, “Ministerial Statement on National Service Defaulters by Minister for Defence Teo Chee Hean” (16-01-2006).
[55] Bài viết “A Deep, Dark, Secret Love Affair” của tác giả Amnon Barzilai, http://www.israelforum.com/board/archive/index.php/t-6321.html.
[56] Bộ Quốc phòng Singapore, “Speech by Prime Minister Goh Chok Tong at the 35 Years of National Service Commemoration Dinner”, (07-09-2007).
[57] BBC News, “Singapore Elder Statesman”, (05-07-2000); http://news.bbc.co.uk/2/hi/programmes/from_our_own_correspondent/820234.stm.
[58] Trích dẫn bởi James Flanigan, “Israeli Companies Seek Global Profile”, Thời báo New York, (20-05-2009).
[59] Phỏng vấn Laurent Haug, nhà sáng lập kiêm CEO Lift Conference, (tháng 5 năm 2009).
[60] Phỏng vấn Tal Riesenfeld, nhà sáng lập kiêm Phó Giám đốc tiếp thị EyeView (tháng 12 năm 2008).
[61] Thông tin trong đoạn này được lấy chủ yếu từ sách “Columbia’s Final Mission” của Michael A. Roberto, Amy C. Edmondson, và Richard M. J. Bohmer,” (năm 2006); Charles Mur-ray và Catherine Bly Cox, Apollo (năm 2004); Jim Lovell và Jeffrey Kluger, Apollo 13 (năm 2006); và Gene Kranz, Failure Is Not an Option: Mission Control from Mercury to Apollo 13 and Beyond (năm 2009).
[62] Michael Useem, The Leadership Moment: Nine True Stories of Tri-umph and Disaster and Their Lessons for Us All (năm 1998), trang 81.
[63] Roberta Wohlstetter được trích dẫn trong bài viết “Facing Ambiguous Threats,” Har-vard Business Review (tháng 11 năm 2006) của Michael A. Roberto, Richard M. J. Bohmer và Amy C. Edmondson.
[64] Phỏng vấn Yuval Dotan (tên hư cấu), phi công không quân Israel (tháng 5 năm 2008).
[65] Phỏng vấn Edward Luttwak.
[66] Phỏng vấn Eliot A. Cohen, Giám đốc Strategic Studies Program, trường Paul H. Nitze School of Advanced International Studies, Đại học Johns Hopkins (tháng 1 năm 2009).
[67] Trung tá Paul Yingling được dẫn lời trong bài viết “A Brave Lieutenant Colonel Speaks Out: Why Most of Our Generals Are Dinosaurs” của Thomas E. Ricks (tháng 1 năm 2009), http://ricks.foreignpolicy.com/posts/2009/01/22/a_brave_colonel_speaks_out_why_most_of_our_generals_are_dinosaurs.
[68] Trung tá Paul Yingling (quân đội Mỹ), “A Fail-ure in Generalship” (năm 2007), http://www.armedforcesjournal.com/2007/05/2635198.
[69] Giora Eiland, “The IDF: Addressing the Failures of the Second. Lebanon War,” trong The Middle East Strategic Balance 2007-2008, biên tập bởi Mark A. Heller (Tel Aviv: Institute for National Security Studies, 2008).
[70] Trích dẫn được xác minh lấy từ cuộc phỏng vấn Carl Schramm (tháng 3 năm 2009).
[71] William J. Baumol, Robert E. Litan, và Carl J. Schramm, Good. Capitalism, Bad Capitalism, and the Economics of Growth and Prosperity. (New Haven: Yale University Press, 2007); và Carl Schramm, “Economic Fluidity: A Crucial Dimension of Economic Freedom,” (năm 2008). Index of Economic Freedom, biên tập bởi Kim R. Holmes, Edwin J. Feulner, và Mary Anastasia O’Grady (năm 2008), trang 17.
[] Cục Thống kê trung ương Israel, “Gross Domestic Product and Uses of Resources, in the Years 1950 - 1995” trong Statistical Abstract of Israel 2008, số 59, bảng 14.1, http://www.cbs.gov.il/reader/shnaton/templ_shnaton_e.html?num_tab=st14_01x&CYear=2008.
[73] Howard M.Sacher, sách A History of Israel: From the Rise of Zionism to Our Time, trang 30.
[74] Trích dẫn trong People of the Century: One Hundred Men and Women Who Shaped the Last Hundred Years, Time/CBS News, trang 128.
[75] Leon Wieseltier, “Brothers and Keepers: Black Jews and the Meaning of Zionism”, New Republic (11-02-1985).
[76] Trích dẫn trong “Once Politicians Died Poor” của Meirav Arlosoroff, Haaretz (08-06-2008).
[77] Nông trang: Awakening from Utopia của Daniel Gavron, trang 01.
[78] The Children of the Dream: Communal Child-Rearing and American Education của Bruno Bettlheim, trang 15-17.
[79] Poluttion in a Promised Land: An Environmental History of Israel của Alon Tal, trang 219.
[80] “National Report of Israel, Years 2003-2005” của Alon Tal tại United Nations Convention to Combat Desertification (UNCCD) (tháng 6 năm 2006), http://www.unccd.int/cop/reports/otheraffected/national/2006/israel-eng.pdf.
[81] “From Far Benerath the Israeli Desert, Water Sustains a Fertile Enterprise” của Dina Kraft, New York Times (02-01-2007).
[82] Thông tin cho đoạn này lấy từ trang Web của Học viện Weizmann, Yatir Forest Research Group, http://www.weizmann.ac.il/ESER.People/Yakir/YATIR/Yatir.htm, và Keren Kayemeth LeIsrael/Jewish. National Fund, http://www.kkl.org.il/kkl/english/main_subject/globalwarming/israeli%20research%20has%20worldwide%20implications.
[83] “Generating a Socio-economic Leapfrod” của Học viện Reut (14-02-2008), http://reut-institute.org/data/uploads/PDFVer/20080218%20-%20%20Hausman%27s%20main%20issues-%20English.pdf.
[84] “Israel 15 Vision” của Học viện Reut, http://www.reut-institute.org/event.aspx?EventId=6.
[85] Thông tin của đoạn này lấy từ The Political Economy of Israel: From Ideology to Stagnation của Yakir Plessner, trang 11-31.
[86] Ibid, trang 2.
[87] “Inflation - the Rise and Fall” David Rosenberg trên trang Web của Bộ Ngoại giao Israel (tháng 1 năm 2001), http://www.mfa.gov.il.
[88] “Best Places to Do Business in the Wired World” của CNNMoney.com,http://money.cnn.com/galleries/2007/biz2/0708/gallery.roadwarriorsspecial.biz2/11.html.
[89] “McDonalds” của Orna Yefet, Yediot Ahronot (29-10-2006).
[90] Phỏng vấn Shlomo Molla, thành viên Knesset, Đảng Kadima (tháng 3 năm 2009).
[91] Nỗ lực giải cứu bí mật này được tài trợ bởi Cục Tình báo trung ương Mỹ, lính đánh thuê địa phương và cả quan chức an ninh Sudan. Chiến dịch được giữ bí mật chủ yếu vì lý do chính trị - nhằm bảo vệ Sudan khỏi bất kỳ sự phản kích nào từ phía các nước Ả-rập, vốn sẽ chỉ trích hành động trợ giúp Israel. Cuối cùng, khi câu chuyện về chiến dịch giải cứu bằng máy bay vỡ lở, các nước Ả-rập đã gây áp lực buộc Sudan ngừng các chuyến bay, và họ đã nghe theo. Việc này đã khiến một nghìn người Do Thái Ethiopia bị kẹt lại cho đến khi Chiến dịch Joshua do Mỹ thực hiện mang họ đến Israel vài tháng sau đó.
[92] Sách “Brothers and Keepers: Black Jews and the Meaning of Zionism” của Leon Wieseltier.
[93] Sách “Ethiopian Jews and Israelis Exult as Airlift Is Completed” của Joel Brinkley, Thời báo New York (26-05-1991).
[94] Sách “The Google Story” của David A.Vise và Mark Malseed, trang 15.
[95] Phỏng vấn Natan Sharansky, Chủ tịch kiêm thành viên ưu tú của các tổ chức Adelson Institute for Strategic Studies, Shalem Center và là nhà sáng lập của Yisrael B’Aliya (tháng 05-2008).
[96] Phỏng vấn David McWilliams, nhà kinh tế học người Ailen và là tác giả cuốn “The Pope’s Children” (tháng 05-2009).
[97] Phỏng vấn Erel Margalit, người sáng lập quỹ đầu tư Jerusalem Venture Partners (JVP) (tháng 05-2008).
[98] Phỏng vấn Reuven Agassi (tháng 12-2008).
[99] Trong khi điều luật mới đã trở nên cứng nhắc, Bộ Ngoại giao Mỹ đã chỉ đạo các quan chức lãnh sự ở nước ngoài phải khắt khe hơn đối với những hồ sơ của những ai bị xếp loại “public charge” trong luật nhập cư. Một “public charge” là một người không đủ khả năng nuôi sống bản thân hay gia đình. Vào lúc bắt đầu của cuộc Đại Suy thoái, nhằm đáp lại lời khẩn cầu của dân chúng trong việc siết chặt luật nhập cư, các lãnh sự viên ở nước ngoài được chỉ đạo phải mở rộng mức độ diễn dịch khái niệm “public charge” nhằm loại bỏ hồ sơ của những người chưa thật sự đáng bị xếp loại “public charge”. Quy định này đã trở thành một quy trình hoàn toàn cảm tính.
[100]>Sách “Paper Walls: America and the Refugee Crisis, 1938 - 1941” của David Wyman.
[101] Vài học giả hiện nay tin rằng việc thiếu vắng nơi trú ẩn cho người Do Thái đang tìm cách đào tẩu khỏi Đức và các vùng lãnh thổ sắp sửa bị quân Đức chiếm đóng đã trở thành một nhân tố quan trọng trong kế hoạch tiêu diệt người Do Thái ở châu Âu của Phát-xít Đức. “Bức tranh toàn cầu rõ ràng cho thấy chính sách [Quốc xã] khi đó là chỉ buộc người Do Thái rời châu Âu”, David Wyman cho biết. “Việc chuyển sang hành động tiêu diệt chỉ xảy ra sau khi biện pháp trục xuất đã thất bại, một thất bại chủ yếu do các nước khác không chịu mở cửa cho người tị nạn”. Theo sách “Paper Walls: America and the Refugee Crisis. 1938-1941” của David Wyman.
[102] Năm 1939, chính quyền Anh giới hạn mức 10 nghìn người nhập cư Do Thái được vào Palestine mỗi năm, cùng 25 nghìn suất bổ sung dự phòng. Đúng là vào năm 1945, Tổng thống Harry Truman đã yêu cầu một cuộc điều tra hành vi đối xử với người tị nạn Do Thái của chính phủ Mỹ, vốn có nhiều người làm việc trong những công xưởng quản lý bởi quân đội Mỹ. “Kết quả của bản báo cáo ghi lại sự đối xử tàn tệ gây sốc với những người tị nạn đã một lần bị hành hạ, đồng thời kêu gọi cánh cửa vào Palestine cần được mở ra”, Leonard Dinnerstein viết trong America and the Suvivors of the Holocaust. Sau nhiều nỗ lực thuyết phục nước Anh cho phép người Do Thái vào Palestine không thành công, Truman yêu cầu Quốc hội Mỹ thông qua một đạo luật cho phép chuyển một số lượng người này vào Mỹ. Khi dự thảo của Truman được thông qua vào năm 1948, năm khai sinh nước Israel; một nhóm các nhà làm luật, dẫn đầu bởi thượng nghị sĩ bang Nevada Pat McCarran đã thao túng việc phác thảo từ ngữ trong bản dự luật, để khiến nó hóa ra lại kỳ thị người Do Thái gốc Đông Âu. Cuối cùng, sử gia Leonard Dinnerstein ước tính chỉ có 16% số thị thực tị nạn giữa tháng 7 năm 1948 và tháng 6 năm 1952 là của người Do Thái. “Vì thế những mánh khóe và thủ đoạn của McCarran đã thành công”, Dinnerstein ghi chú. “Những người Do Thái lẽ ra chọn Mỹ làm nơi tái tạo cuộc sống đã đến Israel”.
[103] Tài liệu này có thể tìm thấy tại: http://www.jewishvirtuallibrary.org/jsource/History/Dec_of_Indep.html.
[104] Phỏng vấn David McWilliams, nhà kinh tế học Ailen và tác giả cuốn “The Pope’s Children” (tháng 3 năm 2009).
[105] Điều này không phải để ám chỉ rằng căng thẳng sắc tộc không tồn tại trong quốc gia rất bị phân hóa này. Mâu thuẫn sâu sắc đã bùng phát giữa những người đào tẩu khỏi nạn diệt chủng người Do Thái ở châu Âu với người Do Thái từ thế giới Ả-rập thuộc thời điểm lập quốc của Israel. Sammy Smooha, ngày nay là một nhà sinh học nổi danh tại Đại học Haifa, cũng như Agassi, từng là một người nhập cư Do Thái gốc Iraq phải trải qua tuổi thơ trong lều tạm. “Chúng tôi bị yêu cầu không được nói tiếng Ả-rập, nhưng tôi nào biết tiếng Hebrew. Mọi thứ đều lạ lẫm. Cha tôi từ một quan chức đường sắt ở Baghdad trở thành một kẻ vô dụng. Chúng tôi phải chịu sự mất mát nhân dạng tồi tệ. Giờ nhìn lại, tôi gọi đó là sự đàn áp văn hóa. Đằng sau lý tưởng cao đẹp về một dân tộc thống nhất, thì họ (người Do Thái gốc châu Âu) luôn cư xử trịch thượng và áp đặt”, trích dẫn trong cuốn “The Israelis: Ordinary People in an Extraordinary Land” của Donna Rosenthal, trang 116.
[106] Bài viết “The Cisco Kid Rides Again” của Fred Vogelstein, tạp chí Fortune (26-07-2004);http://money.cnn.com/magazines/fortune/fortune_archive/2004/07/26/377145/index.htm; cùng cuộc phỏng vấn Michael Laor, nhà sáng lập Cisco Systems Development Center ở Israel (Tháng 2 năm 2009).
[107] Bài viết “Cisco Router Makes Guinness World Records” (01-07-2004), trang tin CNET News, http://news.cnet.com/Cisco-router-makes-Guinness-World-Records/2100-1033_3-5254291.html?tag=nefd.top; truy xuất vào Tháng 01-2009.
[108] “The Cisco Kid Rides Again” của Vogelstein.
[109] Bài viết “Cisco Sees Momentum in Sales of Key Router” của Marguerite Reardon, trang TechRepublic, (06-12-2004),http://articles.techrepublic.com.com/5100-22_11-5479086.html; và thông cáo báo chí của Cisco “Growth of Video Service Delivery Drives Sales of Cisco CRS-1, the World’s Most Powerful Routing Platform, to Double in Nine Months” (01-04-2008), http://newsroom.cisco.com/dlls/2008/prod_040108c.html.
[110] Phỏng vấn Yoav Samet, Giám đốc phát triển thương mại của Cisco ở Israel, Trung Âu, Đông Âu, và Nga/CIS, (tháng 1 năm 2009).
[111] Phỏng vấn Yoav Samet.
[112] “The Dynamics of Diaspora Networks: Lessons of Experience” của Richard Devane trong báo cáo Diaspora Networks and the International Migration Skills của Ngân hàng Thế giới, biên tập bởi Yevgeny Kuznetsov, trang 59-67. Trích dẫn bắt đầu từ trang 60.
[113] “The New Argonauts: An Interview with AnnaLee Saxenian” của Jenny Johnston (tháng 07-2006), GBN Global Business Network, http://thenewargonauts.com/GBNinterview.pdf?aid=37652.
[114] Thông tin trong đoạn này lấy từ Anthony David, sách The Sky Is The Limit: Al Schwimmer, the Founder of the Israeli Aircraft Industry bằng tiếng Hebrew; và cuộc phỏng vấn Shimon Peres. Về chuyến bay qua Bắc cực của Peres và Schwimmer và cuộc gặp gỡ của Schwimmer với Ben-Gurion tại Mỹ, xem Shimon Peres, David’s Sling (1970).
[115] Phỏng vấn Yoelle Maarek, nguyên Giám đốc trung tâm R&D của Google tại Haifa, Israel (tháng 1 năm 2009).
[116] Bài viết “Microsoft Bill Gates Takes Google, Terrorism War to Israel” của Joel Layden, đăng trên Israel News Agency (2006),http://www.israelnewsagency.com/microsoftgoogleisraelseo581030.html; truy xuất tháng 11 năm 2008.
[117] Trích dẫn từ bản ghi chép trong bộ phim tài liệu do Ủy ban ngoại giao Mỹ Israel (AIPAC) thực hiện năm 2007, được cung cấp cho nhóm tác giả.
[118] Dan Senor là một nhà ầu tư tại Vringo.
[119] Phỏng vấn Alice Schroeder, tác giả cuốn The Snowball (2008).
[120] Bài viết “Hizballah’s Rocket Campaign Against Northern Israel: A Preliminary Report” của Uzi Rubin, Jerusalem Issue Brief, tập 6, số 10 (31-08-2006), http://www.jcpa.org/brief/brief006-10.htm.
[121] Phỏng vấn Eitan Wertheimer, Chủ tịch ban lãnh đạo Iscar (tháng 1 năm 2009).
[122] Sách Leadership the Hard Way: Why Leadership Can’t Be Taught - And How You Can Learn It Anyway của Dov Frohman và Robert Howard (2008), trang 1 đến trang 16. Mọi trích dẫn của Frohman trong đoạn này đều lấy từ cuốn sách này.
[123] Những cuộc phỏng vấn trong đoạn này với lãnh đạo cấp cao của Intel đều tránh nêu tên người được phỏng vấn (tháng 12 năm 2008).
[124] Phỏng vấn Eitan Wertheimer.
[125] Bài viết “Woman on a mission” của tác giả Jennifer Friedlin, báo Jerusalem Post (20-04-1997).
[126] Phỏng vấn Orna Berry, cổ đông tại Gemini Israel Funds, và Chủ tịch của một số công ty thuộc Gemini (tháng 1 năm 2009).
[127] Phng vấn Jon Medved, CEO và thành viên ban lãnh đạo của Vringo (tháng 5 năm 2008).
[128] Phỏng vấn Yigal Erlich, nhà sáng lập, Chủ tịch kiêm CEO của Yozma Group (tháng 5 năm 2008).
[129] Tài liệu nghiên cứu ““Venture Capital Policy in Israel: A Comparative Analysis and Lessons for Other Countries” của các tác giả Gil Avnimelech và Morris Tuebal, khoa kinh tế và quản trị kinh doanh tại Đại học Hebrew, trang 17 (tháng 10 năm 2002).
[130] Thông tin về sự thành lập của BIRD được lấy từ một cuộc phỏng vấn cùng Ed Mlavsky, Chủ tịch và nhà đồng sáng lập Gemini Israel Funds (tháng 12 năm 2008).
[131] Bài viết “ BIRD Foundation to Invest $9 Million in 12 Advanced Devel-opment Projects in Life Sciences, Energy, Communications, Software and Nanotechnology” của BIRD (Israel-US Binational Industrial Research and Development Foundation), http://www.birdf.com/_Uploads/255BOG08PREng.pdf.
[132] Sách Innovation of the State của Dan Breznitz, trang 60, (2007).
[133] Ed Mlavsky trong một bài thuyết trình bằng PowerPoint trước sinh viên trường Wharton MBA (2008).
[134] Phỏng vấn Jon Medved.
[135] Phỏng vấn Yigal Erlich.
[136] Ibid.
[137] Phỏng vấn Orna Berry.
[138] Yossi Sela, CEO Gemini Venture Funds, http://www.gemini.co.il/?p=TeamMember&CategoryID=161&MemberId=.
[139] Phỏng vấn Erel Margalit.
[140] Bài viết “Ireland Inc. Gets Innovated” trên báo Sunday Business Post On-Line của David McWilliams (21-12-2008),http://www.sbpost.ie/post/pages/p/story.aspx-qqqt=DAVID+McWilliams-qqqs=commentandanalysis-qqqid=38312-qqqx=1.asp; truy xuất vào tháng 1 năm 2009.
[141] Phỏng vấn Tal Keinan, nhà đồng sáng lập KCPS (tháng 5 và tháng 12 năm 2008).
[142] Phỏng vấn Ron Dermer, cu tùy viên kinh tế tại Đại sứ quán Israel ở Mỹ, và là cố vấn cao cấp của Thủ tướng Benjamin Netanyahu (tháng 9 năm 2008).
[143] Phỏng vấn Benjamin Netanyahu, Thủ tướng Israel (tháng 12 năm 2008).
[144] Lời đề từ đầu chương, trích dẫn trong bài viết “Israel’s Booming Hi-Tech Industry”, BBC News (06-10-2008),http://news.bbc.co.uk/2/hi/business/7654780.stm; truy xuất vào tháng 1 năm 2009.
[145] John Kao, sách Innovation Nation (2007)
[146] Michael Bar-Zohar, sách Shimon Peres: The Biography (2007), trang 223. Bài viết “Peres Biography: Israel, France Had Secret Pact to Produce Nuclear Weapons”, Reuters (30-05-2007).
[147] De Gualle theo như trích dẫn trong bài viết “De Gaulle’s Lonely Predictions” của Alexis Berg và Dominique Vidal, báo Le Monde Diplomatique (tháng 6 năm 2007), http://mondediplo.com/2007/06/10degaulle; truy xut vào tháng 9 năm 2008.
[148] Được trích dẫn trong bài viết “De Gaulle’s Lonely Predictions” của Berg và Vidal.
[149] Bài viết “Israel’s Fugitive Flotilla”, tạp chí Time (ngày 12 tháng 1 năm 1970), http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,942140,00.html.
[150] Sách Combat Aircraft Since 1945 của Stewart Wilson (2000), trang 77.
[151] Ruud Deurenberg, bài viết “Israel Aircraft Industries and Lavi” trên trang web Jewish Vir-tual Library (26-01-2009), http://www.jewishvirtuallibrary.org/jsource/Society_&_Culture/lavi.html.
[152] James P.DeLoughry, bài viết “The United States and the Lavi” trên tạp chí Airpower Journal, tập 4, số 3 (1990), trang 34-44, http://www.fas.org/man/dod-101/sys/ac/row/3fal90..
[153] Phỏng vấn Yossi Gross, Giám đốc và nhà đồng sáng lập TransPharma Medical (tháng 12 năm 2008). Ông cũng là người sáng lập nhiều doanh nghiệp sản xuất thiết bị y tế khác.
[154] Phỏng vấn Doug Wood, trưởng bộ phận sáng tạo, Animation Lab, tháng 5-2008.
[155] Phỏng vấn Yuval Dotan (tên nhân vật được thay đổi), tháng 12-2008.
[156] John Russell, “Compugen Transforms Its Business,” Bio-ITWorld.com, 17-10-2005, http://www.bio-itworld.com/issues/2005/oct/bus-compugen?page:int=-1.
[157] Phỏng vấn Ruti Alon, đối tác của công ty đầu tư mạo hiểm Pitango, đồng thời là chủ tịch, thành viên quản trị của BioControl, BrainsGate, và TransPharma Medical, tháng 12-2008.
[158] Phỏng vấn Michael Porter, giáo sư kinh tế, trường Kinh doanh Harvard, tháng 3-2009.
[159] Rhoula Khalaf, “Dubai’s Ruler Has Big Ideas for His Little City-State,” Financial Times, 3-5-2007.
[160] Michael Matley và Laura Dillon, “Dubai Strategy: Past, Present, Future,” trường Kinh doanh Harvard, 27-2-2007,.
[161] Trích từ Assaf Gilad, “Silicon Wadi: Who Will Internet Entrepreneurs Turn to in Crisis?” Cataclist, 19-9-1998.
[162] Saul Singer, “Superpower in Silicon Wadi,” Jerusalem Post, 19-6-1998.
[163] Quoted in Eyal Marcus, “Israeli Start-ups Impress at TechCrunch50,” Globes Online, 14-9-2008.
[164] James C. Collins và Jerry I. Porras, Built to Last: Successful Habits of Visionary Companies (New York: HarperCollins, 1997), tr. XIX, 224.
[165] Barbara W. Tuchman, Practicing History: Selected Essays (New York: Ballantine Books, 1982), trích từ Collins và Porras, Built to Last, tr. XIX.
[166] Phỏng vấn Riad al-Allawi, doanh nhân Jordan, tháng 3-2009.
[167] Fadi Ghandour, trích từ Stefan Theil, “Teaching Entrepreneurship in the Arab World,” Newsweek International, 14-8-2007; truy cập tại http://www.gmfus.org/publications/article.cfm?id=332 vào tháng 3-2009.
[168] Bernard Lewis, “Free at Last? The Arab World in the Twenty-first Century,” Foreign Affairs, tháng 3, tháng 4-2009. Samuel Huntington cũng đưa ra nhận xét tương tự.
[169] Trích từ Christopher M. Davidson, Dubai: The Vulnerability of Success (New York: Columbia University Press, 2008), tr. 166.
[170] UNDP (United Nations Development Programme), The Arab Human Development Report, 2005: Towards the Rise of Women in the Arab World (New York: United Nations Publications, 2006).
[171] Phỏng vấn Christopher M. Davidson, tác giả của Dubai: The Vulnerability of Success, tháng 3-2009.
[172] Trích từ Fannie F. Andrews, The Holy Land Under Mandate, vol. 2 (Boston: Houghton and Miffl in, 1931), tr. 4.
[173] Hagit Messer-Yaron, Capitalism and the Ivory Tower (Tel Aviv: Ministry of Defence Publishing, 2008), tr. 82.
[174] America-Israel Friendship League, “Facts About Israel and the U.S.,” http://www.aifl.org/html/web/resource_facts.html.
[175] McKinsey & Company, “Perspective on the Middle East, North Africa and South Asia (MENASA) region,” tháng 7-2008. Toàn bộ dữ liệu trong phần này đều lấy từ trên.
[176] David Landes, The Wealth and Poverty of Nations (New York: Norton, 1999), tr. 412-13.
[177] Trích từ Joanna Chen, “The Chosen Stocks Rally,” Newsweek, 14-3-2009, http://www.newsweek.com/id/189283.
[178] Phỏng vấn Benjamin Netanyahu, thủ tướng Israel, tháng 12-2008.
[179] Jennifer Evans, “Best Places to Work for Postdocs 2009,” The Scientist. com, vol. 23, no. 3, tr. 47, http://www.the-scientist.com/bptw.
[180] Phỏng vấn Dan Ben-David, Khoa Kinh tế, Đại học Tel Aviv, tháng 6-2008.
[181] Tỷ lệ tham gia lao động của Israel là 55% người trưởng thành, thuộc hàng thấp nhất phương Tây. Con số bình quân này bị kéo thấp xuống chủ yếu do tỷ lệ quá thấp của hai nhóm thiểu số: người Do Thái chính thống giáo cực đoan (40%) và phụ nữ Ả-rập (19%). Các số liệu này được lấy trong báo cáo Israel 2028. Báo cáo này đề xuất phương án gia tăng tỷ lệ tham gia lao động của hai nhóm thiểu số này lên lần lượt 55% và 50% vào năm 2028. Quỹ Khoa học và Công nghệ Mỹ-Israel, Israel 2028: Vision and Strategy for Economy and Society in a Global World, David Brodet biên tập (n.p.: Quỹ Khoa học và Công nghệ Mỹ-Israel, tháng 3-2008).
[182] Dan Ben-David, “The Moment of Truth,” Haaretz, 6-2-2007. Được in lại với biểu đồ trên trang web của Dan Ben-David: http://tau.ac.il/~danib/articles/MomentOfTruthEng.htm.
[183] Helmi Kittani và Hanoch Marmari, “The Glass Wall,” Trung tâm phát triển kinh tế Do Thái - Ả-rập, 15-6-2006, http://www.cjaed.org.il/Index.asp?ArticleID=269&CategoryID=147&Page=1.
[184] Trích từ Yoav Stern, “Study: Israeli Arab Attitudes Toward Women Undergoing Change,” Haaretz, 14-3-2009, http://www.haaretz.com/hasen/spages/1008797.html.
[185] Quỹ Khoa học và Công nghệ Mỹ-Israel, Israel 2028, tr. 39.
[186] Reut Institute, “Last Chance to Become an Economic Superpower,” 5-32009, http://reut-institute.org/en/Publication.aspx?PublicationId=3573.
[187] Bài tham luận của Thomas Friedman tại hội thảo của viện Reut, Tel Aviv, tháng 6-2008.
[188] Văn phòng sáng chế OECD và châu Âu, “Compendium of Patent Statistics,” 2008, http://www.oecd.org/dataoecd/5/19/37569377.pdf.
[189] Phỏng vấn Antti Vilpponen, founder, ArcticStartup, tháng 1-2009.
[190] Craig L. Pearce, “Follow the Leaders,” Wall Street Journal/ MIT Sloan Management Review, 7-7-2008, http://sloanreview.mit.edu/business-insight/articles/2008/3/5034/follow-the-leaders/.
[191] Trích từ Gallup, “Gallup Reveals the Formula for Innovation,” Gallup Management Journal, May 10, 2007, http://gmj.gallup.com/content/27514/Gallup-Reveals-the-Formula-for-%20Innovation.aspx.
[192] Dov Frohman và Robert Howard, Leadership the Hard Way: Why Leadership Can’t be Taught and How You Can Learn It Anyway (San Francisco: Jossey-Bass, 2008), tr. 7.
[193] Trích từ Ronald Bailey, “Post-Scarcity Prophet: Economist Paul Romer on Growth, Technological Change, and an Unlimited Human Future,” Reason Online, tháng 12-2001, http://www.reason.com/news/show/28243.html.
[194] Ronald Bailey, “Post-Scarcity Prophet”; và Paul Romer, “Economic Growth,” cả hai mục đều nằm trong The Concise Encyclopedia of Economics, David R. Henderson biên tập (Indianapolis: Liberty Fund, 2007), http://www.stanford.edu/~promer/EconomicGrowth.pdf.
Quốc Gia Khởi Nghiệp Quốc Gia Khởi Nghiệp - Saul Singer, Dan Senor Quốc Gia Khởi Nghiệp