Some books are to be tasted, others to be swallowed, and some few to be chewed and digested.

Francis Bacon

 
 
 
 
 
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 13
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 177 / 28
Cập nhật: 2020-06-17 09:39:10 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Đoạn Kết - Mưu Thần Chước Quỉ
ị đánh mạnh vào gáy, Văn Bình vẫn không mê man. Chàng còn tỉnh nhưng toàn thân chàng mệt rũ như vừa dự cuộc thi chạy dai sức dưới trời nóng, miệng khô ran, chàng thèm uống một cách kỳ lạ.
Tiếng nói trong phòng vẳng ra, nghe rõ ràng:
- Hắn bị ngất không?
Tiếng người phía sau Văn Bình đáp:
- Ngất rồi.
- Khiêng hắn vào trong này.
- Đoán trước còn gặp nhiều chuyện lạ nên Văn Bình nhắm nghiền hai mắt, giả vờ mê man. Sự thật đã xảy ra quá phũ phàng. Vì người đánh chàng không phải là ai xa lạ. Chính là Cô-Nắc, viên kỹ sư trẻ tuổi, vui tính, hòa nhã mà Kô-rê-nin giới thiệu với chàng. Còn người từ trong nhà nói vọng ra là nhà bác học Vôn Liệt.
Hơi nóng của lò sưởi điện trong phòng vặn hết cỡ làm Văn Bình ấm hẳn. Chàng bị ném vào góc phòng, cạnh tủ đựng máy hát. Chàng cố thở rất nhẹ, tay chân duỗi thẳng, cố ý làm cho Vôn Liệt và Cô-Nắc tưởng chàng đã bị mê man hoàn toàn.
Cô-Nắc nói với Vôn Liệt, giọng đắc thắng:
- Đấy, tôi đã bảo mà!
Vôn Liệt chép miệng:
- Tôi đâu có ngờ như vậy. Hắn là bạn tâm giao của tôi từ lâu...
Văn Bình nín thở để nghe. Câu chuyện mỗi lúc một thèm lý thú. À ra Vôn Liệt đã bắt tay chặt chẽ với địch! Vậy mà trước khi lên đường, chàng lại được ông Sì-Mít căn dặn rằng Vôn Liệt là một phần tử chống cộng sản khá kiên trì và sâu sắc. Giá trong lúc này ông Sì-Mít có diễm phúc đứng núp bên ngoài nghe Vôn Liệt tâm sự với Cô-Nắc thì chắc sẽ phải bực mình. Nhưng ông Sì-Mít dại gì đến cái xó lạnh lẽo này?
Vôn Liệt uống một hơi cạn, đoạn hỏi Cô-Nắc:
- Bây giờ anh định ra sao?
Cô-Nắc chỉ Văn Bình nằm dưới đất, hỏi lại:
- Hắn ấy à?
Vôn Liệt gật đầu, Cô-Nắc cười ngất:
- Để lát nữa tôi thưởng cho hắn một phát đạn vào óc.
Văn Bình rùng mình. Chàng phải cấp thời tìm cách thoát hiểm.
Chợt...
Cánh cửa nhìn ra đường bỗng bị đạp tung. Văn Bình nghe tiếng gọi thất thanh của Lô-Ra:
- Trời ơi! Anh Lý Dĩ?
Lô-Ra đứng giữa khung cửa,mặt tái mét, nàng đã thấy rõ Văn Bình nằm sóng sượt trên mặt đất và Cô-Nắc ngồi thản nhiên trên ghế bành hút thuốc lá, bên cạnh Vôn Liệt và chai rượu mạnh.
Nàng chưa kịp cất tiếng hỏi, thi Cô-Nắc đã đứng lên:
- Chào cô Lô-Ra.
Cái chào lễ độ của Cô-Nắc được kèm theo tiếng xoạch của khẩu súng lục lên dạn. Vôn Liệt chĩa súng vào phía nàng, ra lệnh:
- Mời bác sĩ ngồi xuống cho chúng tôi hầu chuyện.
Lô-Ra run như cầy sấy ngồi xuống ghế, Cô-Nắc hỏi nàng:
- Cô cùng đi với Lý Dĩ phải không?
- Phải.
- Tại sao đương đêm hắn lại đột nhập vào phòng bác sĩ Vôn Liệt?
- Tôi không biết.
Cô-Nắc dằn từng tiếng một:
- Phải! Cô không biết! Cô không biết nhưng mọi người ở trong căn cứ này đều biết rằng cô là nhân tình của Lý Dĩ.
Vôn Liệt chêm thêm vào, giọng châm biếm một cách chua chát:
- Và cũng là cộng sự viên thân tín của Kô-rê-nin.
Hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Văn Bình suy nghĩ để tìm ra ý nghĩa câu nói đột ngột của Vôn Liệt. Thì Lô-Ra đã quát lớn:
- Các ông không được hỗn xược.
Cô-Nắc cười:
- Như thế đâu phải là hỗn được? Vôn Liệt chỉ nói sự thật. Cô không phải là cánh tay phải của Kô-rê-nin trong căn cứ này là gì?
Lô-Ra bĩu môi khinh bỉ:
- Cảm ơn các ông. Tôi thà chết chứ không chịu quỵ lụy Kô-rê-nin...
Trong phòng, một phút im lặng. Văn Bình nghe rõ tiếng vốt-ka chảy xuống ly pha lê và tiếng Cô-Nắc tợp rượu vào họng.
Cô-Nắc đổi giọng bớt gay gắt hơn:
- Nếu vậy tại sao Lý Dĩ và cô đến nhà Vôn Liệt giữa đêm khuya?
Lô-Ra dáp:
- Tôi không biết. Các anh muốn biết thì cứ hỏi anh Lý Dĩ.
Vôn Liệt đi đi lại lại trong phòng, ra chiều suy nghĩ. Bỗng nhà bác học Đức đứng phắt lại và nhìn chằm chằm vào cái túi vải Lô-Ra đeo trên vai.
- Này Cô-Nắc, cái túi gì kia kìa?
Cô-Nắc chợt hiểu. Hắn cười gằn với Lô-Ra:
- Túi gì thế?
Lô-Ra làm thinh. Hắn lớn tiếng:
- Cô có chịu đưa tôi coi không hay là đợi tôi dùng sức mạnh?
Lô-Ra vẫn không nhúc nhích. Cô-Nắc tiến lại giật cái túi khỏi tay nàng. Nàng cưỡng lại. Cô-Nắc xô nàng ngã chúi vào đống bàn ghế.
Nằm dưới đất, Văn Bình cảm thấy máu sôi lên sùng sục. Vết đau sau gáy đã biến đâu mất. Chàng định vùng dậy, tặng cho hai gã bất lịch sự một bài học nhu đạo về phép đối xử với đàn bà đẹp. Nhưng bản tính chàng vốn dĩ tò mò. Chàng lại tiếc không được chứng kiến màn chót của tấn bi hài kịch đặc biệt.
Lô-Ra vùng vẫy nhưng không gỡ thoát bàn tay thép của Cô-Nắc. Hắn ném túi vải lên bàn rồi lục ra coi.
Hắn bỗng thốt một tiếng "à". Vôn Liệt hỏi dồn:
- Gì thế?
Cô-Nắc rút trong túi vải ra một loạt hồ sơ và băng nhựa ghi âm. Hắn ngước mắt, nhìn thẳng vào mặt Lô- Ra như dò la phản ứng. Đã sợ, nàng càng sợ thêm; vụ đánh cắp tài liệu tối mật bại lộ, nàng chỉ còn một lối thoát: pháp trường.
Cô-Nắc lặng lẽ mở những cuộn băng nhựa ra xem xét hồi lâu. Đứng bên, Vôn Liệt như bị thôi miên, Cô-Nắc lắp một cuộn băng vào máy ghi âm. Máy chạy rè rè và phát ra những âm thanh của Sơn thần Út-tun-Tắc. Hết cuộn này đến cuộn khác, Cô-Nắc nghe hết 10 cuộn nhưng mỗi cuộn chỉ nghe độ một phút đồng hồ.
Trong khi đó, Lô-Ra ngồi yên trên ghế, còn Vôn Liệt thì tiếp tục đốt hết điếu thuốc này sang điếu khác.
Cuộn băng cuối cùng vừa được gỡ ra khỏi trục máy.
Cô-Nắc thở dài nói với Vôn Liệt:
- Anh nghĩ sao?
Vôn Liệt dí tập tài liệu hỏa tiễn vào mắt Cô-Nắc:
- Lại còn cái này nữa!
Cô-Nắc chuyển sang giọng ngọt ngào hỏi Lô-Ra:
- Cô lấy những cái này trong hầm phải không?
Lô-Ra đáp:
- Phải.
- Còn đống tài liệu này?
- Trong tủ sắt của Kô-rê-nin.
- Lấy làm gì?
- Anh ấy lấy, tôi không biết.
Vôn Liệt và Cô-Nắc nhìn nhau, thái độ kinh ngạc. Vôn Liệt chép miệng:
- Không khéo bọn mình lầm rồi. Bây giờ liệu đánh thức anh ta dậy được không?
Cô-Nắc xách chai rượu vốt-ka còn nguyên lại phía Văn Bình. Hắn nâng đầu chàng lên, đoạn từ từ rót rượu vào miệng trong khi Vôn Liệt đứng nhìn chăm chú. Văn Bình chỉ đợi có thế để tỉnh dậy. Chàng ú ớ, mở mắt, nhìn hai người một cách yếu đuối và mệt nhọc. Cô-Nắc reo lên:
- A, anh ta đã tỉnh!
Lô-Ra chạy vội đến bên chàng. Chàng cố gắng chống hai tay xuống đất, ngồi dậy. Nàng suýt soa:
- Anh còn đau không?
Cô-Nắc đáp thay Văn Bình:
- Chắc không sao. Anh ấy chỉ bị đánh vào gáy.
- Tại sao lại đánh anh ấy?
- Chúng tôi lầm.
Văn Bình định giả mê thêm một lát nữa, nhưng vì thời giờ gấp rút, chàng đành nắn gáy, thở dài với Cô-Nắc:
- Suýt nữa tôi mất mạng.
Cô-Nắc cười đáp:
- Xin lỗi anh, chúng tôi lầm.
Vôn Liệt nói:
- Tôi mới cần xin lỗi anh, vì tôi tưởng anh là người của Kô-rê-nin sai đến bịp tôi nên mới ra tay.
Văn Bình tỏ dấu bất bình:
- Anh đã hứa với tôi. Anh quên rồi sao? Như anh đã thỏa thuận, tôi đến đây với mục đích...
Chợt nhớ ra là có Cô-Nắc, chàng ngừng bặt, đôi mắt nhìn Vôn Liệt chan chứa ý nghĩa.
Vôn Liệt khoát tay:
- Anh đừng ngại, Cô-Nắc là bạn cố giao của tôi.
Văn Bình hỏi giọng ngạc nhiên:
- Nghĩa là anh ấy cũng...?
Vôn Liệt cướp lời:
- Vâng, anh ấy cùng đi với chúng ta.
Chưa tin. Văn Bình hỏi gặng:
- Đêm nay, anh đâu đã biết tôi tới mà mời Cô-Nắc?
Vôn Liệt làm mặt giận, không đáp. Không khí trong phòng có vẻ nặng nề, Cô-Nắc nói:
- Thôi, nếu anh không thật lòng tin chúng tôi thì tùy anh....
Văn Bình chống chế:
- Không phải thế, nhưng nếu các anh đặt vào hoàn cảnh của tôi cũng phải băn khoăn. Hồi nãy anh vừa dọa bắn tôi và đánh tôi bất tỉnh, lẽ ra tôi phải giận anh mới đúng.
Vôn Liệt bật nghĩ ra:
- Kể ra anh thắc mắc rất hữu lý, tính tôi hơi nóng nảy, anh tha lỗi cho. Sau khi tiếp xúc với anh, tôi đã bàn luận với Cô-Nắc. Chúng tôi trù tính trốn khỏi căn cứ từ hai tháng nay nhưng chưa có dịp. Tôi lại nhà anh nhưng không gặp. Tôi chưa tin anh nên rủ Cô-Nắc đến đây, Cô-Nắc biết võ nghệ, còn có thể giúp tôi được đôi phần. Chủ trương của chúng tôi là nếu anh không trưng được bằng chứng thật tâm muốn trốn thì sẽ hạ sát anh, đoạn trốn ra trường bay, rồi cướp máy bay bỏ trốn.
Lô-Ra phê bình:
-May quá, kế hoạch của các anh không khác với kế hoạch của Lý Dĩ.
Vôn Liệt nói:
- Anh định đi đâu?
Văn Bình đáp:
- Tôi định bay thẳng đến Na Uy hoặc Phần Lan.
Cô-Nắc băn khoăn:
- Không được đâu, tôi sợ các giàn súng cao xạ dọc bờ biển.....
Văn Bình xoa hai tay vào nhau rồi cười:
- Anh yên tâm. Sương mù xuống nhiều, chúng mình sẽ tìm cách bay tránh ra-đa.
Vôn Liệt nhún vai, thở dài:
- Trăm sự nhờ anh cả. Tính mạng chúng tôi từ phút này xin phó thác cho anh. Nếu sẩy tay thì chúng mình chết hết.
Văn Bỉnh xiết chặt bàn tay ấm áp của Vôn Liệt.
Năm phút sau, bốn người ra xe. Xe hơi chạy riết ra trường bay quân sự. Từ biệt thự của Vôn Liệt đến phi trường chỉ phải chạy qua một trạm gác đêm. Văn Bình đã nghiên cứu kỹ càng từ trước.
Đêm cũng như ngày trong trạm đều có ba tên lính, hai ở ngoài, một trong văn phòng, liên lạc thường trực với đội bảo vệ trung ương.
Xe dừng trước rào cản.
Lô-Ra mở cửa xuống trước, nhìn tên lính thứ nhất; hắn quát:
- Ai đó đứng lại trình giấy.
Lô-Ra đáp to:
- Nữ bác sĩ Lô-Ra đây.
Tiếng quát thứ hai:
- Xin cho coi chứng minh thư.
Tên lính thứ hai tiến về phía nàng. Ngồi trong xe, qua cửa kính mở rộng, Văn Bình phóng ra một ngọn dao nhỏ xíu. Lưỡi dao trúng vào giữa tim. Tên thứ nhất chưa hiểu vì sao thì Cô-Nắc đã nhảy bổ vào người hắn. Hắn ta cố kêu lên nhưng cánh tay của Cô-Nắc đã thắt chặt quanh cuống họng thở.
Văn Bình rút khẩu súng Nagan trong túi ra, mở cửa vọng gác, bước vào. Tên thượng sĩ ngồi bên máy điện thoại chưa kịp phản ứng thì viên đạn 9 li của Văn Bình nhắm đúng yếu huyệt đã đưa hắn sang thế giới bên kia.
Ở bên ngoài, nhiệm vụ của Cô-Nắc cũng đã xong. Hai tên lính xấu số được khiêng vào trong vọng gác. Phía trước là sân bay của căn cứ 123. Những ngọn đèn nê-ông sáng rực một góc trời. Văn Bình nắm bàn tay Lô-Ra:
- Đi về phía nào, hở em?
Lô-Ra lái xe sang bên trái. Bốn người vượt qua khoảng tối, đoạn tiến vào khu chứa máy bay. Lô-Ra đã quen với vị trí sân bay nên lái xe thật giỏi, và tránh khỏi những nơi có thể có người.
Nếu không gặp trở ngại vào phút chót thì Văn Bình có thể rời căn cứ 123 an
toàn. Sân bay luôn luôn có sẵn một số phi cơ quân sự được chạy nóng máy, để phòng trường hợp bất thường có thể cất cánh trong khoảnh khắc.
Lô-Ra từng tiết lộ là căn cứ 123 có rất nhiều kiểu phi cơ lạ. Giờ đây, được nhìn tận mắt, chàng không ngăn được ngạc nhiên.
Trong một dẫy nhà cầu dài giằng dặc, thấp thoáng dưới ánh điện xanh biếc, chàng thấy gần một trăm máy bay đủ cỡ, to có, nhỏ có, khiến chàng có cảm tưởng là ở tiền tuyến.
Vả lại về phương diện quân sự bán đảo Tai Mia chính là tiền tuyến của Nga sô. Từ lâu, ông Sì-Mít vẫn hoài nghi Tai Mia là nơi được Nga Sô thiết lập giàn hỏa tiễn nguyên tử, để khi lâm trận có thể bắn vọt sang Bắc Mỹ. Thì nay, chàng đã có cơ hội mục kích tận mắt.
Ngay trước mặt chàng là một đoàn phi cơ Mig 17,19 mà các phi công Tây Phương đã nghênh chiến tại mặt trận Cao Ly, những chiếc Yak 25 dài gần 17 thước, bay nhanh 1.200 cây số một giờ, cánh sắc mũi tên, bụng mang theo những tên đạn khủng khiếp. Máy bay oanh tạc, thì đây một hàng Ilyushin 28 thiết trí hai đại bác 23 ly và hai đại liên 12 ly 7 có thể bay cao 15 ngàn cây số. Bên cạnh là những chiếc Myasischev 37, bay 1.000 cây số một giờ và chở bom nặng 4.500 ki lô. Nhích sang một chút nữa là chim sắt phóng pháo khổng lồ Tupolev 16 và 95.
Nhưng quang cảnh rợn người không phải là những đoàn phi cơ săn giặc và ném bom đầy tử khí này mà là một dẫy hỏa tiễn lấp lánh ở cuối sân bay. Mắt Văn Bình rất tinh nên chàng không thể nào lầm được. Những hỏa tiễn này được chôn ngầm dưới đất chỉ nhô mũi lên trên và được che bằng những mái tôn to tướng. Chàng từng ao ước được quan sát các hỏa tiễn của Nga mà chưa có dịp. Theo những báo cáo mà chàng được đọc thì Nga Sô hiện có hai hỏa tiễn xuyên lục địa mới nhất T2 và T3.
Những hỏa tiễn trước mặt chàng là T3, thứ lợi hại nhất, loại này tương tự như hỏa tiễn Titan lớn nhất của Mỹ cũng nặng 100 tấn, cũng bay 10.000 cây số như hỏa tiễn Titan.
Nếu vậy thì...
Suýt nữa chàng kêu lớn. Một tiếng nổ long trời lở đất nổi lên. Cô-Nắc quay lại phía chàng:
- Tên đạn T3 đấy, anh biết không?
Văn Bình gật đầu ra vẻ kinh hoàng. Cô-Nắc mím môi đoạn nói với chàng:
- Người Mỹ thật là dại dội? Anh có biết họ giấu tên đạn nguyên tử Titan ở đâu không?
Văn Bình lắc đầu, tỏ dấu không biết. Cô-Nắc đáp hộ:
-Ở rặng núi Montagnes Rocheuses. Còn Liên Sô thì cất trong hầm núi Pamir và Altai. Tên đạn Titan phải bay mất 11.000 cây số mới tới được Mạc tư Khoa, còn T3 đặt trong căn cứ ở eo biển Berbring chỉ cách Cựu kim Sơn có 4.500 cây số. Chưa đầy nửa đường thôi.
Văn Bình không đáp, chàng đang mải nghĩ tới chuyện khác.Có ai ngờ được Tai Mia lại là một trong những nơi chứa T3 của Nga sô? Căn cứ vào độ xa và hiệu lực, 10 hỏa tiễn xuyên lục địa của Nga Sô đặt trên bờ biển Behring có sức phá hoại tương đương với 40 hỏa tiễn Atlas hoặc 200 hỏa tiễn Minuteman của Mỹ ở tiểu bang Colorado.
Chuyến này chàng phải báo cáo hết cho ông Sì-Mít mới được!
Vôn Liệt hích cùi tay vào ngực chàng. Phía trước hai tên lính bước tới chầm chậm, nói chuyện như bắp rang.
Cô-Nắc phóng mình ra. Một tên bị kéo ngã. Cô-Nắc nhét mù soa vào miệng hắn. Tên thứ hai bị Văn Bình đánh ngã sóng soài trên nền xi-măng bóng loáng.
Hai phút sau, Cô-Nắc và Văn Bình đã mặc binh phục vào người. Lô-Ra và Vôn Liệt theo sau. Cô-Nắc cầm súng tiểu liên dẫn lộ, còn Văn Bình đi giữa...
Văn Bình do dự một giây. Cách chàng 10 thước là hai phi cơ đã được đốt nóng máy, có thể cất cánh bất cứ lúc nào. Phía hữu là chiếc T.U-14, bên trong khá rộng, tốc lực 900 cây số một giờ, có thể bay cao 15.000 thước và hoạt động trong 3.000 cây số. Bên tả là chiếc Yak, chỗ ngồi chật chội, tầm hoạt động ngắn hơn. 1.600 cây số là hết xăng. Song lại bay nhanh gần 15.000 cây số một giờ.
Chàng ra hiệu cho mọi người trèo lên chiếc Yak 1,Văn Bình kiểm soát táp-lô. Chàng thấy thùng xăng đầy ắp. Máy nóng hổi. Không dám bật đèn sợ bọn lính biết, Văn Bình cho động cơ nổ trong bóng tối. Tiếng động cơ phản lực rú lên. Đội lính tuần còn cách máy bay hơn một trăm thước. Tuy nghe thấy tiếng máy bay họ vẫn không nghi ngờ vì trong khi ấy ở đầu kia phi đạo cũng có máy bay cất cánh. Căn cứ 123, đêm cũng như ngày, hoạt động không ngừng.
Ga xăng xả đều, Văn Bình cho phi cơ lăn trên thảm bê-tông. Qua máy vi âm chàng nghe tiếng gọi của đài kiểm soát:
- M.M.89? M.M. 89? Ai lái đấy? Ai lái đấy?
Phi cơ sắp rời sân, bên cạnh chàng. Lô-Ra thu hình, mặt ướt đẫm bồ hôi, tuy trời rét như cắt ruột.
Đài kiểm soát phi trường lại thúc giục. Văn Bình đáp liều bằng tiếng Nga:
- Đu-gát-xích đây? Không biết sao mà hỏi mãi thế?
Người đối thoại im lặng trong một giây, Đu-gát-xích là phó tư lệnh của căn cứ 123. Tiếng nói hồi nãy lại nổi lên:
- Trời xấu lắm! Đợi một lát hãy rời sân!.M.M. 89 bảo là có thiếu tá Đu-gát-xích trên đó, tại sao trong sổ xuất nhập công tác không có? Yêu cầu phúc đáp ngay?
Văn Bình gắt ầm lên:
- Mấy chú làm mất thời giờ quá. Xem sổ lại lần nữa xem.
Lại im. Tiếng của nhân viên đài kiểm soát trở nên gay gắt hơn:
- M.M. 89, nắng vàng sắp tắt trên biển Láp-Tếp! Nắng vàng sắp tắt trên biển Láp-Tếp!
Văn Bình toát bồ hôi. Không tin lời chàng, viên sĩ quan phụ trách đã hỏi mật khẩu liên lạc. Nhưng chàng không cần trả lời nữa. Con chim sắt nặng 23 tấn, dài 23 thước, đã rướn mình rời khỏi phi đạo, vụt lên không trung. Tiếng phi cơ rời sàn át cả tiếng gào mật hiệu qua máy vi âm. Văn Binh nghe hồi chuông báo động của đài kiểm soát.
Chiếc Yak đã bay khỏi phi trường. Căn cứ 123 ban đêm từ trên cao trong xuống đen xì như một khu rừng. Ngoại trừ ánh sáng của trường bay, hầm núi và khu cư xá đều không có một tia lửa. Công cuộc phòng gian bảo mật của Kô-rê-nin quả là đáng khen ngợi. Máy bay lên cao dần dần. Cô-Nắc hỏi Văn Bình
- Họ biết bọn mình trốn rồi phải khổng?
Văn Bình đáp:
- Phải. Đài kiểm soát đã thông báo cho Đu-gát-xích biết. Họ chỉ biết một phi cơ Yak bay lên chứ chưa biết có ai.
Vôn Liệt thở dài đánh sượt:
- Đường tới Na Uy còn xa lắm, liệu mình thoát được không?
Văn Bình đáp:
- Chúng mình còn khá nhiều hy vọng.
Trong máy vô tuyến, chàng nghe rõ mồn một khẩn lệnh của đài kiểm soát cho một phi đội Mig 15 rời sân bay đuổi theo.
- Alô, lệnh truyền cho đoàn phi cơ chiến đấu M.S... Một Yak B-L vừa bị bọn phản động đánh cắp và bay về hướng Tây dọc duyên hải. Cẩn thận: chúng gồm bốn người. Đài vô tuyến truyền hình của trạm kiểm soát đã chụp được chúng. Trong số có một người đàn bà, hai nhà bác học bị bắt mang đi. Đội chiến đấu phải chặn chúng lại, nếu chúng không tuân lệnh quay về thì hãy bắn rớt.
Cô-Nắc run run nắm tay chàng:
- Phi cơ của căn cứ 123 sắp cất cánh. Họ quen đường hơn chúng mình, chắc chẳng bao lâu sẽ đuổi kịp. Dọc đường từ nhiều căn cứ khác sẽ có phi cơ bay lên. Bởi vậy, ta không nên bay dọc bờ biển.
Văn Bình hỏi Cô-Nắc:
- Anh định bay về phía nào?
- Thẳng về Bắc Mỹ.
Cô-Nắc đoán đúng mưu kế của chàng. Thật ra chàng bay về Mỹ. nhưng không nói trước cho các bạn đồng hành biết. Vôn Liệt bèn hỏi:
- Bay sang Bắc Mỹ dễ không?
Văn Bình nhìn Cô-Nắc, đợi trả lời. Cô-Nắc trải bản địa đồ hàng hải lên đùi, giải thích:
- Nếu chúng ta bay thoát đoàn phi cơ săn giặc của họ thì có thể đáp xuống căn cứ Eielson ở Bắc cực dễ như bỡn. Căn cứ này ở đầu mút tiểu bang Alaska. Cái khó nhất là làm cách nào không bị căn cứ Nôvoya Sibia, chặn lại.
Thì đây, trong máy vi âm vang lên lệnh của Đu-gát-xích cho căn cứ Nôvoya Sibia, hòn đảo lớn nhất của bán đảo Tây bá lợi Á, thuộc 75 độ vĩ tuyến bắc và 150 độ kinh tuyến đông:
- Alô, căn cứ 123 báo cho Nôvoya Sibia. Hãy chặn lại một chiếc Yak mang số 89, trên phi cơ là một bọn gián điệp. Yêu cầu báo tin cho mọi căn cứ dọc theo Bắc Băng Dương biết....
Chiếc Yak bay cao trên 7 ngàn thước. Bốn bề là một vừng sáng trong vắt như pha lê. Văn Bình vẫn xả hết tốc lực. Trong hoàn cảnh này chàng không tin phi cơ của địch bay kịp chàng.
Phi cơ bay trên biển Láp-Tếp. Văn Bình tránh không tới gần Si-bia 2 mà lái về phía Ambaxich 3. Một khi tới đó, chàng có thể vút qua eo biển Bê-rin 4 và hạ cánh trên đất Mỹ.
Trời đang phẳng lặng đột nhiên tối sầm lại, báo hiệu một cơn bão sắp xảy ra. Ở Bắc cực, bão tố thường đến bất ngờ gây nhiều nguy hiểm cho phi cơ. Lô-Ra nhìn Văn Bình, vẻ lo âu hiện rõ trên mặt:
- Gặp bão mất rồi. Liệu đến nơi được không anh?
Chàng xoa đôi vai tròn trĩnh của nàng:
- Em cứ tin ở anh. Thế nào cũng đến nơi. Trời xấu càng dễ tránh phi cơ khu trục.
Bỗng Cô-Nắc la lên:
- Kìa, phi cơ đang đuổi theo ở hướng 9 giờ 5
Văn Bình chúi mũi phi cơ, bay xà xuống mặt biển sóng dâng cuồn cuộn. Loại phi cơ chàng đang lái là một trong những con chim sắt bay nhanh nhất của Nga Sô, ngoại trừ Mig 19 và Mig 21, còn không chiếc nào bay kịp. Gần đuôi phi cơ có hai khẩu đại liên đủ sức bắn hạ những kẻ tới gần.Tuy nhiên, mục đích của Văn Bình là lẩn trốn, chỉ khi nào hết đường thoát thân mới nổ súng kháng cự.
Đoàn phi cơ theo sau mất hút trong sương mù dầy đặc, và đen sạm như buổi hoàng hôn.
Đồng hồ trên máy bay chỉ đúng 6 giờ sáng. Trên môi, Văn Bình nở nụ cười khoan khoái. Đêm nay, chàng và Lô-Ra được hưởng một đêm thần tiên trên đất
Mỹ. Lô-Ra ngồi áp vào mình chàng, miệng hỏi:
- Hết nguy chưa anh?
Văn Bình đáp:
- Hết rồi. Chúng mình đã vào hải phận Mỹ.
Vôn Liệt tỏ vẻ thắc mắc:
- Tại sao phi cơ của các căn cứ ở dọc đường không theo kịp nhỉ?
- Đó là công đầu của anh Lý Dĩ. Ngồi xem anh lái, tôi có cảm tưởng anh là hoa tiêu trứ danh chứ không phải là nhà bác học suốt đời bị giam hãm trong phòng thí nghiệm. Lúc rời căn cứ 123 tôi thấy anh bay sát mặt biển để tránh ra-đa, rồi đến khi có bóng phi cơ đuổi theo anh ta lại bay cao vút lên thượng tầng không khí trước khi xà xuống nước. Kinh nghiệm này, thú thật tôi là cựu hoa tiêu cũng không có.
Văn Bình cười:
- Cám ơn anh quá khen.
Thời tiết mỗi lúc một xấu. Căn cứ vào bản đồ chàng biết đã bay qua biên giới Nga Sô, tiến vào vùng trời Hoa Kỳ. Chàng mở máy vô tuyến gọi căn cứ tiền tuyến Eielson:
- Alô, alô, phi cơ Yak M.M.89 gọi Eielson khẩn cấp. Alô, phi cơ Yak M.M.89 gọi Eielson khẩn cấp!
Từ xa vẳng lên tiếng trả lời:
- Eielson đây? Bạn cần gì? Bạn đã bay lạc vào không phận Mỹ.
- M.M.89 từ bán đảo Tai Mia tới muốn đáp xuống Eielson.
Im lặng trong hai phút. Rồi tiếng nói cất lên:
- Yêu cầu cho biết lý do.
Văn Bình nói một hơi:
- Tị nạn chánh trị. Trên phi cơ có 4 người: bác sĩ Cao-Ly Lỹ Dĩ, bác sĩ Đức Vôn Liệt, kỹ sư Sô-viết Cô-Nắc và nữ kỹ sư Lô-Ra.
Lại im lặng.
Trong khi ấy, quang cảnh rộn rịp diễn ra tại căn cứ Eielson. Thiếu tướng Hê-ron, tư lệnh căn cứ, nở nụ cười khoái trá. Ngồi bên Hê-ron trong đài kiểm soát là đại tá Pít của C.I.A. Nghe tiếng Văn Bình trong máy vi âm, Pít vụt đứng dậy, bộ mặt xanh tái sau một tuần lễ không ngủ bỗng tươi lên như đứa trẻ được quà của mẹ về chợ. Từ một tuấn nay, Pít ngồi suốt ngày đêm trong đài kiểm soát, bên cạnh phích cà phê đặc sịt và vỏ đạn mọt-chê đựng tàn thuốc lá đầy ắp. Từ một tuần nay, nhân viên trong căn cứ sống trong bầu không khí báo động thường trực đợi Z.28 trở về.
Theo kế hoạch đã định, khi Văn Bình vượt qua không phận Sô-viết thì 12 phi cơ SF-104 A sẽ cất cánh để hộ tống. SF-104 A là loại phi cơ bay nhanh nhất thế giới với 2.260 cây số một giờ và cao nhất thế giới với 21.000 thước. Cùng bay lên với phi đội SF là 4 chiếc YF-108 với tốc dộ gấp ba bức tường âm thanh.
Thiếu tướng Hê-ron thở dài:
- Nguy quá, trời xấu lắm. Phi cơ khu trục không thể cất cánh dược. Tôi lại lo không biết người bạn của Đại tá có đáp xuống đây được không. Phải là hoa tiêu đại tài mới có hy vọng hạ cánh an toàn. Nhược bằng.....
- Alô, chúng tôi xin được tá túc chính trị. Trân trọng yêu cầu căn cứ Eielson báo cáo với Hoa thịnh đốn rằng Lý Dĩ về chỉ có một mình, còn Katy bị kẹt lại ở Mạc tư Khoa.
Đại tá Pít dằng lấy máy vi âm trong đài kiểm soát xong chưa nói. Chàng rút túi ra chiếc khẩu cầm, và rồi giữa sự ngạc nhiên của mọi người chàng thổi một bài ca cũ rích thời tiền chiến của Ti-Nô Rốt-Si. Thiếu tướng Hê-ron đứng dậy, vẻ mặt ngơ ngác.
Trên không trung, những nốt nhạc dập dìu tràn ngập phòng hoa tiêu. Cô-Nắc trợn tròn mắt:
- Bọn Mỹ này điên hả? Lúc này họ còn đùa bỡn và vui thú được ư?
Văn Bình không hề ngạc nhiên, tuy vậy chàng vẫn làm ra vẻ sửng sốt. Trước ngày lên đường, theo lệnh ông Sì-Mít, chàng đã thuộc một số bài hát dùng làm mật hiệu. Bài hát của Ti-Nô có nghĩa là "mọi việc đều an toàn". Nghĩa là đại tá Pít vừa báo hiệu cho chàng biết Katy đã được an toàn.
Bài ca mới hết một đoạn, Đại tá Pít bỗng chuyển qua một bài "cha, cha, cha" ồn ào. Trong phòng hoa tiêu, Văn Bình mỉm cười hát họa theo.
Nghe giọng hát của Văn Bình, đại tá Pít ngưng bặt. Chàng đặt khẩu cầm xuống bàn, mặt đột nhiên tái mét. Thiếu tướng Hê-ron hỏi:
- Đại tá bị mệt ư?
Pít lẩm bẩm một mình, dường như không nghe câu hỏi của Thiếu tướng tư lệnh căn cứ:
- Trời ơi, không khéo Văn Bình chết mất!
Trên phi cơ, Cô-Nắc đập vào vai Văn Bình:
- Ồ, anh cũng điên như bọn Mỹ dưới kia sao?
Chàng cười lớn:
- Chúng mình thoát nạn rồi, không điên sao được.
Chàng mở máy "hoa tiêu tự động" mặc cho máy bay tự lái một mình. Sau mấy giờ cầm máy và một đêm dài mệt nhọc, chàng thèm uống một tách cà phê đặc bỏng miệng. Chàng quay về phía Lô-Ra:
- Thèm cà phê quá! Anh bỗng nhớ tới cà phê em thường pha trong phòng thí nghiệm!
Lô-Ra nắm chặt bàn tay chàng. Nàng nói qua hơi thở thơm dịu:
- Em yêu anh quá.
- Yêu hả? Đã đến lúc chấm dứt trò hề rẻ tiền rồi.
Cô-Nắc ngồi bên Văn Bình trên ghế phụ tá hoa tiêu rút ra một khẩu súng lục bóng loáng chĩa thẳng vào bụng chàng, nói tiếp, chậm rãi nhưng chắc nịch:
- Hân hạnh chào nhà bác học giả mạo!
- Trời ơi! Té ra anh không phải là nhà bác học Lý Dĩ thật ư? - Lô Ra kêu lên.
Vôn Liệt rút một khẩu súng khác nhắm vào ngực Lô-Ra, điểm bằng cái cười ngạo nghễ:
- Cô ả chưa biết ư? Nó là một tên gián điệp Mỹ...
Lô-Ra bưng mặt khóc rưng rức. Từ vẻ mặt hiền lành của nhà bác học lỗi lạc, Vôn Liệt chuyển sang tàn bạo như kẻ chuyên môn giết người.Quay báng súng lại. Vôn Liệt giáng mạnh vào đầu Lô-Ra. Nàng gục xuống ghế, một giòng máu chảy ri rỉ xuống trán.
Văn Bình ngồi yên, không nói một tiếng. Chàng đang ở trong hoàn cảnh khó xử. Tuy nhiên, chàng không mất bình tĩnh. Chàng liếc mắt nhìn Vôn Liệt, lựa thế chống cự khiến Cô-Nắc quát to lần nữa:
- Gián điệp Mỹ, giơ tay lên?
Văn Bình không thể không vâng lời. Vôn Liệt gầm lên trong cơn giận dữ:
- Hừ, cái giận xung thiên này, chúng tao phải nhịn từ mấy ngày nay, bây giờ mới có dịp bộc lộ. Mi tưởng Liên sô mù mắt, không biết mi là gián điệp trá hình nhà bác học Lý Dĩ sao?
Văn Bình nhoẻn miệng cười, thản nhiên như không có chuyện nghiêm trọng xảy ra...
- Sao lại không?
Vôn Liệt thét to:
- Mi đừng nói láo! Sắp chết rồi còn kiêu ngạo! Mi biết số phận mi sẽ ra sao không?
Văn Bình vẫn cười:
- Sao lại không?
Cô-Nắc cáu tiết về thái độ bình tĩnh đến ngạo mạn của Văn Bình, tuy nhiên là gián điệp chuyên nghiệp, hắn đã dằn lại được. Hắn nói với chàng:
- Là kẻ trong nghề, tôi không muốn để anh chết mà oán thán chúng tôi. Tôi kể hại tuần tự cho anh nghe. Mười phút nữa mới phải cầm lái và từ bây giờ đến khi ấy, chúng mình còn chán thời giờ tâm sự. Chúng tôi khám phá ra anh là gián điệp C.I.A. mà không bắt, song đã tương kế, tưu kế để chơi lại C.I.A. một vố. Dầu sao. chúng tôi cũng nghiêng mũ chào ông Sì-Mít và anh vì đã đánh lừa được nhân viên của chúng tôi ở Mỹ...
Văn Bình cười nửa miệng:
- Đánh lừa Đại tá R.U. Séc-ghi Rô-Ma-Nốp.
Cô-Nắc tiếp, giọng kẻ cả:
- Anh quên rằng chúng tôi chỉ lầm trong buổi đầu. Đến khi biết chắc trăm phần trăm Lý Dĩ bằng xương thịt còn ở Mỹ, chúng tôi đã tìm cách quật lại.
Văn Bình nhún vai:
- Anh lầm rồi. Các anh đã bị tôi đánh lừa lần nữa.
Cô-Nắc dằn từng tiếng:
- Đừng láo!
Văn Bình gằn giọng:
- Nếu các anh không muốn nghe, tôi cũng xin chiều, kế của anh rất hay, nhưng chỉ hay một khi tôi không biết trước. Nó đã trở nên khôi hài vì thú thật, tôi cũng biết rõ không kém gì các anh. Vì khi tôi bị lộ, ông Sì-Mít đã báo tin cho tôi biết để đề phòng.
- Ngụy biện! Báo tin bằng cách nào?
- Kể ra thì không nên tiết lộ làm gì, nhưng tôi tin các anh sẽ mất mạng trên chuyến phi cơ này nên tôi nói hết cho mà nghe, ông Sì-Mít đã dùng làn sóng điện của đài Mạc tư Khoa báo tin cho tôi.
Cô-Nắc chép miệng:
- Thảo nào! Thảo nào!
Văn Bình tiếp tục:
- Anh cũng công nhận là đúng chứ? Vâng, tôi đã nhận được mật điện của ông Sì-Mít qua một bản tin của đài Mạc tư Khoa. Các anh tưởng điệu hổ ly sơn thì dễ thi hành độc kế, ai dè sau khi Katy bị đưa về Mạc tư Khoa tôi lại bố trí cứu nàng thoát khỏi và nhờ nàng chuyển tài liệu về Mỹ.
- Nói dối! Katy còn ở Mạc tư Khoa và phút này cô ta đã bị tống giam.
- Các anh giàu trí tưởng tượng quá! Lúc nãy các anh không nghe bản nhạc khẩu cầm của Ti-Nô Rốt-Si sao! Đó là mật hiệu báo tin Katy đã về Mỹ.
- Khá lắm. Khá lắm! Nhưng rồi anh cũng phải chết.
- Chết bằng cách nào?
- Lát nữa, máy bay sẽ đáp xuống trường bay Eielson. Vôn Liệt sẽ tiêm cho anh một phát thuốc vào người. Anh sẽ chết tức khắc. Thuốc độc này làm tê liệt thần kinh không để lại vết tích nào khả nghi.Giải phẫu cơ thể anh. C.l.A. cũng tưởng anh bị tai nạn mà chết.
- Tôi chết, đại tá Pít sẽ không để cho hai anh yên ổn.
Cô-Nắc hé một nụ cười nham hiểm:
- Cảm ơn anh đã nghĩ chu đáo. Nhưng chúng tôi đã nghĩ giùm anh kỹ càng rồi. Trong mấy phút nữa, anh sẽ bị đánh ngất, tôi sẽ ngồi lái và đáp xuống cách nào để cho lửa bốc cháy trong phòng hoa tiêu. Anh sẽ cháy như cây đuốc vì mình anh được rưới đầy xăng. Tôi và Vôn Liệt sẽ được an toàn và thản nhiên hoạt động trên đất Mỹ.
- Còn Lô-Ra?
- Cũng vậy.
- Các anh đa mưu lắm, nhưng còn để lại một khuyết điểm. Anh Vôn Liệt đóng trò thật khéo song tôi đã biết từ trước Vôn Liệt trên máy bay này không phải là Vôn Liệt thực thụ.
Vôn Liệt kêu lên:
- Sao? Mi nói sao?
- Nói rằng anh là Vôn Liệt giả hiệu cũng như tôi là Lý Dĩ giả hiệu vậy.
Cô-Nắc thở dài:
- Tại sao anh biết?
- Giản dị lắm. Nhờ hai chi tiết cỏn con. Các anh đã khôn ngoan nhưng chưa khôn ngoan hoàn toàn. Trước khi gặp Vôn Liệt giả, tôi đã đến biệt thự của Vôn Liệt thật mấy lần.
- À, ra anh giết hai tên lính?
- Đúng, giết cả Svéc-lốp nữa. Gặp Vôn Liệt giả, tôi đã kiểm điểm lại cái thẹo ở chân tóc. Hai thẹo này có. Tuy nhiên, nhân vật đóng Vôn Liệt giả chưa thuộc hết vai trò của mình...
Vôn Liệt dơ báng súng, định bổ xuống đầu chàng:
- Mi đừng có mà châm biếm! Tao chưa thuộc đoạn nào, thử nói ra coi?
Văn Bình không biến sắc:
- Giết nhau cứ giết, còn muốn nói chuyện với nhau đúng tư cách của nhà gián điệp chuyên nghiệp thì phải có lễ độ. Ngữ anh được chọn làm Vôn Liệt thì quả là Nga sô đã hết nhân tài! Đây, tôi nói cho anh nghe, Vôn Liệt bao giờ cũng đợi hút thuốc hết nửa điếu mới chịu gạt tàn. Lúc này anh mới hút được một hơi chưa có tàn đã gạt, một chi tiết tầm thường nhưng phải khổ tâm luyện tập mới khỏi quên.
Vôn Liệt giả đỏ mặt, ngồi vên. Văn Bình vẫn chưa hề buông tha:
- Tặng anh một kinh nghiệm nữa, chân anh cũngđi giày cỡ 42 như Vôn Liệt nhưng Vôn Liệt bao giờ cũng đóng ba con cá. Anh còn nhớ sự ngạc nhiên của tôi khi anh trèo lên máy bay không? Vì tôi không nghe tiếng cá giầy của anh nện xuống đường. Nghĩa là anh không phải là Vôn Liệt, Cô-Nắc cũng không là Cô-Nắc.
Cô-Nắc nhoẻn miệng cười:
- Hoan hô anh. Thôi, thời giờ sắp hết rồi. Trước khi anh chết tôi xin tự giới thiệu, Vôn Liệt đây là nhân viên cộng sự thân tín của tôi. Còn tôi có lẽ anh nên biết tên. Tôi chính là Đại tá Ki-ma-kô của R.U. Sô-viết.
Văn Bình nghiêng đầu chào:
- Vạn hạnh, vạn hạnh, còn tôi tên thật là Văn Bình, người Việt nam.
Vôn Liệt trợn mắt:
- Có phải Z. 28 đấy không?
Văn Bình gật đầu:
- Chánh danh.
Vôn Liệt thét lên:
- À, nếu mi là Z.28 thì mi càng đáng chết hơn nữa. Mi đã dọc ngang ở Đông âu, Trung Quốc và Bắc Việt, rõ thật run rủi cho mi hôm nay đến ngày tận số rồi.
Văn Bình bĩu môi:
- Nếu sợ chết thì chẳng ai làm cái nghề này. Tuy nhiên, tôi muốn xin các anh một phút giãi bày nữa. Tuy bị thất thế, tôi vẫn coi các anh là bọn gián điệp đàn em.
Cô-Nắc quay khẩu súng trên tay:
- Hừ, anh bao giờ cũng tự phụ. Anh quên mất rằng đống tài liệu anh mang trong phi cơ về là do chúng tôi tạo ra rồi lừa anh đến lấy.
- Phải. Các anh hơn tôi chỗ đó. Vả lại, trong bất cứ một cuộc mưu vận nào ai dám tự hào là luôn luôn ở trên chân đối thủ, phải không hai anh? Song tôi mạn phép được hơn ở hai điểm sau đây. Thứ nhất, tài liệu đáng giá nhất là bản thu thanh của Sơn thần Út-tun-Tắc và Họa đồ căn cứ 123, thì tôi đã gửi Katy đem về Mỹ. Tôi đã ngấm ngầm thu thanh và chụp hình cho vào một ống sáp môi tí hon. Thành ra cuộn băng tôi mang về hôm nay là thật hay giả cũng chẳng quan hệ nào. Và điều thứ hai là vào giờ này cái hầm chứa vũ khí và tài liệu bí mật nhất của căn cứ đã bị nổ sụp. Vì tôi đã gài lại chất nổ. Vôn Liệt thực thụ cũng chết dưới đống gạch vụn. Chất nổ sẽ làm hư hỏng giàn phóng hỏa tiễn, và căn cứ 123 mà các anh mất bao triệu rúp để xây dựng đã tan ra thành tro bụi.
- À....
- Cám ơn các anh đã dặn dò phi dội trên biển Láp- Tếp đừng bay kịp chiếc Yak mà tôi điều khiển. Nếu quả muốn chặn lại thì khó gì. Nước các anh thiếu gì phi đạn tự động tìm mục phiêu để phá tan trên thượng tầng không khí.
Tôi sắp chết, tôi xin gửi lại lời vĩnh biệt các anh. Nhưng đại tá Ki-ma-kô ơi,
tôi chết hai anh cũng chết vì trên máy bay này tôi đã cất sẵn một trái bom. Hễ đáp xuống bom sẽ nổ tung.
Vôn Liệt nắm tay Văn Bình rung thật mạnh:
- Ở đâu, mi phải cho tao biết? Thối rồi, mi bịa đặt ra chứ gì?
Văn Bình mím miệng cười khinh bỉ:
- Tôi không thèm bịa đặt. Thử nhìn ra góc này xem.
Vừa nòi chàng vừa chỉ tay ra một góc phi cơ. Ki-ma-kô và Vôn Liệt (giả) cũng nhìn theo phía ngón tay của Văn Bình. Khẩu súng của Ki-ma-kô đã để trên ghế, chỉ còn súng của Vôn Liệt lăm lăm trên tay. Tuy vậy, một giây đồng hồ đãng trí của Vôn Liệt đã khá đủ cho chàng chuyển bại thành thắng.
Phòng hoa tiêu tuy chật nhưng chàng cũng hành động được dễ dàng. Trong chớp mắt tay trái của chàng tung lên phía trước trúng khẩu súng của Vôn Liệt. Cùng trong lúc ấy, chàng giáng sống bàn tay vào mặt hắn.
Khẩu súng của Vôn Liệt rơi xuống sàn phi cơ. Cú đánh thần tốc của Văn Bình chưa được mạnh, nên hắn ngã lật ra sau nhưng chưa bị mê man.
Là tay lão luyện, Ki-ma-kô phản ứng nhanh như điện.Hắn nắm lấy khẩu Nagan 9 ly đưa ra phía trước bắt chàng giơ tay.
Bỗng đoàng một tiếng. Đó là tiếng súng bắn của Lô-Ra.
Khẩu súng của Vôn Liệt, vì một trớ trêu kỳ quặc, đã bay vào tận tay Lô-Ra khi ấy nép mình trong góc phòng hoa tiêu. Nàng chỉ đưa thẳng lên, nã vào người Ki-ma-kô.
Có lẽ vì cảm xúc, và có lẽ vì nàng chưa bắn thạo nên phát đạn bay vèo qua tai Ki-ma-kô cắm phập vào ghế phi cơ. Lô-Ra chưa kịp bóp cò lần nữa thì viên đạn bá phát bá trúng của đại tá R.U. Ki-ma-kô đã bắn vào giữa ngực nàng. Lô-Ra quăng súng ôm chầm lấy vết thương quá nặng và quẹo đầu xuống.
Ki-ma-kô định diệt Lô-Ra trước rồi kết liễu Văn Bình sau nhưng không ngờ Văn Bình lại nhanh hơn. Mũi súng của Ki-ma-kô chưa kịp quay lại chàng đã ôm chặt lấy cườm tay cầm súng.
Một cuộc xung đột khủng khiếp về nhu đạo diễn ra trên chiếc Yak B.L bay 7.000 cây số trên không trung Alátka. Phòng hoa tiêu chật chội hai nhà nhu đạo thắt lưng đen chỉ có thể giết nhau bằng môn võ bẻ tay điểm huyệt atémi. Thoạt tiên tay trái của Văn Bình nắm được cườm tay phải của Ki-ma-kô. Ki-ma-kô bị rơi súng nhưng trong khi Văn Bình chưa đánh kịp hắn đã vặn nắm tay từ phải sang trái một phần tư vòng, và phá bặt lên.
Vừa gỡ được tay phải, Ki-ma-kô dùng luôn sống tay này đánh quật lại vào nhân trung Văn Bình trong thế atémi cực kỳ nguy hiểm Uraut chi-ken mà người
bị đòn dễ bị ngất. Văn Bình đảo người né kịp.
Ki-ma-kô bèn bắt lấy hai bàn tay của Văn Bình. Bị lâm vào gọng kềm này, Văn Bình liền vận nội công gạt hai cánh tay rộng ra, và trong khi đó dùng bàn tay phải nắm lấy cổ tay phải của Ki-ma-kô, rồi cũng áp dụng thế đánh của Ki-ma-kô lúc nãy đã gỡ thoát, đoạn bồi thêm một cú atémi bằng nắm tay trái vào khuỷu tay địch.
Nếu là người khác thì đã gãy tay nhưng Ki-ma-kô chỉ bị đau nhói. Cánh tay kia không bị đau. Ki-ma-kô bèn hoành ra, níu tóc Văn Bình. Chàng liền vung hai tay lên bắt lấy. Đoạn lên gối vào giữa ức Ki-ma-kô. Chàng nhắm một yếu huyệt gọi là Shi-kông, đụng tới là thác.
Song Ki-ma-kô đã lừa chàng. Văn Bình vừa đưa hai tay lên, hắn đã chuyên thế, đâm ba ngón tay vào khoảng giữa lông mày. Văn Bình rợn tóc gáy, trúng huyệt này chàng phải chết. Thành ra để tránh độc thủ. cả hai đều phải nhả nhau.
Mấy giây sau, Ki-ma-kô lại quấn vào Văn Bình. Hai người bẻ cổ nhau, bóp nhau cho ngạt, khóa đầu nhau, nhưng vẫn chưa phân thắng bại.
Văn Bình liền xoay qua môn võ khác, chàng liền đánh những miếng nguy hiểm nhất mà sư phụ nhu đạo của chàng căn dặn không bao giờ được dùng, ngoại trừ khi nào không còn lối thoát khác. Từ xưa đến nay chàng thường dùng atémi để giải quyết những trường hợp khó khăn, nhưng ít khi hạ độc thủ. Chàng thét lên một tiếng Kiai lớn, đoạn đánh hai atémi một lượt. Ki-ma-kô nhào tránh, và trong khi né đòn hắn rút được một khẩu súng khác treo trên vách phi cơ. Ngón tay Ki-ma-kô ấn mạnh vào cò. Đoàng... Đoàng...
Nhưng Văn Bình không bị trúng đạn.
Vì người bắn không là Ki-ma-kô mà vẫn là Lô-Ra. Nàng nhả đạn vào giữa mặt Ki-ma-kô. Ki-ma-kô bưng mặt ngã vật xuống sàn phi cơ.
Văn Bình nâng Lô-Ra lên, đặt đầu nàng lên đùi, rồi đóng máy hoa tiêu tự động. Lô-Ra lim dim đôi mắt, giọng đau đớn:
- Anh ơi!
Chàng vuốt má nàng:
- Em yên tâm, gần đến nơi rồi.
Văn Bình lái phi cơ xà xuống mặt biển. Trước mặt chàng thấy một vùng trắng xóa. Bên trên sương mù trắng xóa. Nước biển cũng trắng xóa một màu. Một trận gió tuyết thổi qua dữ dội làm phi cơ tròng trành. Thời tiết đột nhiên xấu hẳn. Chàng gọi cho căn cứ Eielson...
- Z.28 gọi Eielson. Z.28 gọi Eielson cho biết Q.F.E. 6
Tiếng nói từ dưới căn cứ vẳng lên, chứa đầy lo âu:
- Eielson gọi Z.28, tin tức khí tượng xấu lắm, xấu lắm. Một trận cuồng phong đang nổi lên và kéo về đây.
- Z.28 gọi Eielson... Alô....Liệu tôi đáp xuống có được không?
Trong máy vi âm có tiếng thở dài của Đại tá Pít:
- Chúng tôi đã hết sức cố gắng... Phi trường ở đây sắp bị Q.G.O hoàn toàn 7.
- Phi cơ của tôi sắp sửa hết xăng, lại có người hấp hối. Có phương pháp cấp cứu nào không?
Văn Bình vừa dứt câu thì một cơn gió hãi hùng chở đầy khí lạnh Bắc cực quạt vào cánh phi cơ. Trời lạnh buốt xương chàng vẫn toát đầm bồ hôi. Như người mù lang thang giữa đường đông nghẹt, chàng bay mò mẫm, không nhìn thấy đường, tai nạn có thể xảy ra bất cứ lúc nào.....
o O o
Trong khi ấy, tai nạn hãi hùng xảy ra trên bán đảo Tai Mia. Trong đài kiểm soát phi trường thuộc căn cứ 123, Thiếu tá Đu-gát-Xích lẳng lặng rít một hơi thuốc lá Mặt hắn xanh tái, đôi mắt thâm quầng, dáng điệu hắn mệt nhọc sau một đêm dài thức trắng. Máy viễn ký từ hai căn cứ Am-ba-xích và Si-bia dọc theo Bắc băng dương vẫn tiếp tục kêu lạch xạch. Hắn giật miếng giấy vàng ra khỏi máy, nhẩm đọc:
- M.M.89 đã vượt qua biên giới Liên sô, tiến về phi trường Eielson. Phi cơ của ta bay theo không kịp.
Đu-gát-Xích nở nụ cười kiêu ngạo.Tối qua, các phi đội Mig 19 và 21 đã được lệnh rời căn cứ dọc biên giới trở về nội địa tham dự một cuộc tập trận, chỉ còn trơ lại những chiếc Mig 15 cũ mèm bay thua Yak BL gần bốn trăm cây số một giờ. Ha ha, nếu tên gián điệp Mỹ này biết sự thật nhỉ?
Đu-gát-Xích tợp một ngụm cà phê, sửa soạn về phòng để kéo một giấc ngủ bù trừ.
Đột nhiên, một tiếng nổ kinh thiên động địa vẳng tới, Đu-gát-Xích ù tai, vịn vào cửa cho khỏi ngã. Một loạt tiếng nổ khác tiếp theo. Hắn la lên:
- Trời ơi, dưới hầm!
Thật vậy, tiếng nổ đã từ dưới hầm đá phát ra. Trong khoảnh khắc, căn cứ 123 rộng lớn biến thành một đám cháy khổng lồ. Lửa lan vào kho nhiên liệu của sân bay rồi kéo sang giàn hỏa tiễn T-3. Đám cháy bành trướng rất nhanh nhờ những trận gió dữ dội thổi dốc qua căn cứ.
Thở hổn hển, Đu-gát-Xích chạy xuống phi đạo....
Bùng, bùng, đoàng, đoàng... Phi cơ bắt đầu nổ tung.
Binh sĩ chạy nhốn nháo. Đội cứu hỏa vừa phóng xe chở tuyết than khí tới gần giàn hỏa tiễn thì bị chìm ngập trong biển lửa. Khu hầm đá kiên cố được xây bằng bê-tông cốt sắt và trang bị máy điều hòa khí hậu,tốn của công quĩ Sô-viết hàng triệu rúp chỉ còn lại một đống lửa đỏ ối, cao ngất trời...
Như người điên, Đu-gát-Xích chạy vội lại một chiếc trực thăng. Đó là chiếc M I-I N.K.h 8 được dùng để liên lạc và chuyên chở bệnh nhân. Thần hỏa mới hoành hành trong khu chứa phi cơ oanh tạc và khu trục, còn khu chứa trực thăng vẫn còn nguyên vẹn. Chiếc MI này có thể bay gần hai trăm cây số một giờ, Đu-gát-Xích có hy vọng thoát hiểm nếu rời căn cứ kịp thời.
Những luồng khói màu xanh chở đầy mùi ét-xăng mùi ma-dút và mùi thuốc súng làm hắn nghẹt thở và quáng mắt. Sắp sửa trèo lên trực thăng, hắn giật mình kinh ngạc vì thấy ghế ngồi đã bị chiếm hết, cánh quạt bắt đầu quay tròn và người lái là một vệ sĩ của Đại tá Kô-rê-nin. Hành khách trong trực thăng đều là nhân viên Smerch, trong ban an ninh của căn cứ.
Đu-gát-Xích quát:
- Xuống mau.....
Tiếng ồn của đám cháy át hẳn khẩu lệnh của Đu-gát-Xích. Hắn nhảy lên trực thăng, giọng dữ tợn:
- Xuống mau....
Trên trực thăng có cả thẩy ba, bốn người. Thường ngày họ sợ Đu-gát-Xích như cọp. Nhưng trong phút này, họ đều thản nhiên coi hắn như người lạ. Đu-gát-Xích bị một người cản lại.
- Hết chỗ rồi, mời thiếu tá tìm trực thăng khác.
Đu-gát-Xích quát:
- Mày xuống, nhường chỗ cho tao...
Hắn không kịp nói thêm nữa. Một trái đấm vào giữa mặt, hắn choáng váng một giây rồi ngã xuống. Trực thăng từ từ bay lên. Một phút sau, đám cháy lan tới chỗ thiếu tá Đu-gát-Xích nằm bất tỉnh. Hắn quẫy lên một cái rồi tắt thở...
Lửa sáng một góc trời.
o O o
Nhìn ngọn lửa màu xanh đang liếm dần tờ giấy, Đại tướng Sê-rốp 9 thở dài. Sở Phản gián Smerch vừa báo tin Katy trốn thoát Trong cơn phiền muộn, Sê-rốp châm lửa đốt bản phúc trình. Sê-rốp là người thích nhìn lửa cháy.
Thiếu tướng Ma-xi-mô-vích của Sở Smerch ngồi yên trên ghế, dáng diệu lo âu. Sê-rốp ngẩng đầu lên:
- Đồng chí đã tìm ra tông tích Katy chưa?
Ma-xi-mô-vích thở dài:
-Thưa chưa. Nửa đêm, cô ta trốn mất, tuy bên ngoài Đại tá Rô-Ma-Nốp đã đặt người gác.
Sê-rốp bâng khuâng nhìn ngọn lửa:
- Hỏng rồi. Hỏng rồi. Đồng chí liên lạc được với căn cứ 123 chưa?
- Thưa chưa. Không hiểu sao các đường điện thoại và vô tuyến đều không trả lời.
- Hỏng rồi. Mình đã bị C.I.A. cho vào xiếc. Thiếu tướng còn cách nào báo tin cho Ki-ma-kô và Cô-Nắc để thoát thân không?
- Đại tướng đừng lo. Theo kế hoạch tên gián điệp C.I.A. và Lô-Ra sẽ bị giết trên phi cơ, còn Ki-ma-kô và Cô-Nắc sẽ đáp xuống trường bay Eielson an toàn.
Sê-rốp đấm tay xuống bàn:
- Trời ơi, tôi không ngờ Thiếu tướng lại ngây thơ đến thế! Mình sẽ mất hết. Mất cả hai nhân viên có tài. Mất chiếc phi cơ Yak-BL. Mất luôn cả tài liệu mật.
Sĩ quan tùy viên mở cửa đưa tận tay Đại tướng Sê-rốp một mảnh giấy vàng. Sê-rốp tái mặt nhìn Ma-xi-mô-vích:
- Căn cứ 123 vừa phát nổ.
Ma-xi-mô-vích khựng người:
-Thưa, có hề gì không?
- Chẳng hề gì cả. Chỉ tan ra thành gạch vụn mà thôi. Một trăm phi cơ, 25 hỏa tiễn T-2, T-3, 50 nhà bác học.
Mắt Sê-rốp tóc lửa như muốn ăn tươi, nuốt sống Ma-xi-mô-vích. Chợt nhớ ra, Sê-rốp ấn nút điện thoại:
- Alô liên lạc ngay với A.16 ở căn cứ Eielson ra lệnh bắn rớt chiếc Yak của ta.
Trong anh-tét-phôn có tiếng trả lời kính cẩn:
- Thưa A-16 đã bị bắt sáng nay....
Sê-rốp gầm lên một tiếng, hắt tung đống hồ sơ xuống đất.......
o O o
Trên không phận Bắc Mỹ, chiếc Yak vẫn bay đều đều.
- Alô...Z.28 gọi Eielson...tôi vẫn tiếp tục bay thẳng.....Các bạn hãy tiếp tục theo tôi trên giàn radar... Các bạn đã thấy tôi chưa?
- Chưa...Không thể nào theo phi cơ của bạn bằng radar, vì trời tuyết đã đánh lạc các làn sóng. Bạn thử phương pháp trắc giác 10 xem. Yêu cầu bạn phát ra một tín hiệu liên tục để ở dưới này chúng tôi theo dõi bạn bằng trắc giác.
Văn Bình làm theo lời dặn. Một phút sau đài kiểm soát nói tiếp:
- Alô.. Z.28....Bạn đang bay trên đầu chúng tôi... Trận bão vừa làm đổ ăng-ten ILS. 11 Hoàn toàn Q.G.O. rồi... Phi cơ không được cất cánh hoặc đáp xuống nữa... Tuy nhiên...
Tiếng nói im bặt. Mặt Văn Bình hơi tái, chàng ái ngại nhìn Lô-Ra gục đầu vào ghế, ngực đầy máu nếu không gặp bão, chàng có hy vọng cứu nàng. Bên dưới, một bầu không khí nghiêm trọng bao trùm đài kiểm soát. Đại tá Pit của C.I.A. thở dài nói với viên tư lệnh căn cứ:
-Người vừa nói với chúng ta là một yếu nhân tình báo mà Bạch Cung và Ngũ giác sẵn sàng hy sinh bất cứ giá nào để cứu sống. Thiếu tướng còn phương pháp cuối cùng nào không?
Vị tư lệnh đứng im một giây, rồi bỗng cầm lấy máy vi âm:
- Alô.. Z.28....Thiếu tướng Hê-rôn, tư lệnh căn cứ Eielson đây... Bạn yên tâm... bạn đang bay trên đầu chúng tôi... Giờ đây, yêu cầu bạn lái vòng 230 độ, cỡ nhất 12 sang bên phải... Bạn bay trong 90 giây, giảm sức máy theo đường bay 045... Hạ thấp xuống độ cao 700 bộ 13.
Nói xong, Thiếu tướng Hê-rôn ngoắt đại tá Pít.
- Đại tá ra sân bay với tôi.
Hê-ron trèo lên xe díp, ra lệnh cho một chiếc cam nhông chứa đầy xăng chạy trước.
Trên không phận, Văn Bình nói:
- Alô... Eielson... Đã thi hành chỉ thị, độ cao 700 bộ, đường bay 045... Chờ chỉ thị mới...
Trong đài kiểm soát, viên phụ tá cất tiếng:
- Eieison gọi Z.28...Hãy vặn máy vô tuyến của bạn vào làn sóng RANGE... Bạn đã ra đến bờ biển... Bây giờ bạn lái sang phải, đúng 90 độ... Bạn đã lái 90 độ xong chưa? Bạn đã nghe tiếng tút tút của tín hiệu RANGE chưa?
Văn Bình tuân theo như máy. Vừa lái vòng 90 độ, chàng nghe máy vô tuyến phát ra tín hiệu tè tạch của chữ N. Tè tạch, tè tạch, tè tạch...Chàng bèn lái sang bên phải chút nữa. Tiếng tè tạch biến mất, nhường chỗ cho tiếng tút tút.... tút tút... Văn Bình hạ xuống độ cao 100 bộ. Không gian vẫn một màu trắng xóa.
Trong khi đó, xe díp và cam nhông chở xăng đã chạy đến cuối phi đạo.
Thiếu tướng Hê-ron ra lệnh cho tài xế mở vòi xăng chảy xuống lênh láng thành một vệt dài. Hê-ron nắm lấy chiếc watkie talkie. 14
- Alô... Thiếu tướng Hê-ron gọi Z.28... Bạn đừng bay ra ngoài làn sóng RANGE... 15 Hễ thấy dưới này có lửa bùng lên, bạn hãy tắt hết máy. Đám lửa báo hiệu bạn đã tới đầu phi đạo. Tôi sẽ cho bật hết đèn lên cho sáng. Thôi chào bạn... chúc bạn gặp may mắn.
Thiếu tướng Hê-ron bắn một phát hỏa châu vào vùng xăng ở đầu phi đạo, xăng bốc cháy rần rần, sáng rực trường bay. Những tia lửa Iớn xuyên qua màn sa mù dầy đặc. Văn Bình từ từ đáp xuống.
Một quang cảnh rộn rịp diễn ra. Xe cứu hỏa và Hồng thập tự rú kèn in ỏi. Đoàn lính cứu hỏa mặc đồ trắng kỵ lửa phun tuyết thán khí trên sân bay để dập tắt đám cháy do một ngàn lít xăng gây ra. Văn Bình nghe giọng nói quen thuộc của Đại tá Pít trong máy vi âm Walkie talkie:
- Có hề gì không?
Văn Bình đáp nhanh:
- Không hề gì cả.
Lô-Ra đang rúc đầu vào ngực chàng. Máu vẫn trào ra như suối, nhuộm đỏ áo sơ mi trắng phẳng nếp của nàng. Mắt Lô-Ra lim dim như say thuốc ngủ. Môi nàng mấp máy:
- Katy không là vợ anh phải không?
Văn Bình âu yếm vuốt tóc nàng:
- Không. Anh đã làm gì có vợ. Nàng chỉ là nhân viên C.I.A. và anh mới gặp lần dầu.
Lô-Ra thở phào ra:
-Em cứ ao ước...
Chàng cúi đầu xuống hỏi gặng:
- Ao ước gì, em cứ nói, anh sẽ hết sức làm em vừa lòng... Đừng ngại, y sĩ ở đây sẽ gắp đạn ra cho em, em sẽ bình phục, chúng mình sẽ du lịch vòng quanh thế giới một chuyến....
Lô-Ra mỉm cười, một nụ cuời tươi chàng chưa bao giờ thấy:
- Muộn rồi anh ạ. Em ao ước anh không phải là Lý Dĩ. Em đã được như ý. Chỉ tiếc không được sống thêm ít lâu với anh. Tay chân em lạnh rồi anh ơi, khí lạnh đã lên tới ngực, em sắp phải xa anh, xa anh mãi mãi. Đời anh sóng gió, nay nơi này, mai nơi khác, làm gi có tình yêu bất dịch hở anh?
Văn Bình đau buốt trong tim. Chàng nghẹn ngào hôn lên dôi môi lạnh ngắt:
- Có, em ạ.
Lô-Ra cười tươi hơn. Văn Bình ôm ghì nàng vào trong lòng. Trời Bắc cực trong suốt như thủy tinh. Trận cuồng phong đã tan hết. Môi chàng vẫn dính môi Lô- Ra. Hơi thở của nàng yếu dần. Máy vi âm vẫn vẳng ra giọng nói vui vẻ của Đại tá Pít. Song Văn Bình không còn nghe được gì nữa. Tuy nhiên chàng vẫn nghe rõ câu nói cuối cùng của Lô-Ra:
- Văn Bình ơi, anh có nhớ em không....?
NGƯỜI THỨ TÁM
Chú thích
1. Yak Biowlamp
2. Noroya Sibir
3. Ambachik
4. Behring
5. Phi công nhận định phương hướng theo thể thức cây kim đồng hồ. Chẳng bạn phi cơ bay thẳng trước mặt thì gọi là "phi cơ lạ ở 12 giờ". Còn phi cơ lạ ở 9 giờ, nghĩa là ở bên trái, chệch góc 45 độ.
6. Q.F.E là áp lực của phong vũ biểu dưới đất (Pression barométrique). Áp lực này được đo bằng millibare. Q.F.E. cũng như các danh từ khác trong đoạn này là tiếng chuyên môn hàng không.
7. Q.G.O là cấm phi cơ cất cánh hoặc đáp xuống.
8. N.K.h nghĩa là Harodno Khozyasitvennyl (kinh tế quốc gia), trực thăng này bay nhanh, bền, lại tốn ít nên mới gọi là N.K.h. Đường kính cánh quạt 14 thước. Tốc lực tối đa là 185 cây số một giờ, trực thăng này được chế tạo năm 1944, và xuất hiện tại Ba lan dưới cái tên là S M-I. Anh em của nó là M I-I N.K.h, M I-I V, M I-I M.I.3, M 14 và M 16 do kỹ sư Mikhai L Mil phát minh.
9. Tức Ivan Serov, người đã chỉ huy Hồng quân đàn áp cuộc khởi nghĩa tại Hung gia Lợi năm 1956. Truyện này được viết khi Serov còn là Tổng giám đốc Công an Sô-viết K.G.B.
10. Trắc giác: gonio. Máy bay phát ra một tín hiệu, đài kiểm soát căn cứ vào tín hiệu này để tìm ra vị trí bằng phép trắc giác. Tưởng cần nói thêm là hoa tiêu bay trên trời và đài kiểm soát dưới liên lạc với nhau bằng những danh từ riêng, chẳng hạn, khi dứt lời muốn cho bên kia nói thì dùng chữ " Over ", còn hiểu rồi thì dùng chữ " Roger ", còn nếu phi trường bằng lòng cho đáp xuống thì dùng chữ "clear" nói với hoa tiêu, vv....
11. ILS, hệ thống đáp xuống mò, nghĩa là phi công hạ cánh theo chỉ thị của đài kiểm soát, chứ không thấy gì hết. Phi công phải áp dụng phương pháp ILS khi gặp lớp sa mù.
12. Cỡ nhất là Rate One. Nghĩa là lái hơn chậm. Việc lái được chia làm nhiều cỡ, cỡ nhất, cỡ nhì.....vvv...
13. Mỗi bộ (pied) là 30 phân, 700 bộ là 280 thước..
14. Walkie talkie là máy nói vô tuyến cầm tay.
15. Radio-Range là một hệ thống tân tiến về không vận giúp cho phi cơ bị lạc trong sa mù có thể đáp mò xuống đúng phi đạo. Radio-Range là một máy phát ra 4 làn sóng gặp nhau theo hình chữ thập. Hai làn sóng tè tạch, tín hiệu của chữ N theo mót-sờ, hai làn sóng kia là tạch tè, tín hiệu của chữ A. Ở khoảng giữa các làn sóng điện gập nhau, phát sinh ra làn sóng nhỏ khác, nghe tút tút... Nếu phi công nghe tè tạch, tức là ở vào làn sóng chữ N, tạch tè là ở làn sóng chữ A, nên có thể nhận ra vị trí của mình trên không phận. Tùy theo đó, phi công sẽ lái qua phải hoặc trái cho đến khi nghe tín hiệu tút tút, là có thể đáp xuống được. Khi phi cơ bay trên đầu máy Radio-Range, thường đặt ở trung tâm phi trường, phi công sẽ không nghe thấy gì....
Núi Đá Tiên Tri Núi Đá Tiên Tri - Người Thứ Tám Núi Đá Tiên Tri