Reading is to the mind what exercise is to the body.

Richard Steele, Tatler, 1710

 
 
 
 
 
Tác giả: Paul Jennings
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Azazel123
Số chương: 21
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 879 / 21
Cập nhật: 2021-08-28 15:39:23 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Cụ Ben Byron Không Có Áo
Thầy Bush đảo mắt nhìn cả cả lớp rồi nói:
- Brian Bell, em là người đầu tiên được kể về lai lịch của mình.
Tim tôi đập thình thịch. Tôi cảm thấy nhộn nhạo khó chịu trong người. Thật là một cơn ác mộng đối với tôi khi phải đứng kể chuyện trước lớp.
Tôi nói:
- Thưa thầy, không có áo!
Sue Feathersone (con gái ông chủ tịch) cười rúc rích. Tôi đi từ từ lên bảng. Tôi nghĩ, mình chết mất. Miệng tôi khô và đắng ngắt.
- Thưa thầy em xin kể về cụ nội em. Cụ vốn là thủy thủ chuyên đưa thực phẩm bằng tàu biển tới Warmambooe, không có áo.
Ba chục đôi mắt nhìn tôi chòng chọc. Sue Feathernene lại cười. Nó hỏi:
- Tại sao cụ không có áo?
Nó biết tất câu trả lời của tôi sẽ như thế nào song nó muốn nghe tôi nói xem sao.
- Cụ tên là Byron. Mọi người gọi cụ là “cụ Ben Byron, không có áo”
Sue hỏi với cái cười đầy chế giễu:
- Tại sao họ lại gọi cụ là cụ Ben Byron không có áo, tên gì mà buồn cười thế?
Thầy giáo nói:
- Em đừng có kich bạn như thế, bạn ấy rất cố gắng đấy.
Sue là một đưa con gái đáng ghét, một đứa hết sức tồi tệ. Nó thừa biết là tôi không thể không nói: “Không có áo”. Hễ mở miệng, bao giờ tôi cũng phải thêm vào mấy từ “không có áo”. Suốt từ nhỏ đến giờ tôi đều nói như thế. Xin đừng hỏi tôi, tại sao. Tôi cũng không hiểu nữa, chỉ biết rằng tôi không thể làm khác được. Tôi đã nhờ hàng chục bác sĩ nhưng không ai tìm được nguyên nhân và chẳng ai chữa được cái tật đó cho tôi. Thật là kinh khủng. Mọi người chế nhạo và cho rằng tôi bị ấm đầu.
Tôi nhìn Sue và nói:
- Mày đểu vừa thôi, đừng có trêu chọc tao. Mày thừa biết bao giờ tôi cũng phải chêm vào mấy từ “không có áo”. Không có áo.
Tất cả cười như vỡ lớp ra, nhiều đứa cố gắng bụm miệng nhưng không sao nhịn nổi. Mặt tôi đỏ như gấc. Giá như tôi có thể chết được, và cả con Sue nữa. Nó là đứa nanh đọc nhất và luôn luôn tìm cách chọc ghẹo tôi.
Thầy Bush nói:
- Thôi được, Brian, thứ tư tới em trình bày tiếp. Chắc rằng hôm đó em sẽ nói khá hơn.
Tôi ngồi vào chỗ của mình. Thầy giáo thương cảm tôi, mọi người thương cảm tôi, mọi người, trừ Sue. Nó thì không. Nó là đứa không bao giờ nghĩ tới người khác mà chỉ nghĩ đến mình.
2
Tôi cùng với Shovel[1] từ trường về nhà. Shovel là tên con chó của tôi. Nó tên như vậy vì nó có thói hay cào đất. Nó bới đủ mọi thứ rác rưởi rồi tha về để ngay ở bậu cửa.
Một hôm có ông hàng xóm đi câu. Ông mang theo một túi sò, hến làm mồi. Khi về nhà ông để quên trong cốp xe ô tô. Hai tuần sau ông đã tìm thấy túi sò, hến đó hay nói đúng hơn túi sò hến đó đã tìm thấy ông ta. Nó thối kinh khủng. Ông ta chôn nó ở phía sân sau. Ngày hôm sau con Shoved lại tha túi sò về nhà. Hồi ấy tôi không nở mắng vì nó có ý tốt với tôi. Tôi xoa đầu con Shovel, vỗ nhẹ vào gáy nó và khen “Mày ngoan lăm, không có áo”. Shovel là một con chó tuyệt vời – nó đúng loại siêu. Đành rằng, tôi thừa nhận Shovel không được đẹp mã. Nó chột mắt, lại mất một nửa cái tai. Shoved lúc nào cũng gãi, nhưng đó không phải lỗi của nó mà vì mấy con rận. Nó không tài nào thoát không khỏi mấy con rận. Tôi mua cho nó vòng cổ chống rận nhưng cũng không ăn thua. Cũng có thể vì Shovel hay thích vây chỗ có phân bò.
Trừ những chuyện vặt đó ra, khó có thể kiếm có một con chó như Shovel. Nó rất quý chủ, khi mừng nó nhảy cẩng lên và liếm mặt tôi. Mẹ tôi và tôi có lẽ không thể rời được nó. Shovel còn là kỉ vật mà bố để lại cho chúng tôi. Trước kia Shovel là của bố. Ông mất trong một vụ tai nạn giao thông. Cũng chính vì thế mà chúng tôi, con Shovel, mẹ và tôi, càng gắn bó khăng khít với nhau hơn.
Khi về đến nhà, tôi nhốt Shovel ở sân sau. Giờ ở đây không có vẻ gì là một cái sân nữa mà là một bãi chiến trường. Shovel đào bới loạn cả lên. Nếu có lấp thì ngay sau đó nó lại bới tung ngay.
Tôi vào bếp lấy nước uống. Bỗng nghe tiếng mẹ đang nói chuyện với ai đó ở phòng khách. Đó là bà Featherstone (vợ ông chủ tịch). Ngôi nhà chúng tôi đang ở là thuê của bà ta. Bà cao nhăng nhẳng, gầy và có mái tóc màu xanh. Bà đeo chuỗi hạt ngọc dài (ngọc thật) và có giọng nói rất đài các. Bà ta nói:
- Thưa bà, tôi e rằng bà phải tìm một chỗ ở khác. Quả thật không thể tiếp tục mãi như thế này được nữa. Cái con chó này đào bới lung tung khắp mọi nơi. Sân sau trông nham nhở như mặt trăng. Hoặc là bà cho con chó đi hoặc bà hãy rời ngôi nhà này.
Mẹ tôi nói:
- Thưa bà, chúng tôi không thể làm như vậy. Thằng cháu Brian rất quý nó. Nó làm cho cháu nhớ tới bố cháu. Không, thưa bà, chúng tôi không thể cho ai con Shovel cả.
Đúng lúc đó Shovel xuất hiện ở cửa sổ. Nó ngoạm cái gì đó. Bà Featherstone nói:
- Cái con khốn ấy đây rồi, mà nó tha cái gì trong mõm thế kia?
Tôi chạy vội vào nhà mà nói:
- Xin bà đừng sợ, đó là Tibby, không có áo.
Bà Featherstone rít lên:
- Tibby? Tibby là cái gì?
Tôi nói:
- Con mèo nhà cháu. Nó chết cách đây sáu tháng và cháu đã chôn nó ở sân sau, không có áo.
Mặt bà ta bỗng trắng bệch ra, bà lảo đảo và khuỵu xuống. Tôi không hiểu vì chuyện gì mà bà ta lại có thể ngất xỉu được. Chẳng qua chỉ là một con mèo chết. Thôi thì trông Tibby lúc này cũng không được như khi nó còn sống, nhưng chằng lẽ đấy là lí do làm bà ta đến nỗi bị ngất xỉu.
Có điều, chính vì những chuyện đó mà mẹ con tôi bị tống cổ ra khỏi nhà và phải ra nghĩa trang để ở.
3
Khi tôi nói, chúng tôi phải ra nghĩa trang, không có nghĩa là chúng tôi phải ở dưới mồ đâu. Không, chúng tôi ở trong một ngôi nhà trên nghĩa trang. Đó là một ngôi nhà to, lạnh lẽo và có từ lâu rồi. Hồi trước người gác nghĩa trang ở đây, nay chuyển đi nơi khác, từ đấy đến nay chẳng có ai muốn dọn đến nữa. Vì vậy giá thuê nhà thấp, phù hợp với khả năng của mẹ con tôi. Mẹ tôi sống nhờ vào lương hưu, tiền của chẳng nhiều nhặn gì.
Ông môi giới nhà đất nói với mẹ:
- Bà ở đây sẽ thấy dễ chịu, bốn bề yên tĩnh, đây là cái nhà rẻ nhất thành phố.
Mẹ bảo:
- Chẳng ai cảm thấy dễ chịu khi phải sống ở nghĩa địa. Nhưng chúng tôi buộc phải làm quen với hoàn cảnh, chúng tôi không thể trả hơn được nữa.
Ông môi giới nhà đất ra ô tô, tủm tỉm cười vì một lẽ gì đó rồi chỉ tay vào con Shovel nói:
- Tôi hy vọng con chó của bà không cào bới gì ở đây. Chó ở nghĩa địa càng không được làm như thế.
Có lẽ lão thấy cái chuyện đó rất buồn cười cho nên khi ra tới cổng vẫn còn tủm tỉm.
Tôi nói với theo lão ta:
- Thật là tếu vô cùng, không có áo!
Chúng tôi dọn nhà vào ngày hôm sau. Tôi ở tầng trên và từ đó tôi có thể nhìn thấy tẩt cả mồ mả. Nghĩa địa nằm ngay bên bờ biển, chỉ đi qua một rặng cây là đã ra tới vịnh Lady. Tôi đi đi lại lại trong phòng và bắt đầu đọc bài tập kể chuyện ở trường. Tôi nghĩ, tốt nhất nên chép tất cả ra giấy, như vậy tôi có thể yên tâm sẽ không xuất hiện cụm từ “không có áo”. Quyết không để cho con Sue chọc ghẹo tôi. Tôi bực nhất là cái lần cuối cùng vừa rồi, tôi vẫn luôn nhắt tới cụm từ “không có áo”.
Tuy nhiên cũng cứ thử xem sao. May ra lần này thành công. Thế là tôi viết:
CỤ BEN BYRON
Cụ Ben Byron là cụ tổ tôi. Cụ là thuyền trưởng trên một chiếc thuyền buồm. Cụ chở đủ thứ hàng cung cấp cho thành phố. Cụ là một trong những người di cư đầu tiên tới vùng này. Chính nhờ những người như thế nên mới có thành phố này.
Một hôm có người ngã xuống biển, cụ tôi nhà xuống cứu, người đó thoát chết còn cụ Ben Byron bỏ mạng dưới biển khơi. Cụ bị chết mất xác.
Có lẽ những điều vừa kể chưa đủ cho một bài kể chuyện ở lớp. Dứt khoát quá ngắn là đằng khác. Nhưng sau đó xảy ra một việc làm cho tôi phải tạm kết thúc bài diễn thuyết của mình.
Con Shovel biến đi đâu khá lâu và tôi bắt đầu cảm thấy lo lắng. Mong sao nó đừng ra bới ở khu mộ. Tôi nhìn qua cửa sổ và thấy Shovel đang trên đường về nhà. Nó chạy lên cầu thang rồi đi về buồng tôi. Đến bậu cửa nó để rơi một cái gì đó. Một mẫu xương.
4
Tôi cầm mẫu xương lên chăm chú nhìn. Đó là một mẫu xương nhỏ có gờ sắc nhọn – hoàn toàn không có gì đặc biệt, chỉ là một mẫu xương màu trắng. Tôi tin chắc rằng mẫu xương đó đã có từ lâu rồi. Dường như tôi đã trông thấy mẫu xương như thế này ở đâu đó nhưng tôi không tài nào nhớ nổi ở đâu. Trong lòng tôi trào lên một cảm giác là lạ. Tôi thấy mình cô đơn, trống trải và cách biệt với mọi người. Dường như tôi chỉ là một cái xác nằm sâu ở đáy biển dưới những lớp sóng cồn.
Tôi run run tay làm rơi mẫu xương. Tôi cẩn thận nhìn theo và thấy nó rơi ngay cạnh bàn chân trần trước ngón út của mình. Chính vì thế nên tôi mới biết đó là xương gì. Đây là mẫu xương của ngón chân út, ngón chân người.
Tôi nói với Shovel:
- Trời ơi, mày hư đốn quá, mày lại đào bới ở đâu thế này? Mày bới đất cái mộ nào hả? Nếu có ai biết thì chúng ta sẽ lại bị tống cổ ra khỏi nơi này mất thôi. Mà lúc đó thì biết đi đâu mà ở kia chứ? Không có áo.
Tôi xỏ giày và chạy ra ngoài. Khi ra khỏi phòng và đóng cửa buồng lại tôi bỗng nhiên không còn có cảm gái là lạ kia nữa. Chỉ lúc ở gần mẫu xương tôi mới cảm thấy buồn tê tái. Ngoài trời vừa gió vừa rét. Tôi nghe rõ tiếng sóng vồ oàm oạp. Tôi gọi con Shovel.
- Nào, mày hãy chỉ cho tao biết mày đào bới ngôi mộ nào, không có áo?
Con Shovel làm như không nghe thấy tôi nói. Nó chạy qua các ngôi mộ đi ra biển. Đây là một nghĩa địa có từ lâu đời với hàng trăm ngàn ngôi mộ cỏ mọc xanh rùm.
Tôi chạy từ ngôi mộ này sang ngôi mộ khác để tìm dấu vết đào bới cù con chó. Hết cả buổi chiều mà không tìm thấy nơi con Shovel đã đào bới.
Tôi thất vọng, buồn bã đi về nhà, không biết phải làm gì với mẫu xương đó. Nếu như có ai biết việc này nhất định chúng tôi sẽ bị đuổi ra khỏi nghĩa trang.
Con Shovel đứng chờ tôi ngay ở cổng nhà, vẫy đuôi mừng rỡ. Lông Shovel bám đầy cát và mõm nó lại ngoạm một mẫu xương nhỏ. Tôi reo lên:
- A, Shovel tìm thấy mẫu xương ngoài bờ biển, không có áo!
Tôi cầm mẫu xương. Đúng lúc tôi chạm mẫu xương lòng tôi trào lên cảm giác như lúc nãy: buồn buồn và trống trải. Tôi nói với con chó:
- Lạ thật, không có áo.
Tôi cầm mẫu xương thứ hai và để ra cửa. Cảm giác buồn bã tăng lên. Tôi thấy thật lạ lùng và mở cửa để hai mẫu xương lại gần nhau như cũ. Ngay tức khắc tôi đỡ thấy cô đơn. Tôi nói:
- Những mẫu xương này cảm thấy cô đơn, chúng không muốn bị chia lìa, chúng muốn được gần nhau, không có áo.
5
Đã đến lúc phải mắng con Shovel một trận. tôi nhấc đầu nó và nói:
- Nhất định mày phải chỉ cho tao nơi mày tìm thấy mấy mẫu xương. Tao phải lấp chỗ ấy lại. Mày nghe đấy, cấm không được đào bới lung tung như thế, rõ chưa? Không có áo!
Con Shovel giương hai con mắt to, màu nâu nhìn tôi chằm chằm. Tôi có cảm giác nó hiểu nhiều hơn mình tưởng. Nó chạy ra cửa và cào cào ở đấy. Tôi bảo:
- Thôi được, tao sẽ đi cùng với mày, nhưng trước hết tao phải giấu hai mẫu xương này đã. Không có áo.
Tôi để chúng vào ngăn để tất của mình. Chúng vẫn còn buồn. Tôi cũng buồn. Nhưng cảm giác đó biến mất khi tôi đóng ngăn kéo.
Chúng tôi chạy ra bãi biển. Gió thổi thốc cát vào mắt, vào tai tôi. Tôi trông chờ cái gì nhỉ? Một cái hố to tướng mà con Shovel đã đào bới và trong đó cò có cả bộ xương? Hay xác một người chết bị trôi dạt vào?
Chúng tôi leo qua đụn cát chảy ra bãi biển. Trời lạnh, ở đây không một bóng người. Tôi nói với con Shovel:
- Nào, bây giờ chỉ cho tao biết mày lấy những mẫu xương ấy ở đâu. Không có áo.
Shovel phóng lên một đụn cát, ở đây có một cái lỗ nóng không quá một bàn tay. Chẳng thấy cái hố nào cả, tôi lấy tay moi rộng cái lỗ ra nhưng cũng không thấy có thêm mẫu xương nào. Tôi bảo con chó:
- Thế là không có hố, không có xác người, chỉ có hai mẫu xương ngón chân, ngày mai ta sẽ chôn hai mẫu xương đó, thế là ổn. Không có áo.
Con Shovel chẳng buồn nghe, nó chạy tít về đầu bãi cát phải bên kia. Nó chạy rất xa nhưng tôi vẫn quyết đuổi theo. Khi đến nơi thì nó đang đào một cái lỗ mới. Nó lại nhặt được hai mẫu xương ngón chân. Tôi vừa nhặt những mẫu xương đó lên đã cảm thấy dâng trào trong lòng cảm xúc buồn bã, thương cảm. Tôi nói:
- Chúng muốn đến cùng với những mẫu xương khác, mày hãy tìm nữa đi. Không có áo.
Con Shovel chạy đi chạy lại từ đầu bãi cát bên này tới đầu bãi cát bên kia. Nó bới khoảng 30 lỗ, mỗi lỗ lòi ra một, hai cái xương, đôi khi có những cái khá to. Tôi tìm được một cái túi ni lông cũ trên bãi biển và cho tất cả xương vào trong đó. Đến sẫm tối thì cái túi đã căng đầy những mẫu xương bất hạnh. Tôi chỉ muốn khóc, không hiểu vì sao. Ngay đến con Shovel cũng tỏ ra buồn bã, đuôi nó cụp hẳn xuống.
Tôi đi qua đồi cát trên đường trở về. Con Shovel không muốn đi cùng. Nó lại moi một cái lỗ mới rất sâu, sâu đến mức Shovel lọt thỏm vào trong đó. Một lúc sau nó mới hiện ra và tha cái gì đó trong mồm, lần này không phải là xương mà là một chiếc giày cũ nát không giống như những loại giày mà ngày nay người ta có thể mua được ở các cửa hàng. Chiếc giày này có khóa bằng vàng. Do trời tối tôi nhìn không được rõ cho nên tôi mang nó theo.
Tôi bảo con Shovel:
- Nào, về thôi, tối rồi, hẳn mẹ đang nghĩ không biết chúng mình đi đâu. Không có áo.
Sau đó tôi xách túi và chậm rãi đi về nhà.
6
Tôi quẳng hai mẫu xương ngón chân vào cùng với những mẫu xương khác trong túi ni lông, cho tất cả vào tủ và khóa lại. Làm xong tôi thấy nhẹ cả người. Những cái xương đó thật là bất hạnh và chúng làm cho tôi thấy bất hạnh theo. Tôi cũng đã hiểu vì sao: Chúng muốn ở cùng một chỗ với những cái xương khác. Có lẽ chúng đã bị chôn vùi ở nhiều nơi khác nhau trên bãi biển này.
Tôi quan sát chiếc giày. Trông nó thật cũ nát. Chắc chắn nó đã nằm lâu lắm rồi dưới doi cát ven biển. Không biết là của ai? Tôi phát hiện được hai vết khắc ở đế giày, đó là hai chữ B. B mờ nhạt.
Tôi reo lên:
- Những mẫu xương này là của cụ tổ tôi. Không có áo!
Bỗng nhiên tôi sực nhớ đến một điều – chính chiếc giày đã làm cho tôi nhớ đến chuyện đó. Ngày mai là thứ tư và tôi phải kể chuyện trước lớp. Trời đất ơi! Tôi biết, đêm nay tôi sẽ không thể nào ngủ được và lúc nào cũng bị ám ảnh vì việc đó. Tôi càng nghĩ càng thấy băn khoăn lo lắng, càng lo lắng lại càng luống cuống và kết quả bài kể chuyện sẽ chẳng ra gì. Lần cuối cùng mới đây tôi kể chuyện chỉ được một điểm, mà điểm tối đa là mười! Thật không thể kém hơn được nữa.
Bất ngờ tôi nảy ra một sáng kiến. Tôi sẽ mang theo chiếc giày. Tôi sẽ kể chuyện mình đã tìm được chiếc giày của cụ tổ như thế nào. Việc này sẽ làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn! May ra tôi sẽ được điểm 3, nếu như tôi mang theo chiếc giày. Tôi để chiếc giày vào trong ngăn để tất và lấy cái túi đựng xương ra để xem lại kĩ càng hơn.
Thế là tôi dốc toàn bộ túi xương ra nền nhà. Có ba cái xương lớn và một lô xương nhỏ. Cảm giác trống trải cô đơn lại đè nặng tâm hồn tôi. Tôi ngồi trên giường và ngắm nhìn đống xương buồn bã. Bỗng tôi cảm thấy choáng váng, sợ run lên, người sởn gai ốc. Tôi không còn tin vào mắt mình nữa. Đống xương bắt đầu cựa quậy. Nó chuyển động chậm chạp trên nền nhà. Chúng uốn éo, ngó nguấy như những con rắn.
Những cái xương đó tự phân loại, sắp xếp rồi gắn liền lại với nhau, lúc đầu thành hình bàn chân rồi đến cả cái chân, tất cả các mẫu xương đều nằm đúng vị trí của mình và tôi có đầy đủ bộ xương chân của cụ tổ mình.
Cái chân đó không cự quậy, nó nằm yên trên nền nhà. Tôi ngồi ngây trên giường nhìn trân trân bộ xương. Thực tình mà nói, tôi sợ vã mồ hôi hột. Nhưng dù sao tôi cũng không thể để bộ xương đó nằm chỏng chơ ở đây. Có thể mẹ tôi vào và trông thấy. Tôi cảm thấy ghê ghê khi biết có bộ xương chân của người khác nằm ngay bên cạnh giường mình. Cuối cùng tôi chồm dậy, cho tẩt cả xương vào túi và để vào một góc. Xong xuôi tôi leo lên giường, trùm chăn kín đầu. Tôi tìm cách tự nhủ, không có xương xiếc gì ở đây cả.
7
Ngày hôm sau tôi phải kể chuyện ở trường. Mọi việc còn tồi tệ hơn tôi tưởng. Thật kinh khủng. Tôi đứng đực ra trước cả lớp không nói nên lời. Tôi hồi hộp đến mức đầu gối run lẩy bẩy. Tôi không tài nào mở mồm ra nói. Con Sue độp luôn:
- Kìa, đằng ấy làm sao thế, hôm nay không có áo à?
Cả lớp cười rộ lên.
Nhưng cuối cùng tôi cũng đọc được đến đoạn kết thúc của câu chuyện. Tôi không muốn nói thêm một từ nào nữa. Nhưng tôi bỗng thấy có cái gì đó cuồn cuộn đang dâng lên trong lòng như một trái bom sắp sửa phát nổ. Tôi mím môi lại nhưng các từ lại muốn bật ra. Má tôi phồng lên, mặt tôi đỏ dữ. Con Sue lại xỏ xiên:
- Trông kìa, nó đang bơm, đang bơm!
Thật chó đểu. Tôi lại bật ra: “Không có áo”.
Tôi xấu hổ quá? Phải làm gì bây giờ. Tôi vớ đại chiếc giày và nói:
- Đây là chiếc giày của Ben Byron, nó bị trôi dạt vào bãi biển. Không có áo.
Con Sue đế luôn:
- Mày nói láo. Đó là chiếc giày cũ mày moi lên từ đống rác.
Mọi chuyện hỏng cả. Có lẽ tôi sẽ bị điểm không. Nhưng rồi xảy ra một việc. Tôi có cảm giác đau buồn tê tái. Các bạn trong lớp cảm nhận được điều đó và tất cả đều rầu rĩ. Bỗng có ai đó kêu thét lên. Bộ xương chân, nó đứng ngay cạnh cửa ra vào, rồi nhảy lò cò vào lớp. Hai tay tôi run lập cập làm rơi chiếc giày. Cái chân lò cò tới chỗ tôi và chiếc giày. Nó muốn xỏ vào giày:
Con Sue nhìn bộ xương chân rồi tru tréo lên:
- Quẳng đi, quẳng cái thứ ghê tởm đó đi!
Cái chân lò cò về chỗ Sue, nhảy phốc lên bàn. Sue rú lên, chạy thốc ra cửa, mọi người la hét, hốt hoảng cùng chạy theo Sue. Ai cũng muốn vọt ra cửa đầu tiên, mặt tái xanh tái xám.
Cái chân rượt theo cả lớp, chạy chéo qua sân trường ra ngoài đường. Cả đời tôi chưa bao giờ chứng kiến cảnh hoảng loạng kinh khủng đến như vậy. Tôi đứng trơ trọi một mình, chỉ còn thầy Bush ở trong lớp. Thầy ngồi ở chỗ của mình và lắc đầu. Một lúc sau thầy nói:
- Brian này, thầy không hiểu em làm như thế nào, nhưng em bày ra cái trò đó thật là khá. Thầy cho em điểm mười về bài kể chuyện ngày hôm nay.
Tôi nói:
- Em xin cảm ơn thầy, không có áo.
8
Cái chân chờ tôi khi tôi trên đường từ trường về nhà. Nó đứng ở trong góc buồng không hề động cựa. Nhưng nó rất buồn và làm cho tôi bị buồn lây. Tôi có cảm giác mình chỉ là một bộ xương. Tôi có cảm giác xương của tôi cũng bị sóng đánh tung lên và nằm rải rác trên bãi biển. Giờ thì tôi hiểu điều gì đã xảy ra với cụ tổ mình. Xương của cụ bị sóng đánh tan tác và nằm rải rác khắp nơi trong vịnh.
Tôi tìm Shovel và bảo nó:
- Chúng ta phải đi tìm nốt những chiếc xương còn lại. Cái chân này sẽ không yên chừng nào chưa tìm được đủ những chiếc xương khác. Phải tìm cho đủ, tìm ngay bây giờ. Không có áo.
Tôi cầm xẻng, một chiếc bao tải và đi ra bãi biển. Con Shovel và cả cái chân cũng đi cùng. Nó nhảy lò cò sau lưng chúng tôi, phát ra tiếng động se sẽ, bàn chân vẫn xỏ giày. May trên bãi biển không có một bóng người, nếu có ai đó trông thấy chúng tôi, kẻ đó ắt không thể tin vào mắt mình được nữa: một thằng nhóc, một con chó và một bộ xương chân đi dạo chơi ven biển. Bản thân tôi cũng còn không tin nổi vào chuyện đó.
Tôi không biết phải bắt đầu tìm từ đâu. Những cái chân thì biết. Nó nhảy lò cò trên bãi biển, chỗ nào nó dừng là chúng tôi đào. Suốt cả buổi chiều chúng tôi đi theo cái chân và đào không biết bao nhiêu lỗ. Chỗ nào cũng tìm thấy một vài mẫu xương. Tôi làm việc hết sức mình và muốn chấm dứt càng nhanh càng tốt cảm giác sầu não. Tôi buồn đến nỗi mặt mũi đầm đìa nước mắt. Tôi để tất cả xương tìm được vào trong bao tải. Tôi tin rằng chúng vui lắm vì lại được đoàn tụ. Nhưng chúng không thật hài lòng, chúng chưa thể vui mừng thật sự chừng nào chưa tìm thấy đến mẫu xương cuối cùng.
Rồi mọi việc cũng kết thúc. Thứ cuối cùng tôi tìm thấy là xương sọ. Lúc đó cái chân nhảy tọt vào bao tải cùng với những cái xương khác.
9
Khi cái chân nhảy vào bao tải cùng với những cái xương khác thì cảm giác sầu não, buồn bã như tan biến ngay tức khắc. Tất cả các xương đều vui, tôi cũng vui và con Shovel cũng thế.
Tôi nói với Shovel:
- Này, cún thân yêu ơi, giờ thì chúng ta chỉ còn mỗi một việc phải làm là đưa toàn bộ hài cốt đến một nơi để chôn cất. Không có áo.
Tôi vác túi đầy những cái xương rất vui vẻ đến một chỗ yên tĩnh trên doi cát ven biển, Shovel và tôi cùng nhau đào bới. Chúng tôi đào rất lâu và cuối cùng cũng đạt được độ sâu cần thiết. Tôi dốc bao đổ toàn bộ xương xuống huyệt. Xương chất thành từng đống, sau đó chúng bắt đầu cựa quậy, ngọ nguậy trong huyệt. Đáng ra tôi phải sợ lắm, nhưng tôi rất bình tĩnh vì tôi biết điều gì sẽ xảy ra. Những mẫu xương kết nối lại với nhau thành một bộ hài cốt hoàn chỉnh. Bộ xương nằm yên trong mồ và nhìn tôi chằm chằm. Nhưng rõ ràng nó có vẻ gì đó chưa được mãn nguyện. Hẳn còn thiếu một cái gì mà nó chưa được đáp ứng. Tôi nhìn vào trong bao tải. Cái áo còn nằm trong đó. Tôi để cái áo xuống huyệt và nói:
- Cụ yên tâm, cháu không chôn cụ không có áo đâu.
Một lần nữa, lần cuối cùng, bộ xương động đậy. Nó nằm nghiêng một bên, chiếc áo kê dưới đầu. Nó ngủ, tư thế thật thoải mái, thanh thản. Từ nấm mồ như có tiếng nhạc du dương, tuy không thành tiếng nhưng tôi cảm nhận tiếng nhạc tự đáy lòng.
Chúng tôi đổ đất xuống mộ, trên cùng phủ một lớp cát, rồi dậm thật chặt. Tôi quyết định phải nói vài lời, vì xét cho cùng chúng tôi đang làm một tang lễ. Tôi nhìn ra biển và thấy mắt mình đẫm lệ. Tôi nói:
- Nơi đây an nghỉ bộ hài cốt của Ben Byron. Cuối cùng người đã tìm được sự bình yên ở cái vịnh tuyệt vời này.
Con Shovel ngước mắt nhìn tôi. Dường như nó mỉm cười.
Bỗng tôi reo lên:
- Tôi không nói gì về cái áo! Tôi không nói gì cả!
Và tôi không bao giờ nói lại điều đó nữa.
Những Câu Chuyện Hồi Hộp Nhất Những Câu Chuyện Hồi Hộp Nhất - Paul Jennings Những Câu Chuyện Hồi Hộp Nhất