Số lần đọc/download: 953 / 6
Cập nhật: 2016-10-31 23:30:10 +0700
Chương 4: Lý Tưởng Chuyển Luân Thánh Vương
4
.1. Khái niệm chuyển luân thánh vương:
Thực ra ý niệm về một bậc vua chúa lý tưởng, đầy đức độ và anh minh, người thực thi chính pháp hay đạo, đem lại lợi lạc đến cho khắp mọi quốc gia, mọi tộc dân, một cách bình đẳng không phân biệt, là một ý niệm luôn được nhắc đến trong giáo pháp của đức Phật. Đó là ý niệm về Chuyển Luân Thánh Vương, và theo đạo Phật, chính bản thân đức Phật cũng đã từng làm Chuyển Luân Thánh Vương không biết bao nhiêu lần trong các kiếp quá khứ của Ngài. Vị Thánh Vương của Ấn Độ này không chủ trương cương thường lễ giáo là đạo, mà nêu cao "thập thiện" mới là chính đạo, bởi cương thường lễ giáo chưa chắc đã là thiện, mà vẫn có thể dễ dàng tiếp tay cho ác pháp nẩy sinh, trong khi thập thiện nhằm kềm chế tất cả mọi hành vi ác nơi cá nhân con người, đem lại cho mỗi một người cái ý thức tự giác cao độ về mọi hành vi bất thiện của chính mình, khiến từ đó họ tránh được mọi hành động ác, nhờ vậy chính bản thân họ được lợi lạc và sự sống của nhân quần chắc chắn bảo đảm được an ninh và thanh bình thịnh trị. Một vị vua như vậy mới đúng là hoàn toàn lợi lạc cho mọi người và xứng đáng được coi là "thánh nhân". Có điều, với đạo Phật, vị Thánh Vương ấy chỉ là hiện thân của "thiện" đạo, chứ không phải là hiện thân của "giải thoát"Đạo; đạo mà vị ấy thi hành chỉ mới là "thiện" đạo, chứ chưa phải là "giải thoát" Đạo; vị ấy chỉ mới mang lại được một sự sống an ninh, lợi lạc, cho mọi người, nhưng hoàn toàn bất lực không giải quyết được chút gì trước vấn đề khổ đau nền tảng "già, bệnh, chết" của chính mình và của cá nhân mỗi người. Đối trước vấn đề đau khổ cơ bản của tất cả mọi người này, các Thánh Vương ấy, dù Trung Hoa hay Ấn Độ, cũng đều mù mịt và bất lực, y như đám người dung tục bình thường! Thế nên, đối với đạo Phật, họ chưa phải thực sự là "thánh," và đạo của họ chưa phải thực sự là Đạo, mà chỉ những ai tìm ra được con đường giải thoát khỏi "sinh lão bệnh tử," các bậc ấy mới chính là Thánh; và con đường giải thoát mà các bậc ấy đã đi mới chính là Đạo. Ấn Độ chấp nhận điều này, song Trung Hoa thì chưa mường tượng ra nổi!
Chuyển luân thánh vương là vị có phước báo bậc nhất ở thế gian, hơn cả người ở châu Bắc Câu-lô, chỉ kém chư thiên cõi Dục. Xét kết quả thì biết được nguyên nhân, vậy, chúng ta có thể nghĩ ra: Trong đời quá khứ, vị ấy chỉ tu nghiệp phước đức mà đã không tu nghiệp trí tuệ của bậc xuất thế.
Luân vương có bốn bậc: Ở kiếp tăng1 của tiểu kiếp thứ mười, lúc thọ mạng con người tăng lên đến hai vạn tuổi, Thiết Luân vương xuất hiện, thống trị toàn thể châu Nam Thiệm-bộ. Lúc tăng lên đến bốn vạn tuổi, Đồng Luân vương xuất hiện, thống trị cả hai châu Nam Thiệm-bộ và Đông Thắng-thân. Lúc tăng lên đến sáu vạn tuổi, Ngân Luân vương xuất hiện, thống trị gồm cả ba châu Nam Thiệm-bộ, Đông Thắng-thân và Tây Ngưu-hóa. Lúc tăng lên đến tám vạn bốn ngàn tuổi, Kim Luân vương xuất hiện, thống trị toàn cả bốn thiên hạ. Gọi bốn vị Luân vương là Thiết, Đồng, Ngân, và Kim là căn cứ vào chất liệu làm thành luân bảo của mỗi vị. Những chất liệu ấy đều có liên quan với chúng sinh đương thời; và ngay mỗi vị Luân vương cũng có phước báo riêng của mình; cho nên mới có sự khác biệt giữa các luân bảo như thế.
4.2. Năm đức và bảy sở hữu của chuyển luân thánh vương
a. Năm đức
- Có kiến thức về điều thiện: để vận dụng tốt pháp chế vào việc quản lý và vận hành đất nước theo chiều hướng tốt.
- Có kiến thức về thực tại: sự hiểu biết vầ mọi sự vật hiện tượng từ đó làu thông về các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, nông nghiệp…và nhiều lĩnh vực khác để phục vụ tốt cho nhân sinh.
- Có kiến thức về sự trừng phạt: đâu là thưởng, đâu là phạt, công bằng trong hình thức sử dụng quyền lực răn đe có hiệu quả, thấu đáo tình lý trong việc sử dụng công cụ pháp luật, thể chế nhà nước cách tốt nhất. cách thức nhằm để làm gương không phụ thuộc vào mối quan hệ tư riêng hay huyết thống mà sai trái trong hành pháp và làm cho quy chuẩn đạo đức cá nhân nâng cao, xã hội văn minh, không sử dụng các hình thức trừng phạt mang tính chất mang rợ, chuyên quyền, độc ác….
- Có kiến thức về thời cuộc: tức là phải biết về lịc sử, các thời điểm, thời gian trong lúc này cần làm chi là hợp lý, tức là biết thời thế để tạo ra các tiềm lực mạnh về mọi lĩnh vực để nâng cao kinh tế, văn hóa, giáo dục…biết tiến, biết lùi, biết lúc nào nên cương nhu, lúc ẩn nhẫn, lúc nào nên áp dụng các điều lệ, quy chuẩn nào…phù hợp với tiềm năng của đất nước vậy.
- Có kiến thức về các nhóm đoàn xã hội: các hoạt động của các hội đoàn trong xã hội, hội đoàn về các lĩnh vực như tri thức, xã hội, giáo dục, văn hóa, động vật học, sinh học, tài nguyên,…nhằm tạo liên kết hoặc phát triển trong khuôn khổ chấp nhận được của xã hội, quản lý tốt các hội đoàn, không để nảy sinh các vấn đề nhạy cảm về tôn giáo, chính trị, nhằm quản trị xã hội cách tốt đẹp, thống nhất và phát triển.
Vậy hội đủ cũng như có các bậc quân vương hội đủ các yếu tố nêu trên là điều chưa xuất hiện trong lịc sử xã hội loài người vậy, nhưng có thời gian người ta cũng quan niệm ngài Asoka, Ca-nị-sắc-ca, Thành-cát-tư-hãn, Na-pô-lê-ông….là các bậc chuyển luân vương nhưng là bất khả đắc vì còn dung quyền lực đậm nét bạo lực mới lấy được đất đai, mở rộng quốc gian, chiếm đoạt tài sản để làm giàu…
b. Bảy sở hữu
Khi vua Chuyển luân ra đời, châu Nam Thiệm-bộ này cũng xuất hiện bảy thứ quí báu tốt lành, dành riêng cho vua: 1) Bánh xe báu bằng vàng (kim luân bảo): Đó là bánh xe với cả ngàn cây căm, toàn bằng chất vàng, vua cùng với bốn đội binh voi, ngựa, xe, và bộ, đều ngồi trên đó; du hành bốn thiên hạ, đem mười nghiệp lành giáo hóa các quốc vương ở các nước, rồi mới trở về lại châu Nam Thiệm-bộ, ngự trong cung điện bốn báu. 2) Voi báu trắng (bạch tượng bảo): Đó là con voi thuần trắng, vừa sinh ra đã có sáu ngà, dùng cho vua cưỡi trong những lúc tuần du các nơi gần. 3) Ngựa báu xanh (cám mã bảo4): Đó là con ngựa màu thanh thiên, có thể bay trên không mà đi, dành cho vua cỡi. 4) Ngọc báu mầu nhiệm (thần châu bảo): Đó là viên ngọc tám góc5, treo trên cao, tuy ở ban đêm, nó vẫn tỏa sáng như ban ngày. 5) Ngọc nữ báu (ngọc nữ bảo): Đó là người phối ngẫu của vua, nhan sắc diễm lệ đoan trang, mình thơm như trầm hương, hơi miệng như hoa sen, thân thể ấm vào mùa đông, mát vào mùa hè, hầu hạ khéo léo, rất hợp ý vua. 6) Quan chủ kho báu (chủ tạng thần bảo): Đó là một người có nhiều công đức, do phước báo mà có được thiên nhãn6, thấy suốt tất cả các vật dụng cất giữ trong kho, vua cần dùng vật gì là lấy ra ngay. 7) Tướng quân báu (binh thần bảo): Đó là một người thông hiểu quân cơ, biết rành sách lược, có tài dùng binh.
Vua Chuyển luân có bốn thứ phước báo: Một là rất giàu, châu báu, nhà cửa, ruộng đất, người hầu hạ, nhiều vô kể; đáng gọi là “thiên hạ đệ nhất”. Hai là tướng mạo trang nghiêm đoan chính, có đủ 32 tướng tốt, đáng gọi là “thiên hạ đệ nhất”. Ba là thân thể tráng kiện, không có bệnh tật, an ổn sung sướng, đáng gọi là “thiên hạ đệ nhất”. Bốn là mạng sống dài lâu, đáng gọi là “thiên hạ đệ nhất”.
Khi vua Chuyển luân xuất hiện, châu Nam Thiệm-bộ này, đất đai sạch sẽ, bằng phẳng, không có gai gốc, gò đống, hầm hố, phân, nước tiểu, các vật vụn vặt hôi thúi; đầy đủ bảy vật báu, khí hậu ôn hòa, người người an vui. Con của Luân vương có một ngàn người. Vua mạng chung liền sinh lên cõi trời Đao-lợi; bảy ngày sau đó thì bốn món báu là bánh xe vàng, voi, ngựa và ngọc, tự nhiên biến mất; ba món báu còn lại là ngọc nữ, chủ kho và tướng quân đều mạng chung. Thành báu cũng biến thành gạch vụn. Thế mới biết, tất cả các cảnh giới ở thế gian đều do nghiệp lực mà tồn tại; khi nghiệp lực chấm dứt thì cảnh giới cũng hoại diệt. Đức Phật phân tích tướng trạng của thế gian, chỉ là khổ đau, trống rỗng, vô thường và vô ngã; thật là cặn kẽ vậy.
Trong kinh Chuyển Luân Thánh Vương ”Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có Vua Chuyển luân Thánh vương tên là Dalhanemi (Kiên-Cố-Niệm), là vị pháp vương, lấy Chánh pháp trị nước, chinh phục bốn thiên hạ, thống trị các quốc độ và đầy đủ bảy món báu. Vị ấy có đầy đủ bảy món báu, tức là xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, gia chủ báu và thứ bảy là tướng quân báu. Vị ấy có hơn một ngàn hoàng tử, dõng kiện, hùng mạnh, nhiếp phục ngoại địch. Vị này trị vì quả đấy này cho đến hải biên, dùng Chánh pháp trị nước, không dùng trượng, không dùng kiếm ”.