To acquire the habit of reading is to construct for yourself a refuge from almost all the miseries of life.

W. Somerset Maugham

 
 
 
 
 
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: Want To Stay Alive?
Dịch giả: Phạm Mạnh Hùng
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 8
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 185 / 15
Cập nhật: 2020-06-07 21:39:53 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 7
oke Toholo ném vỏ cam xuống sàn và dùng một chân đẩy nó vào gậm giường. Gã chùi những ngón tay vào quần bò và chìa một tay ra.
— Thu thập được bao nhiêu? – Gã hỏi.
Chuck bước vào buồng như thể đã biết sàn đã mục ruỗng hết cả và không khéo sẽ sụt dưới sức nặng của hắn.
Nhìn thấy gã da đỏ ngồi trên giường, Chuck như tê liệt. Mới mười giấy trước, hắn hình dung thấy hắn và Meg ngồi trong ô tô phóng vùn vụt, còn trong túi hắn có hai ngàn đô la.
— Thu thập được bao nhiêu? – Poke nhắc lại.
Chuck đã bình tĩnh lại. Liệu gã da đỏ dở điên dở dại khùng này có nghi ngờ gì không?
Hắn nhìn Poke – khuôn mặt rám nắng không biểu lộ vẻ gì, cặp mắt đen long lanh… không, nếu gã ngờ rằng họ định phản gã thì có thể thấy ngay.
— Có một tên không nộp tiền. – Chuck trả lời, giọng khàn khàn.
— Cậu tưởng tớ tin lời nói láo ấy à? – Poke hỏi, mắt không rời khỏi Chuck.
Chuck liếm cặp môi khô.
— Hãy hỏi cô ấy… cô ấy đi thu lượm các phong bì.
— Tớ hỏi cậu. – Poke nói.
Chậm chạp, miễn cưỡng, Chuck lấy trong khoang ngực áo ra bốn chiếc phong bì, ném lên giường.
— Một tên không nộp tiền… ở sân bay. Tôi đã bắt cô ấy đi kiểm tra tất cả các buồng điện thoại. Chẳng đâu có gì hết.
— Ở sân bay! – Poke rõ ràng yên tâm. – Hansen… phải… hoàn toàn có thể. Hansen có thể không nộp tiền, nhưng hắn sẽ phải nộp. Nộp đủ.
Chuck không biết nói gì. Hắn tựa lưng vào tường, cố trấn tĩnh. Trong lúc đó Poke bắt đầu mở phong bì và đếm tiền. Rồi gã để riêng ra sáu tờ một trăm – phần của Chuck.
— Ngày mai năm lần đi lấy nữa. – Poke nói. Gã lấy trong túi ra một mảnh giấy và ném xuống giường. – Không phải là một thành phố nữa, mà là con bò vắt sữa, phải không?
— Ôi cha. – Chuck nhìn gã da đỏ nhét số tiền còn lại vào túi. – Đúng thế… chà.
Poke đứng lên và đi qua bên Chuck, ra cửa.
— Chúng sẽ nộp, nếu không phải là tất cả thì là đa số. – Cái nhìn của cặp mắt đen của gã cắm vào Chuck. – Bởi vì chúng sợ vãi đái ra quần. Khi con người sợ thì nó làm tất cả những gì người ta bảo làm. – Nói đoạn, gã đi ra.
Một lúc ngừng lâu, Meg không quay đầu lại, nói:
— Thế nào, em gói ghém đồ dùng chứ?
— Em không nghe thấy gã nói gì sao, con chó cái không có óc? – Chuck cằn nhằn. – Ngày mai vở diễn lặp lại.
— Vậy ư?
Trong giọng nói của cô có cái gì khiến hắn ngẩng phắt đầu lên. Cô nhìn ra cửa sổ, mặt bị tóc che lấp không nhìn thấy, nhưng giọng nói của cô có cái gì khiến gã không yên tâm. Bất đồ hắn hiểu rằng hắn không thể tự mình đi đến các buồng điện thoại và thu lượm tiền: thần kinh không chịu đựng nổi. Hắn không thể bắt mình làm việc đó được. Như thế là chui thẳng đầu vào bẫy! Hắn tưởng tượng hắn lấy chiếc phong bì và lập tức từ chỗ cảnh sát nhảy ra. Chuck toát mồ hôi.
Hắn nhặt tờ giấy do Poke bỏ lại lên và đọc: “Sân bay: Buồng B. Bến ô tô: Buồng 4. Nhà ga: Buồng 1. Excelsior: Buồng 2. Adlon: Buồng 6.”
Cho dù cả ba có phải nhận tội cũng mặc: những ngàn rưởi ấy cộng với sáu trăm Poke cho hắn! Nhưng lần này hắn sẽ không trở lại cái sào huyệt này nữa, không đời nào! Lấy xong chiếc phong bì cuối cùng là chuồn! Hắn nghĩ gì khi quyết định trở lại đây lấy hành lý nhỉ?
— Này nghe đây, – Chuck nói. – Ngày mai chúng ta thu góp tiền rồi biến luôn. Biến luôn, không ghé vào đâu cả. Khi gã hiểu ra thì chúng ta đã đi xa rồi.
Meg quay trở lại và nhìn hắn.
— Này, Chuck, anh tài hèn sức mọn. – Cô nói bằng giọng điềm tĩnh. – Tôi cứ tưởng anh là người cũng ra trò, vậy mà anh… Tôi là con ngốc, có thế thôi. Bây giờ tôi có cái gì? Nói chung chẳng có gì cả. Con số không với dấu trừ.
— Này, con bé đần độn ơi, tôi với cô sẻ chia nhau hai ngàn. Đấy là cái gì, số không với dấu trừ à? – Chuck bừng bừng lên. – Ngày mai anh và em sẽ ổn cả. Em có đi lấy tiền không?
Cô lại quay trở về phía cửa sổ. Từ đại dương, những người đi lấy bọt biển đáp thuyền trở về. Ba người kéo lên bờ mộ con rùa nặng một trăm pao (5). Những người Seminole bán hàng tung những quả cam và gào lên với những người mua thờ ơ.
5. 1 lb = 0.5 kg. (ND)
Chuck đứng lên và tới gần cô. Hắn bíu chặt lấy cô bằng hai bàn tay nóng hổi đầy mồ hôi, kéo cô khỏi cửa sổ, lắc thật mạnh.
— Em, có đi hay không? – Hắn gào lên.
— Có. – Cô nói và Chuck buông cô ra: cái nhìn của cô quá hờ hững. – Bây giờ em bất cần gì nữa hết, anh hiểu đấy, chiếc vé xổ số viền vàng của em ạ?
o O o
Trong lúc đó, Poke đứng lại trước bàn lão da đỏ to béo đang mỉm cười, chủ những căn buồng cho thuê có sẵn cả đồ đạc. Tên lão da đỏ này là Ocida. Bề ngoài có vẻ là một người chất phác tốt bụng, nhưng ẩn dưới cái vỏ ấy là một trong những thủ lĩnh của thế giới phạm tội, một con người rất có uy lực. Những căn buồng cho thuê với cả đồ đạc là nơi che giấu những hoạt động phạm tội nhiều mặt của y. Y có tài khoản ở nhà băng Thụy Sĩ. Y nắm trong tay một mạng lưới mà việc buôn bán ma túy là thông qua đó. Hai mươi sáu phụ nữ da đỏ mãi dâm thường xuyên nộp cho y một phần tư tiền họ kiếm được. Y được hai phần trăm tiền bán tất cả các loại hoa quả ở chợ địa phương, vì y đã cấu kết với một người trong bọn ma phi a. Y hưởng một phần trăm tiền lời bán súp rùa, vi ở các xí nghiệp mổ rùa có nhiều người da đỏ làm việc, mà hầu hết những ngưởi da đỏ làm việc đều chịu sự kiểm soát của y. Ba phần trăm tiền vé đỗ xe trên đường bờ xây lát chảy vào túi y – nếu không thì xe đỗ ở đây bị đẩy xuống nước.
Ngồi bên chiếc bàn nhỏ trong những căn buồng tồi tàn có cả đồ đạc cho thuê, mỉm cười, xỉa răng và cộng nhẩm trong đầu những con số – đó là điều y thích thú. Người ta làm việc để cung phụng cho y. Tiền chảy đến như nước. Thế thì lẽ gì y không hạnh phúc? Từ Paradise City tiền chảy về Berne, về Thụy Sĩ. Tiền, đối với y đấy là đối tượng mê thích như tranh của Picasso đối với người ham thích hội họa.
Ocida thích Poke Toholo. Lão béo biết rằng gã trai này nguy hiểm, nhưng nếu muốn moi được tiền từ cái thế giới tổ chức dớ dẩn như thế này, nơi chẳng có trật tự gì cả thì phải là người nguy hiểm. Lão biết Poke là Đao phủ, cũng như lão biết về mọi việc phạm tội trong thành phố. Thanh toán với bọn da trắng giàu có, đấy là ý nghĩ khôn ngoan. Mà lão bao giờ cũng khâm phục những người tinh khôn. Đúng, không phải mọi cái trong đầu óc Poke đều ổn cả, thì đã làm sao? Nhiều kẻ thực hiện những việc quan trọng trong cuộc đời này với cái đầu lệch lạc. Nói chung, một khi gã trai này đã nghĩ ra cách làm cho bọn nhà giàu da trắng hoảng sợ và moi được tiền của chúng thì gã đáng cho Ocida tán thành. Khi Poke dừng lại trước bàn Ocida, lão toét miệng cười với gã.
— Tôi cần một khẩu súng lục. – Poke khẽ nói.
— Khẩu súng như thế nào? – Lão hỏi.
— Súng tốt… cỡ 038, tự động, có chỉnh hướng.
— Đắt đấy, Poke ạ. Cậu có tiền không?
— Tôi trả một trăm đô.
Ocida thán phục những người không ấp úng trước mặt lão. Poke là một trong những người như thế.
— Đợi nhé.
Rời khỏi bàn, y mang tấm thân phục phịch của mình vào căn buồng đằng sau. Khoảng mười phút sau, y trở lại, hai tay cầm cái bọc màu nâu buộc dải băng. Y đặt cái bọc lên bàn.
Poke cho tay vào túi, nhưng Ocida lắc đầu.
— Người ta cho không tôi… tại sao tôi lại phải lấy tiền của cậu?
— Tôi có thói quen trả tiền, như vậy mới thú. – Gã nói buông sõng và đi ra ngoài đường tràn ngập ánh nắng.
Nụ cười thường xuyên trên mặt Ocida tàn đi. Y nhìn tờ giấy bạc rồi nhét nó vào túi ngực. Y cho rằng phải cự tuyệt tiền chỉ khi đó là điều không tránh khỏi. Đấy là triết lý sống của y.
Rõ ràng là đầu óc gã trai này rối loạn hẳn rồi.
o O o
Beigler đưa cho Terrell mẩu giấy của kẻ tống tiền và nói:
— Ờ, bây giờ thì chúng ta biết lý do rồi.
— Ở đây không phải chỉ là do bà gì đã gọi gã là hòn than đen nhẻm. – Terrell tư lự thốt lên. – Chẳng hiểu có bao nhiêu hội viên câu lạc bộ nhận được mảnh giấy như thế này? Những kẻ giàu sụ ấy ở câu lạc bộ vốn đã sợ run lên bỗng nhận được mảnh giấy: nộp tiền đi, không thì ăn đạn. Thế là họ răm rắp nộp, thậm chí không báo cho chúng ta biết.
Beigler châm thuốc lá.
— Còn tôi thì thưa sếp, tôi không muốn đổ lỗi cho họ. Nếu mánh lới của gã là như thế thì hắn quả là ranh mãnh. Giết ba người để những người còn lại hiểu rằng đùa với gã thì khốn. Thế chúng ta đã làm gì để những người già cả đáng thương của chúng ta yên tâm? Chẳng làm gì cả.
Terrell gật đầu.
— Tôi sẽ đến Hansen. Cần bảo vệ ông ấy, bảo vệ không cần đến những kẻ ngu ngốc. Ông ấy đã nộp tiền, nhưng tiền không đến tay Poke, như vậy là Hansen không chịu nộp, mà như vậy thì… Cử đến câu lạc bộ những tay giỏi, để họ bảo vệ tòa nhà.
Beigler vào phòng các thám tử, còn Terrell đi cầu thang sau xuống sân của sở, xe của ông đỗ ở đấy.
Trong phòng các thám tử, Beigler không gặp ai. Toàn bộ nhân viên bận tìm kiếm cặp nam nữ tự xưng là Mr. và Mrs. Allen. Hiểu rằng bảo vệ an toàn cho Hansen là việc cực kỳ khẩn cấp, Beigler bất đắc dĩ gọi điện cho đại úy Hemmings ở sở cảnh sát Miami và xin gửi người đến tăng viện.
— Mười lăm người của tôi đang nai lưng ra làm việc cho các anh đấy thôi. – Hemmings nói. – Các anh cho rằng tất cả các cảnh sát hình sự của chúng tôi đều đang nghỉ phép chắc?
— Thưa ngài, cho chúng tôi thêm hai người nữa. – Beigler nài nỉ. – Chúng tôi sẽ rất biết ơn ông. Hễ chúng tôi rút ra được hai người của mình là chúng tôi xin trả lại người của ông ngay.
— Này, Joe, ở chỗ tôi thì gã da đỏ ấy của các anh đã bị giam từ lâu rồi. Frank làm tất cả mọi việc qua một nơi, nhưng nơi ấy không thuộc khu vực của tôi, thành thử ý kiến của tôi ít ai quan tâm đến.
Beigler phải khó khăn lắm mới nén giận nổi.
— Đại úy Terrell biết việc mình làm, thưa ngài.
Một âm thanh nào đó trong giọng của Beigler nhắc Hemmings rằng ông ta thóa mạ thủ trưởng của Beigler.
— Phải, cố nhiên. – Hemmings vội vã đồng ý. – Thôi được rồi. Tôi sẽ cho hai người đến chỗ các anh. Nếu ở chỗ chúng tôi đột nhiên lại dấy lên làn sóng phạm tội thì các anh cũng sẽ giúp chúng tôi, đúng không? – Ông ta cười nhát gừng. – Tuy nhiên tôi hy vọng chúng tôi sẽ không cần đến sự giúp đỡ của các anh.
— Tôi cũng hy vọng như vậy, thưa ngài.
— Một tiếng nữa người của các anh sẽ được bảo vệ. – Hemmings hứa.
Nhưng bảo vệ đến muộn. Trong lúc Terrell cho xe hơi bò như rùa trong luồng xe cộ dày đặc, trong lúc Hemmings chỉ thị cho hai thám tử cảu mình, phái họ đi Paradise City thì Poke Toholo đã giáng đòn.
Giết Elliot Hansen là việc không có gì phức tạp. Có mạo hiểm, nhưng Poke sẵn lòng mạo hiểm.
14:30, bữa ăn trưa ở câu lạc bộ đã xong: những người da đỏ phục vụ ở dưới nhà cả: hai phần ba số thành viên câu lạc bộ tản tác về các buồng của mình, số còn lại ngủ gà ngủ gật trong sa lông. Tất cả những điều đó Poke biết rất rõ. Cũng như biết rằng Elliot Hansen bao giờ cũng lui về buồng của mình và nghỉ trên đi văng khoảng bốn mươi phút.
Lúc Poke ở lối vào câu lạc bộ dành cho nhân viên,hai thám tử nhọc lử vì nóng nực chỉ mới trên đường tới Paradise City, còn đại úy Terrell phanh xe trước tín hiệu đèn đỏ ở cách câu lạc bộ nửa dặm.
Poke đi êm ru theo cái hành lang được chiếu sáng mờ mờ, lắng nghe tiếng nói và tiếng bát đĩa lanh canh trong bếp. Trên mắc áo có treo hai chiếc áo trắng, cổ đứng, gã lấy một chiếc và mặc vào. Cửa bếp mở, nhưng chẳng có ai. Hành lang tiếp theo dẫn tới quầy rượu. Bên lối vào quầy rượu, gã chậm bước lại. Gã thấy bố đang rửa cốc, toàn bộ dáng vẻ của bố bộc lộ sự nô lệ nhẫn nhịn bao giờ cũng làm Poke cáu kỉnh, gã lặng người và không ló mặt ra, nhìn bố hồi lâu… giá lúc này mà bước vào và ôm lấy ông già,… Không, đấy là sự xa hoa quá đáng. Và Poke đi qua.
Hai hội viên câu lạc bộ đi về phía gã: hai quý ông béo tốt phương phi, mỗi người cầm trong tay một điếu xì gà. Họ thậm chí không nhận thấy gã. Tất nhiên thôi, ai để ý đến một con khỉ mặc áo cổ đứng màu trắng?
Phòng làm việc của Hansen đây rồi. Poke thậm chí không thèm nhìn xung quanh. Gã nhẹ nhàng quay tay cửa và bước vào. Cửa đóng lại, kèm theo tiếng huýt gió nhẹ nhàng: đấy là bộ phận cách âm xung quanh cửa đẩy không khí ra.
Elliot Hansen ngồi bên bàn. Thường thường vào quãng thời gian này ông ta ngủ, nhưng lúc này sự sợ hãi khiến ông ta không ngủ được. Thế giới mà ông ta dựng nên bắt đầu rã ra, sắp tới nó có thể đổ sụp và vùi lấp ông ta dưới đống đổ nát của nó.
Ông ta ngẩng đầu lên, thấy gã da đỏ mặc áo cổ đứng màu trắng và ông ta cáu kỉnh xua tay.
— Ta không gọi mi. Đi đi. Sao mi dám vào đây… – Liền đó ông ta nhận ra Poke, nghẹn ngào hớp không khí và nép mình vào ghế bành.
Poke giơ khẩu súng lục lên. Trên gương mặt nước da nâu của gã thoáng hiện cái gì như một nụ cười, và gã bóp cò.
o O o
Khi trung sĩ Beigler vào phòng làm việc của Terrell, trán ông ta lấp lánh những giọt mồ hôi, mắt long lên sòng sọc. Terrell bắt ông ta gánh lấy một việc bạc bẽo: gặp các nhà báo, nhưng không tiết lộ thông tin nào. Phản ứng của các nhà báo thật mãnh liệt, có thể nói là quá mãnh liệt đối với huyết áp của Beigler.
— Anh có biết lũ chó đẻ ấy gọi chúng ta là gì không?
Ông ta hỏi, hai bàn tay to lớn cứ nắm vào lại mở ra., – Những con hổ giấy. Bọn nó bảo…
— Mặc xác họ, Joe, ta không hơi đâu bận tâm đến họ. – Terrell vừa nói chuyện điện thoại với thị trưởng Hedley, ông thị trưởng đích thực là loạn thần kinh. Nhưng khi Terrell tin chắc rằng ông chơi nước cờ đúng thì không cơn loạn thần kinh nào, không lời quát thét nào đối với ông có tác dụng cả. – Anh ngồi xuống… uống cà phê đi.
Beigler ngồi xuống và nhấp cà phê – người ta vừa mang cà phê đến trong những cốc giấy.
— Ngày mai báo chí sẽ chửi chúng ta, thủ trưởng ạ. – Ông nói, cố giữ bình tĩnh. – Còn tin ti vi buổi tối… sẽ có cái để mà xem.
— Anh đã nói với họ rằng chúng ta chưa nắm được điểm gì chứ?
Nhớ đến chuyện đó, Beigler nhăn mặt.
— Nói rồi.
Terrell bắt đầu nhồi ống tẩu.
— Tốt. Anh đưa đến bao nhiêu người?
— Sáu, họ đang chờ ngoài cửa.
Cùng với Lepski vào phòng làm việc là những nhân viên ưu tú nhất của Terrell: Max Jacoby, Dave Farrell, Jack Wallace, Andy Shields và Alec Horn.
— Lấy ghế ngồi, – Terrell ra lệnh. – Mời ngồi.
Sau một lúc lịch kịch, các thám tử ngồi xuống
— Tình huống thì các ông đã biết. – Terrell bắt đầu. – Các ông đã đọc báo cáo. Kẻ phạm tội tên là Poke Toholo. Hai kẻ tự xưng là Mr. và Mrs. Jack Allen làm việc với gã và có thể khiến chúng ta tìm ra gã. Sự miêu tả ngoại hình thì hiện các ông đang có trong tay. Nhiều phần chắc là chúng ta sẽ nhanh chóng đưa chúng ra ánh sáng: chúng không biết rằng chúng ta đang tìm chúng. Vì thế chúng ta phơi mình ra cho báo chí đả kích. Chúng ta nói với các nhà báo rằng chúng ta không nắm được điểm nào hết, mặc cho họ gọi chúng ta là hổ giấy, bộ ba ấy chỉ càng lơi lỏng thôi, mà tôi cần như vậy… – Ông châm ống tẩu, rồi nói tiếp. – Tôi tin chắc rằng không phải chỉ một hội viên câu lạc bộ Năm Mươi nhận được lá thư đòi nộp tiền, tất cả bọn họ chắc chắn đều đã nộp, nhưng không người nào thú nhận điều đó. Tất cả bọn họ là những kẻ bạc nhược, và vụ giết Hansen làm họ sợ đến mê mụ. Thực ra Hansen đã nộp tiền, nhưng phong bì tiền đã có người tình cờ tìm được trước Poke, tìm thấy và lấy đi, vì thế Poke giết Hansen. Ý nghĩ dán phong bì tiền vào đáy máy điện thoại tự động khá láu đấy. Người ta thường xuyên gọi điện thoại từ trạm tự động, vì vậy xác định rõ có người nào lấy phong bì đi hầu như là không thể được… Ba kẻ đó đã dùng buồng điện thoại tại sân bay, mà một khi chúng không biết rằng chúng ta đã theo dõi thì chúng có thể dùng buồng đó lần nữa. Max, Dave và Jack lập tức ra sân bay. Qua tất cả các buồng điện thoại, kiểm tra dưới đáy máy. Nếu tìm thấy phong bì thì cứ để nguyên tại chỗ, gọi điện cho tôi. Các ông không phải là cảnh sát, chỉ là những người cần gọi điện. Hãy nhớ rằng các ông có thể bị quan sát, một nước đi không đúng sẽ làm hỏng cả cuộc tác chiến. Tôi không cần đi vào chi tiết, rõ cả rồi chứ?
Ba thám tử gật đầu.
— Nếu thấy kẻ nào trong số ba kẻ thì đừng để mất hút. Các ông có liên hệ điện thoại với Lepski. Kế hoạch của chúng ta là bắt cả ba. Nếu thấy có cả ba tên ở đấy thì bao vây, nhưng rất thận trọng… bọn này nguy hiểm đấy. Nhiều phần chắc là một kẻ nào đó trong bọn chúng sẽ đến lấy tiền… có lẽ là cô gái. Khi ấy theo dõi ả hay hắn ta, thường xuyên báo cáo. Rõ chưa?
Ba thám tử gật đầu.
— Thôi, lên ngựa.
Jack Wallace phát hiện ra chiếc phong bì dán vào máy điện thoại tự động ở buồng B tại phòng ngoài của sân bay. Anh lập tức quay số điện thoại của Terrell.
— Tìm thấy rồi thưa thủ trưởng! Buồng B.
Terrell hít hơi vào một cách ồn ào: ông dự tính đúng.
— Tuyệt, Jack. Rời khỏi ngôi nhà.
Lepski ngồi trong xe, liên lạc đã sẵn sàng. Toàn thân anh căng thẳng khi nghe tiếng Terrell.
— Jack đã phát hiện ra chiếc phong bì trong buồng B. – Terrell nói. – Bắt tay vào đợt tác chiến đi, Tom, anh là người chỉ huy… chúc thành công.
Thọc tay vào bên trong áo vét, Lepski sờ chuôi khẩu súng cảnh sát đặc biệt cỡ 038 của mình và nói rành từng tiếng:
— Vâng, thưa thủ trưởng, có tin gì tôi sẽ báo ngay.
Lepski đi ngang qua cái bến ô tô khổng lồ, vào phòng ngoài của sân bay. Đám đông sôi nổi ầm ầm, anh len qua họ với vẻ nhởn nhơ. Các buồng điện thoại kia rồi. Anh đưa mắt thoáng nhìn bà già đang gọi điện trong chòi B rồi lên tầng trên, nơi đặt cơ quan hành chính địa phương và cơ quan quản lý sân bay. Từ đây nhìn buồng điện thoại rất rõ.
— Xin lỗi, thưa ngài. Anh nghe thấy tiếng một người con gái. – Không vào đây được. Tầng này chỉ dành cho những người làm việc ở sân bay.
Lepski quay trở lại và chăm chú nhìn người con gái.
Trước mắt anh là một cô tóc đen, không cao, khá xinh, mặc áo sơ mi cộc tay màu vàng và mi ni giuýp đen – đồng phục của nhân viên hàng không địa phương. Cái nhìn của anh dừng lại ở đôi chân cô lâu hơn đáng có, và khi cô cười khúc khích một cách bối rối, anh lấy vẻ nghiêm chỉnh và trở lại hoàn toàn là cảnh sát.
— Ở đây ai là người phụ trách? – Lepski hỏi và cho xem phù hiệu của mình.
Mấy phút sau anh đã ngồi trong một phòng làm việc và qua tấm vách ngăn bằng kính, anh nhìn khắp phòng ngoài và đặc biệt buồng điện thoại mà không làm ai để ý.
Chờ đợi, Lepski đã được huấn luyện về việc này. Công việc của cảnh sát là như vậy. Bốn giờ đầu kéo dài lâu vô hạn. Cuối mỗi giờ, một trong số người của anh lại vào buồng điện thoại kiểm tra xem phong bì còn đấy không. Trong thời gian ấy đã có năm mươi ba người gọi điện từ buồng này. Năm giờ sau Max Jacoby thay anh và Lepski nằm co quắp trên chiếc giường gấp mà một nhân viên sân bay có nhã ý dành cho anh.
o O o
Sau bữa cà phê sáng, việc đầu tiên là Chuck đánh xe tới trạm bảo dưỡng, ở đấy họ bơm cho hắn đầy thùng xăng, kiểm tra bánh và ắc qui, đổ chất lỏng làm lạnh vào đầy ra đi a tơ. Hễ hắn với Meg lấy xong tiền là lên đường ngay, sẽ phải đi lâu, và mọi chuyện bất ngờ khỏi phải lo gì. Hai ngàn đô la với chiếc ô tô, có thể bắt đầu cuộc sống mới. Khi số tiền ấy hết… Hắn đã quen sống bằng ngày hôm nay… Tiền bao giờ cũng sẽ tìm được, chỉ cần tìm, và sẽ tìm được ngay những kẻ muốn từ bỏ tiền.
Hài lòng vì chiếc xe trở thành như thứ đồ chơi, hắn cho xe đến gần bờ biển và đỗ lại. Hắn nhìn đồng hồ: 10:43. Nửa tiếng nữa bắt tay vào việc. Đứng ngoài nắng, Chuck nghiên cứu mảnh giấy Poke đưa cho hắn. Sân bay thì tốt hơn hết là để sau cùng. Từ đấy đến đường 25 một với tay, rồi tiến về Los Angeles.
Khi hắn đi Meg chưa trở dậy, và hắn bảo cô đón hắn ở bờ biển. Chuck châm thuốc lá hút, tới cái bệ cột chão buộc thuyền và ngồi xuống đó.
Chuck chẳng bao giờ đọc báo và nghe đài. Hắn sống trong cái thế giới nhỏ bé hạn hẹp của mình. Vì thế hắn chẳng biết gì về vụ giết Hansen, cũng như sự ồn ào mà báo chí gây nên sau đó.
Không phải là thành phố, mà là con bò vắt sữa, hồi nọ Poke đã nói.
Chuck nhếch mép cười không vui. Phải, nhưng không hẳn thế. Con bò bất thình lình có thể húc. Còn nếu người ta định vắt sữa gã da đỏ ngông cuồng đó thì gã sẽ có thái độ thế nào?
Quá mười một giờ một chút Chuck trở lại ô tô. Vào giờ này trong ngày, dọc bờ biển có nhiều người da đỏ, người đánh cá, người du lịch mang máy ảnh, những thủy thủ ở các du thuyền sang trọng. Người ta đến các quán rượu nốc cạn cốc buổi sáng. Bên rìa đường bờ biển xây lát khách du lịch xúm xít xem những người đánh bắt tôm hùm.
Ra khỏi đám đông, Meg lên ngồi ghế canh người lái xe. Cô mặc chiếc áo cổ chui bẩn thỉu, chiếc quần bò đã cũ mèm.
Chuck ngồi vào tay lái. Hắn bật động cơ.
— Nào, bé em, ta đi thôi. – Hắn nói. Thay cho sự hào hứng, trong giọng nói lộ ra những âm thanh lo ngại. Sắp tới với họ sẽ là hai tiếng đồng hồ không phải dễ chịu nhất… Còn Poke hiện ở đâu, vẫn ở quầy hoa quả chăng? Chuck nuốt nước bọt, đưa mắt nhìn khắp lượt bến cảng đầy nghẹt người.
Meg im lặng, và Chuck liếc nhìn cô. Bề ngoài cô hoàn toàn điềm tĩnh… hắn nhìn đôi tay cô – không run… quỷ tha ma bắt con bé đi. Lạnh lùng quá mức. Ồ không, chẳng qua là cô bất cần gì nữa hết. Mà như thế là nguy hiểm. Khi con người chẳng cần gì nữa hết thì nó thường liều lĩnh một cách vô lối. Ngộ nhỡ bỗng nhiên một tên cớm nào đó bám theo cô ta thì sao? Nghĩ đến mà sợ…
— Ta nhặt hết tiền là chuồn luôn. – Hắn nhắc lại. – Chuồn về Los Angeles. Ở đấy em sẽ không buồn đâu. Với hai ngàn đô la chúng ta sẽ chơi bời thỏa thích.
Cô lại không trả lời. Cô chỉ ngồi nhìn ra cửa sổ bằng cái nhìn đờ đẫn… Bây giờ mà cho một trận, ngứa tay quá… Nhưng không, chưa phải lúc.
Bật truyền động sau, Chuck bắt đầu cho xe rời chỗ đỗ. Hắn chán ngấy con bé ngu ngốc này rồi! Cần vứt quách nó đi cùng với tên da đỏ, vì không cần đến nữa. Nó nhặt nhạnh xong các phong bì, xe ra đến đường 27 là hắn sẽ dừng xe lại và cho con bé một cú đá vào mông. Hai ngàn hay ngót hai ngàn, với số tiền như thế hắn sẽ tìm được một người bạn gái đáp ứng sự âu yếm của hắn, không như cái xác ướp quái quỷ này. Con số không với dấu trừ! Ả đã nói như thế về gã phải không? Được, cô cứ đi thu thập các phong bì đi, rồi tôi sẽ không chiều chuộng cô lâu nữa đâu.
— Trước hết đến Adlon – Hắn ra lệnh. – Buồng số 6. Nghe thấy chứ?
— Có. – Meg đáp.
Từ bến cảng nhộn nhịp, gã rẽ vào một ngõ phụ dẫn ra đại lộ chính. Ở góc của chính ngõ ấy, cảnh sát tuần tra là O’Grady đang trực.
Tất cả các cảnh sát đầu được miêu tả về những kẻ phạm tội và có những chỉ thị rành rọt. Chỉ thị là thế này: không bắt, chỉ báo tin. Khi chiếc Buick bụi rậm xuất hiện, O’Grady cảnh giác ngay. Chiếc xe chạy tốc độ nhỏ đi ngang qua, O’Grady nhìn Chuck, rồi nhìn Meg, và liền ngay đó anh ta nhận ra họ căn cứ vào sự miêu tả đã như chiếc đinh cắm sâu vào trí nhớ của anh. Anh ta nhìn chiếc xe hoà vào luồng xe cộ đông đặc trên đại lộ chính, rồi bật máy bộ đàm.
Beigler nhận được tin, liền báo ngay cho xe tuần tra số 4.
Xe của các cảnh sát Hum và Jason đỗ trên đại lộ. Cả hai lập tức chồm lên khi nghe thấy cái giọng ồm ồm của Beigler trong loa điện động.
— X-50, Buick xanh sẫm, số 55789 đang đi tới chỗ các anh. Tôi nhắc lại X-50. Nếu có thể được thì hãy bám theo, nhưng không để chúng nhận thấy các anh. Trong xe có một người đàn ông và một phụ nữ.
Ám hiệu X-50 có nghĩa là nói về chiến dịch “Đao phủ”. Hum bật động cơ.
— Chúng kia. – Jason cho biết, và Hum bắt đầu thận trọng hòa vào luồng xe.
Chiếc Buick chạy ngang qua, khiến cho cảnh sát có dịp nhìn kỹ Chuck và Meg. Hum chen vào giữa chiếc Rolls và Cadillac. Người lái chiếc Rolls nắm tay đấm vào còi hiệu, rồi anh ta hiểu rằng đấy là anh ta nổi còi với cảnh sát! Anh ta bắt đầu làm ra vẻ mình tình cờ nổi còi báo hiệu, nhưng vẫn vấp phải cái nhìn dữ tợn của Jason.
Buick đã kịp vượt qua ngã tư, còn xe cảnh sát phải dừng lại vì đèn đỏ. Hum buột miệng chửi.
— Thế là xong, khỉ quá, chúng đã tới. Không được nổi còi. Chúng kia kìa. Chúng tuột khỏi lưỡi câu rồi.
Và anh lập tức báo cáo với Beigler.
Chuck không hề nghi ngờ rằng đã bị để ý, đến ngã tư sau cho xe rẽ bên phải và chậm chạp lái về khách sạn Adlon.
— Tiến lên, em, anh đợi em ở đây.
Meg vào tòa nhà khách sạn, lấy chiếc phong bì ở buồng điện thoại 6. Trở lại xe, cô ném chiếc phong bì vào cái găng đánh bốc. Họ đến khách sạn Excelsior, và Meg lại lấy chiếc phong bì mà không có vấn đề gì hết.
Hân hoan trong lòng, Chuck cho xe tới ga.
— Ta tiếp tục. – Hắn nói lí nhí. – Như vắt sữa con bò, đúng vậy. Một ngàn đô, đấy không phải là chuyện vớ vẩn. Ba lần đỗ nữa là công việc trót lọt.
Từ xe tuần tra số 6 người ta báo rằng chiếc Buick đã đi qua chỗ họ. Không quay xe được, luồng xe dày dặc quá, và họ mất hút chiếc xe kia.
Beigler nhìn tấm bản đồ lớn của thành phố trải trên bàn ông. Ông đánh dấu những nơi người ta đã nhìn thấy chiếc Buick và báo cho các xe tuần tra 1 và 2 rằng Buick có thể đi về phía họ.
Ở nhà ga Chuck phải cho xe đi vòng: chẳng có chỗ nào đỗ. Không tốt. Meg sẽ ra, sẽ phải đỗ lại. Ngộ nhỡ một cảnh sát nhiễu sự nào đến hỏi cô chờ gì thì sao? Hắn cho xe chạy trốn lần nữa quanh ga và chỉ sau đó hắn mới thấy Meg đang chờ. Mồ hôi đầm đìa, hắn phanh xe cạnh cô.
— Em chết gí ở trong ấy. – Hắn quát lên khi cô đã lên ngồi trong xe và xe đã chạy. – Lấy được chứ?
— Được. – Meg mở chiếc găng đánh bốc và đặt chiếc phong bì thứ ba lên trên hai chiếc phong bì kia.
— Em khỉ thật. – Chuck dùng mu bàn tay lau mặt. – Vậy mà anh đã… – Hắn im bặt và cố nặn ra một nụ cười. Một ngàn rưỡi đô. Ta đến bến ô tô.
Cho xe chạy trên một đường phố phụ nhỏ hẹp, Chuck lái ra đại lộ ven biển. Xe cảnh sát chấp hành đúng chỉ thị: họ phát hiện chiếc Buick bò vào luồng xe dày đặc và báo ngay cho Beigler báo cho xe tuần tra số 2, nhưng nó bị mắc không thoát ra nổi trong luồng xe cuốn nó đi. Người lái xe nói rằng không nổi còi thì không thể thoát ra được. Beigler buông câu chửi rủa, nhưng biết làm thế nào được? Vì những kẻ nhàn rỗi quái quỷ này mà không qua đại lộ được, họ cần quái gì, chỉ cần trưng bản thân mình và ô tô của mình và tiện thể nhìn xem người trên bãi biển làm trò ngu ngốc gì.
Meg ra khỏi chiếc Buick và vào tòa nhà của bến ô tô.
Buồng điện thoại số 4 có người.
Một phụ nữ trẻ tuổi gọi điện, tuổi ngót ba mươi nhăm, thuộc loại người mà Meg căm ghét và khinh bỉ: đã có chồng, để tóc kiểu đơn giản, bộ áo váy hoàn toàn trung bình, thay cho đồ trang sức là những đồ lặt vặt đáng ngờ. Tất nhiên chị ta đã cho ra đời một đứa con mà chị ta sẵn sàng luôn miệng kể về nó, nhưng giấu kỹ tất cả mọi người rằng thực ra con chị ta là một quái vật thực sự và hết sức khinh miệt chị ta. Chồng chị ta là một kẻ đáng ngán hiếm có, chỉ có thể nói về tiền và đánh gôn, luôn bám chặt lấy công việc của mình.
Mất kiên nhẫn, Meg mở cửa buồng điện thoại, đẩy người phụ nữ sang một bên, lục lọi dưới đáy máy điện thoại, sờ thấy chiếc phong bì, lấy cho vào xắc.
— Này! Thế là thế nào? – Người phụ nữ trợn mắt nhìn cô, thét lên.
— Cô cút đi. – Meg chẹn họng và thong thả đi về chỗ Chuck đang chờ cô.
— Ổn chứ? – Chuck hỏi khi Meg bỏ phong bì vào chiếc găng đánh bốc.
Mặt như tạc bằng đá, cô nhìn hắn.
— Rõ là ổn, nếu không thì em đã không ở đây.
Chuck hít một hơi.
Hai ngàn đô la!
— Em làm sao thế? – Hắn hỏi một cách thô lỗ khi xe đã ra đường. – Em không vừa lòng cái quái gì kia chứ?
— Chính em cũng muốn biết. – Meg đáp.
Được, chẳng bao lâu nữa hắn sẽ cho cô cái đá đít và tạm biệt.
Óc ả không bình thường, cũng như gã da đỏ! Mà thôi mặc xác chúng, hắn sẽ bỏ rơi cả hai! Chỗ dừng tiếp theo là sân bay! Cho dù ở đấy không có chiếc phong bì cuối cùng thì hiện giờ hắn đã có hai ngàn sáu trăm đô la rồi! Mẹ khỉ! Với số tiền như thế có thể ăn chơi xả láng!
Khi họ đến sân bay, kim chiếc đồng hồ lớn ở phòng ngoài chỉ 12:15.
Xe ở bến ô tô lớn đậu thành hàng đều đặn. Ở đây Chuck tìm được chỗ đỗ xe không khó khăn gì.
— Nào, làm việc đi, bé! Lần cuối cùng! Tiến lên, nhanh nhanh vào Meg ra khỏi xe và đi trên lớp bê tông về lối cửa vào sân bay.
Chuck đảo mắt khắp xung quanh xem có ai rình mò không, rồi rút những phong bì ra khỏi chiếc găng đánh bốc và dùng dao dọc chúng ra. Tiền rơi lả tả xuống đùi hắn.
Chúng ta khá lắm! Ta vắt sữa con bò! Ta hái quả và hái nấm! Có thể mê người đi đấy!
Đếm lại tiền xong, hắn dồn tất cả tiền vào một phong bì, ba phong bì còn lại hắn vò nhàu và vứt xuống ghế phía sau. Còn chiếc phong bì dày cộm thì hắn cho vào chiếc găng đánh bốc.
Nếu lần cuối cùng này cũng sẽ thành công thì hắn sẽ vơ được ba ngàn một trăm đô la.
Hắn nắm tay đấm vào tay lái.
Ơ này, cái xác ướp quái quỷ, hiện giờ mi ở đâu? Sao mi lề mề thế, con chó cái đáng ngán? Nhanh lên rồi chúng ta chuồn!
Rồi sau đó, ở một chỗ nào trên đường cái, hắn sẽ dừng xe ở lề đường, mở cửa bên phải và cho ả cái đá đít: mạnh khỏe nhé, đừng hắt hơi sổ mũi gì!
Miễn sao sống được đến lúc ấy, mẹ kiếp!
o O o
Lepski trực từ 11:00. Hiện thời chưa có tin gì, Jacoby nói với anh. Chiếc phong bì vẫn nằm nguyên tại chỗ. Các thám tử khác đã được thay phiên từ trước, nay lại vào chỗ của mình.
— Cứ thế này thì có thể chờ cả tháng. – Lepski khẽ lầu bầu, châm điếu thuốc và ngồi lại trên ghế bành cho thoải mái hơn.
— Tôi đi uống cà phê… được chứ? – Jacoby đi ra cửa.
Lúc ấy từ máy bộ đàm vang lên tiếng nói của Beigler. Các thám tử đứng ngây tại chỗ.
Beigler cho biết: đã nhận thấy một người đàn ông và một người phụ nữ (người đàn ông không phải là người da đỏ). Xét về mọi mặt, họ đi ra sân bay. Lúc này các xe tuần tra đã mất hút họ.
— Hãy vào phòng ngoài, Max, – Lepski ra lệnh. – Hình như đã đến giờ của chúng ta.
Nhưng mãi đến 12:15 sự chờ đợi lâu của họ mới được ban thưởng.
Người trông thấy Meg đầu tiên là Jacoby – bằng dáng đi thành thạo, cô tới các buồng điện thoại. Rồi sau đó cả Lepski cũng nhìn thấy.
Lepski chăm chú nhìn cô: cao lớn, tóc đen chải phẳng, ăn mặc luộm thuộm, mặt cau có tái nhợt. Cô mở cửa buồng điện thoại B… đúng, không nghi ngờ gì nữa, họ coi giữ chính cô.
Anh bật máy liên lạc.
— Hình như con chim đã bay tới! Tóc đen, áo cổ chui màu trắng và quần bò xanh. Ở trong buồng điện thoại. Nhưng vì Chúa, xin đừng để ả nhận thấy. Theo dõi ả từ xa.
Anh ra khỏi phòng làm việc và nhanh chóng xuống thang vào phòng ngoài của sân bay.
Cô gái vung vẩy cái túi, bỏ đi. Jacoby theo sau.
Lepski nhảy tối buồng điện thoại và đưa tay kéo cánh cửa cùng một lúc với một người to béo vai rộng.
— Cảnh sát! – Lepski gầm lên bằng cái giọng cảnh sát của mình, chèn người đàn ông sang một bên và lục lọi dười đáy máy điện thoại.
Không có phong bì! Đi vòng qua bên gã to béo đang nhìn anh chòng chọc, anh bước nhanh theo Jacoby.
Vậy là anh không nhầm!
Lepski bật máy bộ đàm.
— Chính là ả! Ả ra rồi. – Anh dừng lại dưới ánh nắng và thấy cô gái đi về chỗ đỗ ô tô. Thấy Jacoby rẽ về phía ô tô của mình, anh gật đầu tán thành. Dave, ả đang ra bến đỗ ô tô! Hãy ngồi trong xe chờ ở cổng phía bắc. Buick 55789. Bám theo sau chúng, nếu xe chúng đi qua. Andy! Chặn cổng phía nam! Cắt liên lạc, anh chạy tới xe Jacoby và vào xe.
Những người lái các xe tuần tra biết mánh lới của mình. Họ chặn lối ra khỏi thành phố. Công việc của họ là như thế. Ba xe tuần tra của cảnh sát ở ngay sân bay luôn cảnh giác nếu chiếc Buick đột nhiên trở lại thành phố.
Dave Farrell xuất hiện trong thinh không.
— Cổng phía bắc, Tom, chúng đang ra khỏi thành phố. Tôi đang bám đuôi.
— Đi. – Lepski ra lệnh, và Jacoby dận ga.
David Jackson con đi ngủ trong trạng thái say mèm, ngay lúc thức dậy cơn choáng váng vẫn chưa hết. Sáng hôm ấy anh ta phải ra sân bay đón mẹ đáp máy bay từ Nữu Ước đến thăm. Anh ta rất thiết tha yêu mẹ, nhưng chẳng lẽ mẹ không thể bay đến vào ngày khác được ư? Mới đây anh ta vừa qua một bữa tiệc, mà bữa tiệc như thế nào? Nhưng không thể coi thường mẹ được, với anh ta mẹ như ngôi sao dẫn đường trong cuộc đời này, không quí trọng mẹ làm sao được? Trong những bánh răng nối anh ta với bố, mẹ đóng vai trò dầu bôi trơn. Không có sự can thiệp thường xuyên và bền bỉ của mẹ, David Jackson con từ lâu đã mất quyền thừa kế, mà bởi vì bố anh ta đáng gía một triệu mười lăm đô la, ý nghĩ về việc mất quyền thừa kế đó làm anh ta bực tức gấp bội so với cách nói văn vẻ của một tác giả đã quá cố.
Nói vắn tắt, thức dậy anh ta bò ngay khỏi giường, biết chắc rằng anh ta phải lao tới sân bay như viên đại bác ra khỏi nòng, mặc dù toàn bộ cơ thể anh kiên quyết chống lại. Dù thế nào cũng phải đón bà lão. Nhưng đầu như nứt ra!… Như thể bị cho qua cái máy nghiền thịt. Anh ta lên chiếc Jaguar của mình và để trừ bỏ cơn đau đầu dữ dội, anh ta nốc lấy nốc để chai Teachers mà anh ta luôn luôn để trong xe.
Nhìn chiếc đồng hồ Omega vàng của mình, anh ta thấy: chỉ còn mười lăm phút nữa là máy bay của mẹ đến.
Thế là mất hết khôn, anh ta quyết định: đành liều thôi! Phóng tới sân bay với tốc độ của người tham gia cuộc đua Monte Carlo, anh ta lái xe như đứa trẻ suy nhược.
Ba lần anh ta tránh được đâm xe chỉ nhờ tài nghệ của những người lái xe khác. Dầu sao anh ta cũng đã thoát ra khỏi luồng xe trên đường nhựa, và đến đây anh ta dận ga thật lực. Xe gầm rú lao lên. Anh ta nhìn đồng hồ. 12:30. Khi ta phóng xe với tốc độ một trăm mười dặm một giờ thì không được rời mắt khỏi đường, thế mà lại nhìn đồng hồ thì quả là dẫn tới tai họa khốc hại.
Cái mũi xe Jaguar dài lao hết tốc lực đâm vào sườn chiếc Buick màu da trời làm nó từ đường cái chạy về sân bay vọt lên đường ô tô.
Cú đâm thật khủng khiếp. Chiếc Buick bị hất lên dải đường chạy ngược lại, lộn tung, một chiếc xe khác đâm vào nó, người lái xe không sao hãm xe lại được.
Jaguar bay văng khỏi đường, quay lộn trên không, đập mui xuống và tức khắc bốc cháy. David Jackson con chết ngay từ trước khi lưỡi lửa bắt đầu liếm thân thể anh ta.
Chuck nhìn thấy chiếc Jaguar lao vào xe mình, nhưng không tránh nổi cú đâm. Hắn cảm thấy bị đâm cực mạnh, kính phía trước như mảnh đạn bắn vào mặt hắn.
Có trời biết số phận trớ trêu thế nào mà các cửa xe mở tung và Chuck bị ném ra khỏi xe. Hắn rơi xuống đất, bò lồm cồm trên đường.
Chuck khiếp sợ thấy xung quanh hắn một vũng đỏ lan ra… đấy là máu hắn! Hắn run, kinh hãi, hắn hiểu rằng chẳng mấy chốc hắn sẽ mất hết máu, nhưng hắn chỉ có thể nghĩ đến một điều: tiền trong chiếc găng đánh bốc của Buick. Hắn đứng lên một cách chật vật. Như trong sương mù, hắn nghe thấy tiếng còi ô tô, tiếng la thét của những ai đó. Hắn khom mình chạy tới chiếc Buick dúm dó và thọc tay vào lấy tiền.
Suối xăng cháy rực từ Jaguar chảy ra như con rắn màu đỏ da cam bò xuống theo độ dốc của con đường và xối vào Buick lúc những ngón tay chảy máu của Chuck túm được chiếc phong bì.
Thùng xăng thủng của Buick nổ tung.
Chuck bị ném lên không trung, áo quần hắn bốc cháy, và xác hắn cháy rừng rực rơi xuống chiếc Jaguar lật ngửa.
Muốn Sống Thì Hãy… Muốn Sống Thì Hãy… - James Hadley Chase Muốn Sống Thì Hãy…