Love appears in moments, how long can I hold a moment, as my moment fades, I yearn to catch sight or sound of you, to feel the surging of my heart erupt into joyous sounds of laughter.

Chris Watson

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lê Khánh Trường
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: hoang viet
Số chương: 40
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1998 / 19
Cập nhật: 2016-03-25 13:03:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 38: Động Đất
Ông nghĩ sao, ông đô thống - Ostap hỏi khi hai người đến gần bản Sioni - có thể kiếm ăn bằng cách gì ở cái vùng hẻo lánh, cao hơn mặt biển trên ba ngàn mét này?
Ippolit Matveevich im lặng. Cái việc duy nhất có thể giúp ông ta sinh sống là ăn mày, nhưng ở đây, trên vùng núi cao heo hút này, chả có ai để mà ăn xin
Kể ra ở đây cũng có cảnh ăn xin, nhưng là kiểu đặc biệt như ở vùng núi Anpơ: mỗi khi có chiếc xe buýt hoặc xe hơi chạy qua làng, trẻ con lại kéo tới biểu diễn vài điệu múa Lezginka rồi chạy theo xe và nói to:
- Cho tiền đi, cho tiền đi, các vị!
Hành khách quẳng những đồng xu năm côpếch xuống rồi bay lên đèo Cây Thập tự.
- Chúa thật - Ostap nói - không cần chi phí đầu tư, thu nhập ít ỏi, nhưng trong tình cảnh chúng mình, khoản ấy rất có giá trị.
Khoảng hai giờ chiều ngày đi đường thứ hai, Ippolit dưới sự quan sát của vua mánh, đã biểu diễn trước hành khách ngồi trên ô tô điệu múa đầu tiên của mình. Điệu này giống điệu Mazurka nhưng hành khách mải say sưa với cảnh đẹp hoang dại của vùng Kápka, cứ tưởng đó là điệu Lezginka của địa phương nên quẳng xuống ba đồng năm côpếch. Đến chiếc xe sau, một chiếc xe buýt từ Tiflis chạy đến Vlađikavkaz thì đích thân giám đốc kỹ thuật ra nhảy múa.
- Cho tiền đi, thưởng tiền đi, các vị! - Vua mánh cau có nói.
Hành khách vui cười và hào phóng thưởng tiền. Trong đám bụi đường, Ostap nhặt được ba chục côpếch cả thảy. Nhưng ngay lập tức hai kẻ cạnh tranh bị bọn trẻ con ở bản Sioni ném đá tới tấp. Để tránh tai nạn, họ vội rời chân sang bản bên cạnh, nơi họ dùng số tiền vừa kiếm được để mua phó mát và bánh churek.
Những ngày tiếp theo diễn ra tương tự. Ban đêm họ ngủ nhờ các nhà trong bản. Sang ngày thứ tư, họ theo con đường ngoằn ngoèo đi xuống thung lũng Kaisaur. Ở đây rất nóng, nhờ đó các khớp xương của hai người bị tê cứng vì giá lạnh trên đèo Cây Thập tự nhanh chóng được hâm nóng lại.
Những khối đá ở hẻm Đarial, bóng tối âm u và giá rét trên đèo đã được thay bằng cây cỏ xanh tươi và nhà cửa san sát dưới lũng sâu. Hai kẻ lữ hành đi xuống thung lũng đông dân, có nhiều gia súc và gia cầm... Ở đây có thể ăn xin, kiếm miếng gì đó cho vào bụng hoặc cùng lắm thì đi ăn trộm. Đây là vùng Zakápka.
Hai người hớn hở đi nhanh hơn.
Ở Passanaur, một bản khá giàu, có hai khách sạn và mấy tiệm ăn, hai người xin được ít bánh churek và nằm nghỉ dưới một bụi cây trước cửa khách sạn "Francis", nơi có một vườn hoa và hai con gấu nhỏ bị xích cổ. Cả hai thưởng thức hơi ấm và vị ngon của bánh.
Được một lát, bỗng có tiếng còi ô tô inh ỏi, tiếng lốp xe mới nghiến lạo xạo trên đường sỏi và tiếng cười nói vui vẻ. Hai thành viên hợp đồng ngó ra, thấy ba chiếc ô tô mới toanh cùng kiểu từ từ chạy vào cửa khách sạn "Francis" và dừng lại thật êm. Từ chiếc xe đi đầu, Persitski nhảy ra. Theo sau là "Tòa án và sinh hoạt" dùng tay chải chải mái tóc lấm bụi. Rồi từ ba xe đổ xuống nốt tất cả các hội viên câu lạc bộ ô tô của báo "Máy cái".
Persitski gọi to:
- Ông chủ ơi! Mười lăm xuất thịt nướng nhé!
Khách sạn rộn tiếng bước chân của nhiều người và tiếng kêu của một chú cừu bị lôi vào nhà bếp.
- Kisa, ông không nhận ra anh chàng trẻ tuổi kia sao? - Ostap hỏi - Đấy là anh chàng phóng viên đã ở dưới tàu "Skriabin", một trong những kẻ đã phê phán băng biểu ngữ transparant của chúng mình đấy. Sao bọn họ đi xe sang thế nhỉ? Lạ thật!
Ostap mon men lại gần tốp người đang ăn thịt cừu nướng và cúi chào Persitski một cách vô cùng lịch thiệp.
- Bông-giua! - Nhà báo nói - Anh bạn thân mến, tôi đã gặp anh ở đâu rồi nhỉ? A-a-a! Nhớ rồi. Họa sĩ trên tàu "Skriabin"! Phải không nào?
Ostap đặt bàn tay lên ngực và cung kính cúi mình.
- Hượm đã. Hượm đã - Persitski, với trí nhớ tuyệt diệu của nhà báo, nói tiếp - Có phải ở quảng trường Sverlov tại Mátxcơva anh bạn đã đụng phải xe ngựa không nào?
- Chứ sao, chứ sao! Và theo nhận xét rất tinh của đồng chí, tôi còn bị một mẻ sợ nữa kia.
- Thế anh tới đây lo việc trang trí nghệ thuật à?
- Không, tôi đi tham quan ạ.
- Đi bộ ư?
- Đi bộ. Các chuyên gia khẳng định rằng đi du lịch trên đường Quân đội Grudia mà dùng xe ô tô là ngốc.
- Không phải bao giờ cũng là ngốc đâu, anh bạn ạ! Như bọn tôi chẳng hạn, bọn tôi chẳng ngốc chút nào. Xe của bọn tôi, anh bạn thấy đấy, xin nhấn mạnh, của tập thể chúng tôi đó, chạy thẳng một mạch Mátxcơva - Tiflis. Tốn rất ít xăng. Vừa tiện lợi vừa nhanh chóng. Êm như ru. Châu Âu mà lại!
- Các anh lấy đâu ra xe mới thế? - Ostap ghen tị hỏi - Trúng số một trăm ngàn à?
- Không trúng một trăm ngàn, nhưng cũng được một nửa số anh bạn nói.
- Đánh bạc được ngần ấy ư?
- Phiếu công trái của câu lạc bộ bọn tôi trúng thưởng đó.
- À - Ostap nói - và các đồng chí lấy tiền ấy mua ba chiếc xe phải không?
- Thì anh bạn thấy đấy!
- Vâng. Này, các đồng chí có cần cố vấn không? Tôi có biết một thanh niên cừ lắm. Không nghiện rượu.
- Cố vấn cái gì?
- Thì... chỉ đạo chung, đưa ra các lời khuyên nhủ, huấn luyện trực tiếp theo phương pháp tổng hợp ấy mà.
- Tôi hiểu rồi. Không, bọn này chả cần.
- Không cần thật à?
- Không. Rất tiếc. Họa sĩ cũng không cần nốt.
- Nếu vậy hãy đưa cho tôi mười rúp.
- Avđôtin - Persitski gọi - cậu làm ơn đưa anh bạn này ba rúp, trừ vào tiền của tớ nhé. Không cần phiếu và chữ ký đâu. Anh bạn này ở ngoài biên chế báo cáo.
- Ít quá - Ostap nói - nhưng tôi cũng xin nhận. Tôi hiểu toàn bộ tình hình khó khăn của các đồng chí. Giá các đồng chí trúng một trăm ngàn, chắc tôi sẽ đòi năm rúp đấy. Nhưng lại chỉ trúng có năm chục ngàn rúp không hào không xu. Bởi vậy xin cám ơn.
Ostap cung kính ngả mũ chào. Persitski cũng lịch sự ngả mũ đáp lại. Ostap lịch sự nghiêng mình. Persitski cũng nghiêng mình lịch sự không kém. Ostap niềm nở phẩy tay. Persitski ngồi bên tay lái cũng vẫy vẫy tay. Nhưng Persitski ra đi trên chiếc xe ô tô bóng lộn, tới những miền xa lạ đầy hấp dẫn, cùng với tốp bạn bè vui vẻ; còn vua mánh thì ở lại giữa đường trong đám bụi mù với một thằng ngốc.
- Ông đã thấy loại xe này bao giờ chưa? - Ostap hỏi Ippolit.
- Xe của công ty công nghệ phẩm Zakapkaz hay là của hãng "Motor" tư nhân ấy nhỉ? - Ippolit hỏi lại ra vẻ thành thạo. Sau mấy ngày đường, ông ta đã biết rõ tất cả các loại phương tiện giao thông - Tôi đã định lại gần để múa cho họ xem.
- Ông bạn đáng thương ơi, ông mụ mẫm quá mất rồi. Xe này của công ty công nghệ phẩm Zakapkaz? Ông nghe đây, Kisa. Bọn họ mới trúng số năm chục ngàn rúp đấy! Ông đã thấy họ vui sướng và thực hiện cơ giới hóa sinh hoạt thế chưa! Bao giờ chúng mình nhận được số tiền của chúng mình, ta sẽ chi tiêu hợp lý hơn nhiều. Đúng thế không ông?
Và hai người bạn rời khỏi Passanaur, vừa đi vừa mơ ước sẽ mua những gì khi trở nên giàu có. Ippolit tưởng tượng sẽ mua ngay đôi bít tất mới và sẽ đi ra ngoại quốc. Mơ ước của Ostap rộng lớn hơn. Dự án của hắn mang tầm cỡ quốc tế: nào xây đập chắn ngang dòng sông Nil, nào xây biệt thự ăn chơi ở Riga và mở sòng bạc ở nhiều nơi khác.
Ngày thứ ba, trước bữa ăn trưa, sau khi đi qua mấy địa danh buồn tẻ và bụi bặm: Anapur, Đuchet và Silkam, hai người đã tới Mekhet là kinh đô cũ của Grudia. Ở đây họ quẹo về phía Tiflis.
Tối hôm đó họ đi qua nhà máy thủy điện Zemo Avechal. Kính, nước và điện nhấp nháy các ánh lửa khác nhau, in bóng lung linh xuống dòng sông Kura chảy xiết. Tại đây họ làm quen với một bác nông dân và được bác cho đi nhờ xe ngựa đến Tiflis vào hồi mười một giờ đêm, đúng vào cái giờ mà sự mát mẻ quyến rũ người dân thủ đô Grudia đổ ra đường sau một ngày oi nồng mệt mỏi.
- Thành phố này khá đây - Ostap nhận xét khi bước ra đại lộ Sot Rustaveli - Ông biết không, Kisa...
Bỗng Ostap ngừng bặt, chạy đuổi theo một người nào đó, sau mười bước đã đuổi kịp và bắt đầu hăng hái nói chuyện với người ấy.
Loáng một cái vua mánh đã quay lại và khẽ thọc ngón tay vào sườn Ippolit.
- Ông biết ai đấy không? - Hắn thì thầm rất nhanh - Đấy là "Xưởng bánh mì Odessa - bánh mì vòng Mátxcơva", ngài Kisliarski. Bây giờ ông hãy sắm vai nhà tư tưởng khổng lồ và người cha của nền dân chủ Nga, dù điều đó quá ư ngược đời. Đừng có quên phồng má và ngọ nguậy ria đấy nhé. Ria ông khá dài rồi đó. Thật là một sự tình cờ thú vị! Nếu bây giờ tôi không lột được của nó năm trăm rúp thì ông cứ nhổ vào mặt tôi! Nào, ta đi! Lẹ lên!
Quả vậy, cách chỗ hai người một quãng chính là Kisliarski mặc bộ đồ tuýtxo, mặt trắng bệch vì sợ hãi.
- Hai vị hình như đã quen biết nhau - Ostap nói nhỏ - Đây là người thân cận của Sa hoàng, nhà tư tưởng khổng lồ, cha đẻ của nền dân chủ Nga. Xin đừng để ý tới bộ quần áo của người. Phải ăn vận như thế để giữ bí mật. Ông Kisliarski hãy chở hai chúng tôi tới một chỗ nào đó. Chúng ta cần nói chuyện với nhau một lát.
Kisliarski đến Kapkaz nghỉ ít ngày sau các sự kiện động trời ở Stargorot, lúc này hết cả hồn vía. Miệng lẩm bẩm phàn nàn mấy câu vớ vẩn về tình hình làm ăn thua lỗ ở xưởng bánh vòng, ông ta gọi một cái xe ngựa choáng lộn đưa hai người quen đáng sợ tới núi Đaviđ. Họ theo đường cáp treo lên trên tiệm ăn đặt ở đỉnh núi. Thành phố Tiflis với hàng ngàn ngọn điện đã tụt hẳn xuống bên dưới. Ba thành viên hội kín dường như có thể với tay tới các vì sao.
Các bàn ăn bày ngay trên cỏ. Dàn nhạc Kavkaz chơi một bài nhè nhẹ, một cô bé đang uốn éo nhảy điệu Lezginka giữa các bàn ăn trước cặp mắt sung sướng của cha mẹ cô.
- Ông hãy gọi vài món ăn đi - Ostap sai bảo.
Vốn sành ăn, Kisliarski gọi món rượu vang, xà lách và phó mát chua của vùng Kavkaz.
- Gọi vài món ăn nữa chứ - Ostap nói - Giá ông Kisliarski thân mến biết tôi và ngài Ippolit đây, đã phải chịu đựng cảnh thiếu thốn như thế nào, hẳn ông sẽ phải kinh ngạc về lòng quả cảm của hai chúng tôi.
Kisliarski nghĩ thầm: "Mình lại bắt đầu khổ sở rồi đây! Tại sao mình không đi Krưm cơ chứ? Mình đã định đi nghỉ ở Krưm kia mà! Và Henrietta cũng khuyên mình đến đó!"
Nhưng ông ta vẫn ngoan ngoãn gọi hai xuất thịt nướng đoạn quay khuôn mặt sẵn sàng phục vụ về phía Ostap.
Vua mánh đưa mắt nhìn xung quanh, thấp giọng:
- Xin nói tóm tắt. Chúng tôi bị theo dõi suốt hai tháng nay, rất có thể ngày mai căn phòng bí mật của chúng tôi sẽ bị phục kích. Đành phải nã súng đánh trả kẻ thù.
Mặt Kisliarski tái xám đi.
- Chúng tôi rất mừng - Ostap tiếp - được gặp một chiến hữu trung thành với Tổ quốc trong giờ phút nghiêm trọng này.
- V... â-âng! - Ippolit hậm hừ trong cổ họng và nhớ lại lúc ông trong phải nhảy điệu Lezginka ở làng Sioni trong lúc bụng đói meo như thế nào.
- Chúng tôi hy vọng với sự giúp đỡ của ông, có thể đập tan kẻ thù - Ostap nói - Tôi sẽ trao cho ông một khẩu Parabenlum.
- Ấy chớ - Kisliarski cương quyết đáp.
Một phút sau mới vỡ lẽ rằng ngài giám đốc sở lao động không có khả năng tham gia trận đánh ngày mai. Ông ta rất lấy làm tiếc, nhưng chả biết làm thế nào khác được. Ông không biết bắn. Chính vì vậy người ta mới cử ông vào chức giám đốc sở lao động. Ông rầu lòng lắm, nhưng để cứu sinh mạng cha đẻ của nền dân chủ Nga (thì chính ông từng theo phái Tháng Mười), ông sẵn sàng đóng góp về mặt tài chính.
- Ông quả là người bạn trung thành của Tổ quốc! - Ostap đắc thắng vừa nói vừa nhấm nháp món thịt nướng thơm phức, ngọt thắm - Năm trăm rúp có thể cứu sống nhà tư tưởng khổng lồ.
Kisliarski hỏi bằng giọng khổ sở:
- Liệu hai trăm rúp có thể cứu sống nhà tư tưởng khổng lồ không ạ?
Ostap không dừng được, bèn dùng chân đá nhẹ vào cẳng Ippolit ở dưới gầm bàn.
Ippolit lên tiếng.
- Ta cho rằng đây không phải là chuyện mặc cả mua bán.
Lập tức Ippolit nhận được một cái dúi khẽ vào sườn, có nghĩa:
"Khá lắm, Kisa, khá lắm, trường học là thế đó!"
Lần đầu tiên trong đời Kisliarski nghe thấy tiếng nói của nhà tư tưởng khổng lồ. Ông ta kinh ngạc vì chuyện đó tới mức trao ngay cho Ostap năm trăm rúp. Sau đó ông trả tiền và để hai người bạn ngồi lại ăn tiếp, ông xin phép cáo lui vì bị đau đầu. Nửa giờ sau ông điện về cho vợ ở Stargorot:
ANH ĐI KRƯM THEO EM KHUYÊN
CHUẨN BỊ SẴN KHĂN GÓI CHO VÀO LẴNG
Sự thiếu thốn lâu ngày mà Ostap Benđer phải chịu đựng đòi được đền bù ngay lập tức. Bởi vậy, cũng đêm đó, vua mánh uống rượu trên núi say đến mức suýt nữa thì lúc ngồi trong toa goòng xuống núi bị ngã ra ngoài. Sáng hôm sau, hắn thực hiện mơ ước từ lâu của hắn: mua một bộ complê màu xám. Mặc bộ này tuy nực, nhưng hắn cứ mặc kệ cho mồ hôi đổ ròng ròng. Ippolit thì mua ở cửa hàng quần áo may sẵn của Hợp tác xã tiêu thụ Tiflis một bộ đồ trắng và chiếc mũ thủy thủ đính huy hiệu màu vàng của một câu lạc bộ thuyền buồm vô danh. Mặc bộ đồ ấy, Ippolit giống như một đô đốc thương thuyền nghiệp dư. Lưng ông thẳng lại. Dáng đi chững chạc hơn.
- Cha cha! - Ostap nói - hết sảy! Giá tôi là cô bán hàng, tôi sẽ giảm giá tám phần trăm cho một trang nam nhi điển trai và dũng cảm như ông. Chao! Chao! Điệu này chúng mình có thể múa được đấy! Ông biết nhảy chứ, Kisa?
- Đồng chí Benđer - Ippolit nghiêm trang - Còn cái ghế kia mà?! Phải hỏi xem nhà hát Kolumbo đâu rồi.
- Ô hô! - Ostap nhảy vòng quanh chiếc ghế trong phòng thuê ở khách sạn "Orient". - Đừng dạy tôi cách sống. Ta đang bực đây. Ta có tiền. Nhưng ta cao thượng lắm. Ta cho ngươi hai chục rúp cùng ba ngày đi cướp phá thành phố! Ta là tướng Xuvôrốp!... Hãy cướp phá thành phố thoải mái, Kisa! Cho ngươi ăn chơi thoải mái đấy!
Và Ostap ngoáy đùi, hát thật nhanh:
Âm thanh đêm trường, âm thanh đêm trường
Gợi bao suy tưởng, gợi nhiều suy tưởng.
Hai người bạn say sưa rượu chè suốt một tuần liền. Bộ đồ trắng của Ippolit và bộ đồ xám của Ostap nhem nhuốc đầy vết rượu táo và các vết bẩn khác. Buổi sáng ngày thứ tám, Ostap tỉnh rượu, nảy ra ý đọc tờ báo "Bình minh phương Đông", hắn nói:
- A, đây rồi, ông bạn rượu Kisa ơi, thử nghe những nhà thông thái viết cái gì ở đây nào. Nghe này!
TIN SÂN KHẤU
Hôm qua, ngày 3 tháng 9, sau khi biểu diễn ở Tiflis, nhà hát Kolumbo Mátxcơva đã lên đường đi Alta. Nhà hát dự định sẽ biểu diễn ở Krưm cho đến đầu mùa đông mới trở về Mátxcơva.
- Thấy chưa, tôi đã bảo anh mà! - Ippolit nói.
- Ông bảo tôi cái đếch gì! - Ostap càu nhàu.
Nhưng hắn cảm thấy bối rối. Hắn khó chịu về sai lầm vừa qua. Đáng lẽ nên kết thúc cuộc săn tìm kho báu ở Tiflis, bây giờ lại phải đi đến bán đảo Krưm. Vua mánh lập tức hành động. Hắn mua vé đi Batum, rồi đặt trước vé hạng hai trên chuyến tàu thủy "Pestel" sẽ khởi hành từ Batum đi Odessa vào hồi 23 giờ ngày 7 tháng 9 theo giờ Mátxcơva.
Đêm ngày 10 rạng ngày 11 tháng chín, khi chiếc tàu "Pestel", không ghé cảng Anapa vì bão biển, quay mũi ra khơi thẳng tiến về Ialta, thì Ippolit nằm mơ.
Ông ta mơ thấy mình mặc bộ đồ đô đốc hải quân đứng trên ban công tòa biệt thự của mình ở Stargorot và biết rằng đám đông ở bên dưới đang chờ ông nói điều gì đây. Một cái cần trục lớn cẩu một con lợn lấm chấm điểm đen đặt vào bên chân ông.
Lão quét sân Tikhôn mặc bộ đồ tử tế chạy lại, tóm lấy hai chân sau của con lợn và nói:
- Ôi, quỷ tha ma bắt chúng nó đi. Hãng "Nimfa" làm sao nó có được loại áo quan như của tôi!
Trong tay Ippolit có một con dao găm. Ông thọc dao vào sườn con lợn. Và từ cái vết thương toang hoác ấy, các viên kim cương lăn cồng cộc ra nền xi măng. Chúng nhảy lóc cóc. Lóc cóc. Tiếng lóc cóc cuối cùng trở nên đáng sợ tới mức không chịu đựng nổi.
Ippolit choàng dậy vì tiếng sóng đập mạnh vào cửa kính của tàu.
Tàu cập bến Ialta trong cảnh sóng yên biển lặng, vào một buổi sáng đầy nắng, uể oải. Vị đô thống đã bớt say sóng đường hoàng đứng ở mũi tàu, cạnh chiếc chuông có đề chữ đúc bay bướm kiểu Slavơ cổ. Thành phố Ialta vui vẻ trưng ra dọc bờ biển từng dãy quán hàng và tiệm ăn nổi. Trên bến tàu có những chiếc xe ngựa chờ khách, xe có đệm nhung, có vải che đầu lịch sự. Ngoài ra có nhiều xe buýt của quốc doanh và hợp tác xã. Các cô gái mảnh dẻ cầm ô hoặc khăn vẫy vẫy chào.
Hai người thuộc loại khách đầu tiên bước xuống bến tàu nóng nực. Trông thấy hai nhân vật của chúng ta, từ trong đám đông những người ra đón hoặc tò mò đứng xem, có một vị mặc bộ đồ tuýtxo vội chuồn về phía cửa ra khỏi cảng. Nhưng đã muộn. Con mắt thợ săn của Ostap đã nhanh chóng nhận ra vị đó.
- Chờ tôi một chút, Kisa nhé! - Ostap dặn.
Và vua mánh lao nhanh tới nỗi đuổi kịp người nọ ở cách lối ra chừng mươi bước. Loáng một cái hắn đã quay lại với một trăm rúp.
- Nó chỉ đưa ngần ấy. Vả lại tôi cũng không làm căng quá. Cũng phải để cho nó đủ tiền đi đường về nhà nữa chứ.
Quả vậy, Kisliarski lập tức đáp ô tô chuồn thẳng đi Sevastopol, rồi từ đó lấy vé hạng ba về thành phố Stargorot.
Suốt ngày hai người bạn ở lỳ trong khách sạn, cởi trần ngồi dưới đất và chốc chốc lại chạy vào trong buồng tắm. Nhưng nước cũng nóng như đun vậy. Trời nóng như thiêu như đốt. Tưởng chừng Ialta sắp tan thành nước và trôi ra biển.
Khoảng tám giờ tối, vừa lẩm bẩm nguyền rủa mọi thứ ghế trên đời, hai thành viên hợp đồng ăn món shtiblet và lên đường tới nhà hát.
Người ta đang diễn vở "Cuộc hôn nhân". Stêpan làm động tác đứng trên hai tay, suýt ngã nhào vì nóng. Agafia Tikhônôpna chạy trên dây, hai tay ướt đẫm cầm chiếc ô có dòng chữ "Em thích Pođkolesin". Lúc này, cũng như suốt cả ngày nay, cô chỉ thích có một thứ thôi, đó là món nước đá. Khán giả cũng khát nước. Bởi vậy, và có lẽ vì vậy mà cảnh Stêpan nhồm nhoàm ăn món trứng tráng bỏng lưỡi khiến mọi người kinh tởm và vở kịch không làm vừa lòng khán giả.
Hai thành viên hợp đồng rất hài lòng vì chiếc ghế của mình vẫn còn đó, bên cạnh ba chiếc ghế mới tinh kiểu roksko.
Lánh vào một lô, hai người bạn kiên nhẫn chờ lúc chấm dứt vở kịch quá dài. Cuối cùng khán giả giải tán, các diễn viên chạy tìm chỗ thoáng mát. Trong rạp chả còn ai, trừ hai nhân vật của chúng ta. Mọi sinh vật đều đã chạy ra đường đón cơn mưa mát rượi vừa ập xuống.
- Kisa, theo tôi - Ostap ra lệnh - Có chuyện gì thì bảo chúng mình là dân tỉnh lẻ tới đây, chưa tìm được lối ra khỏi rạp nhé.
Họ mò lên sân khấu, bật diêm soi (song vẫn vấp phải cái máy ép thủy lực) để khảo sát toàn bộ đồ vật.
Vua mánh theo cầu thang chạy lên chỗ sân khấu giả.
- Lên đây, Kisa! - Hắn gọi.
Ippolit leo lên.
- Thấy chưa? - Ostap bật diêm, hỏi.
Trong bóng tối hiện ra một góc chiếc ghế kiểu Hambx và một phần cái ô có chữ "... thích…".
- Đấy! Tương lai, hiện tại và quá khứ của chúng mình đây rồi. Đốt diêm đi, Kisa. Để tôi móc ruột nó ra.
Và Ostap thò tay vào túi lấy dụng cụ.
- Nào - Hắn giơ tay, giục - bật que khác đi, ngài đô thống.
Ánh lửa lóe lên và lạ thay, chiếc ghế tự nó nhảy sang bên cạnh rồi trước con mắt sửng sốt của hai người, nó tụt đánh hẫng qua bàn.
- Cha mẹ ơi! - Ippolit vừa bay vào tường (mặc dù ông ta không hề cử động chân tay) vừa rú lên.
Kính cửa vỡ loảng xoảng, chiếc ô với dòng chữ "Em thích Pođkolesin" bị bốc cuốn bay qua cửa sổ ra biển. Ostap nằm trên sàn bị mấy tấm ván mỏng đè lên.
Lúc ấy là mười hai giờ bốn mươi phút. Đó là cú giật đầu tiên của vụ động đất mạnh ở Krưm năm 1927.
Cơn động đất mạnh chín độ gây bao thiệt hại ghê gớm cho toàn bán đảo Krưm đã giằng kho báu ra khỏi tay hai kẻ săn tìm.
- Đồng chí Benđer ơi, cái gì thế nhỉ? - Ippolit thất kinh gọi to.
Ostap lúng túng: trận động đất đang cản trở bước tiến của hắn. Đây là trường hợp duy nhất trong thực tiễn hoạt động phong phú của hắn.
- Cái gì thế nhỉ? - Ippolit rú lên.
Từ ngoài đường vọng vào tiếng kêu thét, tiếng rên la và tiếng bước chân chạy rầm rập.
- Chúng mình chuồn ngay ra ngoài đường trong khi chưa bị tường đổ vùi lấp. Lẹ lên! Lẹ lên! Đưa tay đây, đồ ngu!
Và hai người lao ra cửa rạp. Kỳ lạ thay, ngay cạnh lối đi từ sân khấu ra phố, chiếc ghế kiểu Hambx của họ vẫn nguyên vẹn, nằm chỏng trơ ở đấy. Miệng rú lên như chó hú, Ippolit choàng hai tay hai chân quắp chặt lấy nó.
- Đưa tôi cái kìm đi! - Ông ta bảo Ostap.
- Đồ con lừa! - Ostap quát - Trần nhà ụp xuống đầu bây giờ, thế mà nó lại giở chứng điên kia chứ! Chạy ra ngoài kia đã!
- Kìm! Kìm đâu? - Ippolit hét lên như kẻ mất trí.
- Thì mặc xác cho mày chết! Cứ ngồi đấy mà ôm chiếc ghế! Tao quý mạng sống của tao hơn!
Vừa nói, Ostap vừa lao ra ngoài. Ippolit sủa một tiếng, chộp chiếc ghế chạy theo Ostap.
Họ ra tới giữa đường, thì đất chao đảo như đưa vòng dưới chân, ngói trên mái rạp bay xuống tới tấp, và ở chỗ hai người bạn vừa bỏ chạy, các mảnh vỡ của chiếc máy ép thủy lực rơi xuống ình ịch.
- Nào, giờ thì đưa cái ghế đây - Ostap lạnh lùng nói - Tôi thấy ông cầm nó mỏi tay rồi đấy.
- Tôi không đưa! - Ippolit gầm gừ.
- Gì thế này? Nổi loạn trên tàu hả? Đưa đây, nghe chưa?
- Nó là ghế của tôi! - Ippolit quát to, át cả tiếng rên la, than khóc và tiếng gãy vỡ răng rắc vọng lên tứ phía.
- Nếu vậy thì hãy nhận lấy phần thù lao này, đồ chó đẻ!
Và Ostap giơ bàn tay cứng như đồng chặt vào cổ Ippolit.
Đúng lúc ấy, có một chiếc xe ngựa cứu hỏa cầm đuốc chạy qua, và dưới ánh đuốc chập chờn Ippolit nhìn rõ vẻ mặt đáng sợ của Ostap, đành khuất phục và trao chiếc ghế cho hắn.
- Vậy là tốt - Ostap nói, thở hổn hển - cuộc bạo loạn đã bị đập tan. Còn bây giờ thì ông hãy bưng cái ghế đi theo tôi. Ông phải chịu trách nhiệm về sự toàn vẹn của nó. Dù động đất có giật mạnh đến năm chục độ, vẫn phải giữ chặt chiếc ghế! Hiểu chưa?
- Hiểu rồi ạ.
Suốt đêm hai người dò dẫm cùng với các tốp dân chúng kinh hoàng và, cũng như tất cả mọi người, không dám bước vào trong nhà, nơm nớp chờ những cơn động đất mới.
Rạng sáng, khi nỗi kinh sợ đã giảm bớt, Ostap chọn một chỗ gần đó không có bức tường nào có thể đổ sụp hoặc không ai có thể cản trở, và hắn bắt tay vào việc phanh phui ruột cái ghế.
Kết quả khiến cả hai rất đỗi ngạc nhiên. Trong ruột ghế chẳng có gì. Ippolit không chịu nổi mọi sự chấn động hồi đêm, cười lên hí hí như chuột.
Liền sau đó là cơn giật thứ ba, đất nứt ra và nuốt chửng chiếc ghế kiểu Hambx mà cơn giật thứ nhất còn thương tình chưa động đến và đã bị con người phanh phui ruột gan. Những bông hoa của lớp vải bọc còn cố cười mỉm với vầng thái dương vừa ló lên trong đám mây bụi.
Ippolit Matveevich bò lồm cồm bằng cả tứ chi, mặt hướng về phía vầng thái dương đỏ như máu và rú lên. Nghe tiếng rú ấy, vua mánh ngã bổ chửng và ngất đi. Lúc hắn tỉnh lại, hắn nhìn thấy cạnh mình cái cằm lún phún râu màu tím của Ippolit: ông ta nằm ngất xỉu. Ostap nói bằng giọng của một bệnh nhân vừa trải qua đợt ốm thương hàn:
- Rốt cuộc thì bây giờ chúng mình còn xác xuất thành công một trăm phần trăm. Chiếc ghế cuối cùng (nghe tiếng "ghế", Ippolit bừng tỉnh dậy) mất hút ở bãi gửi hàng của nhà ga Oktiabrơ, nhưng hoàn toàn không phải là nó độn thổ. Không sao. Công việc vẫn tiếp tục.
Đâu đó có tiếng gạch đổ ầm ầm. Một hồi còi tàu thủy kéo rền rĩ.
Mười Hai Chiếc Ghế Mười Hai Chiếc Ghế - Ilya Ilf Và E.petrov Mười Hai Chiếc Ghế