There are very few people who are not ashamed of having been in love when they no longer love each other.

Francois

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Lê Khánh Trường
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: hoang viet
Số chương: 40
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1998 / 19
Cập nhật: 2016-03-25 13:03:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3: Tấm Gương Của Kẻ Tội Đồ
au khi rửa tội cho Klavđia Ivanovna hấp hối, vị cha cố đạo của nhà thờ Flor và Lavr, cha Fêđor Vostrikov, bước ra khỏi nhà Ippolit Matveevich trong tâm trạng phấn chấn cực độ và suốt từ đó về nhà mình, cha cứ vừa đi vừa lơ đễnh nhìn tứ phía, miệng thì mỉm cười bẽn lẽn. Sắp tới nhà, sự lơ đễnh của cha lên đến mức suýt nữa cha đâm đầu vào chiếc ô tô Gos No1 của ủy ban hành chính thị trấn. Sau khi thoát khỏi lớp khói màu tím do chiếc xe ghê gớm phụt ra, cha Fêđor rơi vào trạng thái cực kỳ bối rối, và mặc dù cha đã đứng tuổi và có địa vị đáng kính, song đoạn đường còn lại cha vẫn vượt nốt bằng lối chạy nửa nước kiệu.
Vợ của cha, bà Katerina Aleksanđrovna đã dọn bữa ăn. Những ngày không phải làm lễ vào buổi tối, cha Fêđor thích ăn sớm bữa tối. Nhưng bây giờ, sau khi cởi mũ và chiếc áo thụng vải mềm ấm áp, cha vội vàng vọt ngay sang buồng ngủ, và điều khiến bà Katerina ngạc nhiên là cha khóa trái cửa lại và khe khẽ hát bài "Xứng đáng được ăn" ở trong ấy.
Vợ của cha ngồi xuống mép ghế và sợ hãi lẩm bẩm:
- Lại nghĩ ra trò gì mới rồi đây...
Linh hồn hăng hái của cha Fêđor không biết, không bao giờ biết đến sự yên tĩnh. Kể cả hồi cha còn học ở trường dòng lẫn khi cha lớn lên ở chủng viện. Sau khi từ chủng viện chuyển sang học ba năm ở khoa luật trường đại học tổng hợp, năm 1915 cha Fêđor Vostrikov sợ bị động viên vào lính nên quay trở về chủng viện. Cha được phong chức linh mục và được cử về thị trấn N. Và suốt các giai đoạn chạy theo công danh trong giới tu hành và dân sự, cha Fêđor luôn luôn là người mê mải làm giàu.
Cha Fêđor mơ ước có một nhà máy làm nến riêng của mình. Say sưa và luôn bị dằn vặt về những cái máy làm nến, cha đã sáng chế nhiều dự án khác nhau, mà nếu thực hiện chúng, cha sẽ có một số tư bản cố định và lưu động để mua đứt một cái nhà máy ở Xamara đã lọt vào mắt cha từ lâu.
Các tư tưởng lớn của cha Fêđor nảy sinh đột ngột, và cha bắt tay ngay vào việc. Cha Fêđor bắt đầu bằng việc nấu xà phòng giặt, cha nấu hàng mấy chục ký, nhưng xà phòng - mặc dù có hàm lượng mỡ rất cao, vẫn không có bọt, đã thế lại đắt hơn loại xà phòng "búa và cày" những ba lần. Bị xếp xó lâu ở góc nhà, xà phòng nhũn toẹt ra và bốc mùi thối đến mức mỗi lần bà Katerina Aleksanđrovna đi ngang qua, bà đều phải bưng mặt sụt sùi. Ít lâu sau đành hốt đi đổ xuống hố chôn.
Đọc trong một tạp chí chăn nuôi nào đó, nó nói rằng thịt thỏ mềm như thịt gà, rằng thỏ đẻ ra đẻ và nuôi thỏ sẽ đem lại cho người chủ tằn tiện những khoản lời không nhỏ, cha Fêđor lập tức nuôi nữa tá thỏ, và chỉ hai tháng sau con chó Nerka vì sợ bầy sinh vật tai to đầy lông nhung nhúc ngoài sân, đã bỏ nhà đi mất. Dân chúng đáng nguyền rủa ở thị trấn N tỏ ra cực kỳ bảo thủ và họ hoàn toàn nhất trí với nhau (một điều hiếm thấy) không chịu mua thỏ của cha Fêđor. Khi ấy, cha Fêđor sau khi bàn bạc với vợ bèn quyết định tô điểm cho thực đơn của mình những con thỏ mà thịt chúng tươi ngon hơn cả thịt gà tơ. Từ thỏ, người ta làm món thỏ quay, thịt viên rán, cốt-lét, nấu súp và được đưa ra bữa tối thành món thỏ nguội hoặc nóng. Món này chẳng có gì có hại cả. Cha Fêđor tính rằng nếu chuyển sang chế độ hoàn toàn ăn bằng thịt thỏ, thì mỗi tháng cả gia đình ăn không hết quá bốn chục con trong khi mỗi tháng bầy thỏ đẻ thêm chín mươi con, và con số ấy sẽ tăng theo cấp số nhân.
Vợ chồng cha Fêđor bèn quyết định nấu các xuất ăn trưa đem bán. Suốt buổi tối cha Fêđor dùng bút chì hóa học, viết trên những tờ giấy kẻ ô được cắt xén cẩn thận, mấy câu thông báo về việc bán các xuất ăn trưa ngon tuyệt, nấu bằng loại bơ lấy từ sữa bò tươi hảo hạng. Tờ thông báo bắt đầu bằng ba chữ thật to "Rẻ và ngon". Bà Katerina nấu một đĩa hồ đầy, và khuya hôm ấy cha Fêđor đem dán các tờ thông báo lên tất cả các cột điện thoại và các bức tường ở gần trụ sở xô viết.
Ý đồ mới đã đem lại thành công rực rỡ. Ngay hôm đầu tiên đã có bảy người mua, trong đó có Bendin làm ở văn phòng thị đội và Kozlov là trưởng ban tiện nghi của thị trấn (nhờ nỗ lực to lớn của Kozlov, cách đây ít lâu một di tích cổ duy nhất ở thị trấn là cổng vòm chiến thắng dựng từ thời Elizaveta đã được phá bỏ, vì theo lời ông ta, nó cản trở giao thông đường phố). Cả bảy người đều khoái món ăn trưa ấy. Ngày thứ hai khách hàng tăng lên mười bốn người. Người nhà của cha lột da thỏ không kịp. Suốt một tuần lễ công việc làm ăn hết sức phát đạt, khiến cha Fêđor đã tính chuyện khai trương một xưởng thuộc đồ lông bằng phương pháp thủ công, thì xảy ra một sự cố hoàn toàn ngoài dự kiến.
Hợp tác xã "Cày và Búa" nghỉ bán hàng ba tuần lễ nhân dịp kiểm kê, đã mở cửa trở lại, và nhân viên cửa hàng ì ạch lăn một thùng bắp cải thối ra chiếc sân sau, chung với sân sau của cha Fêđor để chôn. Ngửi thấy mùi bắp cải độc đáo, bầy thỏ chen nhau chạy ra hố, và sáng hôm sau thì những con vật gặm nhấm đáng yêu ấy lăn ra chết. Chỉ sau ba giờ đồng hồ, hai trăm bốn mươi con thỏ bố mẹ và bầy con đông không đếm xuể đã chết sạch.
Cha Fêđor điếng người, suốt hai tháng không muốn làm ăn gì cả, và mãi đến bây giờ cha mới được lên giây cót tinh thần, sau khi từ nhà Ippolit Matveevich trở về và đóng cửa buồng ngủ lại, ngồi lì trong đó khiến bà vợ kinh ngạc. Tất cả chứng tỏ rằng cha Fêđor mới nảy ra một tư tưởng lớn xâm chiếm toàn bộ tâm trí của cha.
- Này, bà nó đưa cái kéo cho tôi, nhanh lên nào - cha Fêđor giục.
- Ông không ăn tối hay sao?
- Được rồi, lát nữa.
Cha Fêđor chộp lấy chiếc kéo, lại đóng cửa vào và bước tới chỗ chiếc gương treo lồng khung đen hơi bị xây xát.
Cạnh chiếc gương treo một bức tranh dân gian cổ nhan đề "Tấm gương của kẻ tội đồ" in từ một phiến đồng và được tô màu khéo léo bằng tay. "Tấm gương của kẻ tội đồ" đặc biệt có tác dụng an ủi cha Fêđor sau đợt nuôi thỏ thất bại. Bức tranh dân gian mô tả rõ ràng tính trần tục của mọi thứ dưới trần gian. Phần trên cùng là bốn bức vẽ, với bốn phụ đề bằng chữ Sla-vơ rắm rối đa nghĩa để an ủi lòng người: "Xin cầu nguyện, Kham gieo hạt, Iafet nắm quyền, tử thần làm chủ vạn vật". Tử thần được miêu tả với lưỡi hái và chiếc đồng hồ cát có cánh. Trông thần chết như được lắp từ các bộ phận giả, dùng để chỉnh hình, nó đứng dạng chân trên một quả đồi trơ trụi. Dáng dấp của nó chứng tỏ rõ rệt rằng vụ thỏ chết chỉ là chuyện vặt vãnh.
Lúc này cha Fêđor thấy thích cái hình "Iafet nắm quyền" hơn: một người to béo, giàu có, râu dài ngồi oai vệ trên ngai vàng.
Cha Fêđor mỉm cười, chăm chú ngắm mình trong gương, bắt đầu xén tỉa bộ râu tử tế của mình. Râu rơi lả tả xuống sàn, chiếc kéo kêu tanh tách. Năm phút sau thì cha Fêđor hiểu rằng cha hoàn toàn không biết xén râu. Bộ râu của cha bị lệch sang một bên trông thiếu đứng đắn, thậm chí đáng ngờ là đằng khác.
Loay hoay trước gương một lát nữa, cha Fêđor nổi giận, gọi bà vợ vào, chìa chiếc kéo, nói:
- Bà nó hãy giúp tôi một tay. Tôi không sao giải quyết nổi cái mớ râu này.
Bà Katerina sửng sốt tới mức giấu cả hai tay sau lưng.
- Ông làm gì thế này hở ông? - Cuối cùng bà thốt lên.
- Không làm gì cả. Tôi xén râu đây. Bà hãy giúp tôi. Chỗ này hình như không được cân thì phải...
- Lạy chúa, - bà Katerina chạm vào râu tóc chồng. - Ông ơi, ông định bắt chước bọn cách tân hay sao đấy?
Cha Fêđor thích thú thấy câu chuyện xoay sang hướng mới.
- Tại sao tôi không bắt chước bọn cách tân hở bà? Bọn cách tân không phải là người ư?
- Dĩ nhiên cũng là người, - bà Katerina khổ sở tán thành, - họ cũng ăn cũng mặc...
- Thì tôi cũng sẽ ăn mặc như họ.
- Và cũng nhún nhẩy nữa chứ?
- Và cũng nhún nhẩy.
- Ông còn sức lắm đấy mà chả nhún với nhẩy. Ông thử soi gương xem nào.
Quả vậy, từ trong gương nhìn ra là một bộ mặt xăng xái, với cặp mắt đen, bộ râu lởm chởm và hàng ria dài một cách vô lý.
Hai vợ chồng cha Fêđor cắt xén ria, đưa nó về một tỷ lệ cân đối với râu.
Tiếp đó, bà Katerina càng ngạc nhiên hơn nữa. Cha Fêđor tuyên bố rằng ngay tối hôm nay cha phải lên đường giải quyết một việc và sai bà vợ phải đến gặp ông em trai mượn cái áo bành tô cổ lông cừu và chiếc mũ đít vịt màu nâu trong một tuần.
- Tôi không đi đâu sất! - bà Katerina nói và khóc òa lên.
Cha Fêđor mất đứt nửa giờ đi đi lại lại trong phòng, nói năng lung tung và đe dọa bà vợ bằng bộ mặt vừa đổi khác của mình. Bà Katerina chỉ hiểu nổi một điều: Cha Fêđor bỗng dưng dở chứng, định đội chiếc mũ đít vịt ngớ ngẩn, bỏ bà để đi đâu đó có trời mới biết.
- Sao lại bỏ bà, - cha Fêđor nói - tôi không bỏ bà đâu, một tuần sau tôi sẽ trở về. Mỗi người phải có việc riêng của mình chứ? Phải thế không nào?
- Không phải thế, - bà Katerina trả lời.
Cha Fêđor mặc dù quen nói năng lịch sự với người thân, lần này buộc phải đấm tay xuống bàn. Tuy cha đấm tay cẩn thận và vụng về, vì trước đây không bao giờ làm thế, song bà Katerina cũng phát hoảng, phải vội vã choàng khăn lên đầu chạy đến nhà ông em trai mượn áo mũ cho chồng.
Còn lại một mình, cha Fêđor nghĩ ngợi giây lát, buột miệng: "Đàn bà kể ra cũng vất vả", rồi cha kéo chiếc hòm nhỏ bịt đai sắt dưới gầm giường ra. Những chiếc hòm này ta thường thấy chỉ các chiến sĩ hồng quân mới có. Mặt hòm bọc một lớp giấy bồi, vẽ chân dung Budionui hoặc vẽ cảnh bãi biển Batumi có ba cô gái đẹp nằm hớ hênh trên bãi cát. Chiếc hòm nhỏ của cha Fêđor không làm cha hài lòng vì không vẽ chân dung Budionui hay ba cô gái mỹ nữ ở Batumi. Bà Katerina nhét vào đây tất cả những bức ảnh cắt từ tạp chí "Biên niên sử chiến tranh năm 1914" có cả ảnh "Chiếm lĩnh pháo đài Peremusel" và "Phân phát áo ấm cho hạ sĩ quan ngoài tiền duyên" cùng đủ thứ linh tinh.
Cha Fêđor lôi các cuốn sách đặt trên cùng ra, gom toàn bộ các số tạp chí "Người hành hương Nga" trong năm 1903, cuốn "Lịch sử phân biệt" dày cộm, và cuốn "Người Nga ở Italia" ngoài bìa vẽ ngọn Vezuvi phun lửa. Cha sục tay xuống tận đáy hòm và lôi lên cái mũ trùm đầu cũ kỹ của bà vợ. Nheo mắt vì mùi băng phiến từ chiếc hòm xộc lên, cha Fêđor xé toạc dải đăng-ten buộc mũ và lôi ra một cái túi vải nặng chịch. Trong túi cất giữ hai mươi đồng tiền vàng "mỗi đồng 10 rúp", là tất cả những gì còn lại sau các hành động kinh doanh của cha Fêđor.
Bằng một động tác quen thuộc, cha Fêđor, vén tà áo thụng, đút cái túi tiền vàng, vào bên trong. Sau đó cha bước lại chỗ tủ cơm-mốt, mở hộp đựng kẹo lấy năm chục rúp tiền giấy, gồm những đồng ba rúp và năm rúp. Trong hộp còn lại hai chục rúp nữa.
- Đủ để làm ăn thôi, - cha quyết định.
Mười Hai Chiếc Ghế Mười Hai Chiếc Ghế - Ilya Ilf Và E.petrov Mười Hai Chiếc Ghế