Hãy biến vết thương lòng thành những bài học có ý nghĩa.

Oprah Winfrey

 
 
 
 
 
Tác giả: Kazumi Yumoto
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 13
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2727 / 107
Cập nhật: 2015-08-21 13:28:12 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 6
ố có khỏe không ạ?
Hôm nay, con đi đến chỗ bác sĩ mắt để tìm bà cụ chủ nhà. Trên đường về, con bỗng thấy nhớ bố. Ngày trước, cái lần con và bạn Yuta và mẹ của bạn Yuta đi bách thú, bố đã tới nhà ga để đón con. Bố nắm tay con rồi vừa hút thuốc vừa kể chuyện chú thỏ trên mặt trăng cho con nghe. Có một người bị đói, thế là tất cả các con thú trong rừng đi tìm đồ ăn mang về. Nhưng chú thỏ yếu ớt nên không mang được gì về cả. Nó bèn lao vào ngọn lửa để biến mình thành đồ ăn. Bố bảo: "Chú thỏ sau khi chết được lên cung trăng đấy."
Nghe bố kể chuyện chú thỏ xong, lúc nằm trong chăn con cứ nghĩ mãi. Và con đã khóc một ít. Con không thích câu chuyện buồn đó lắm. Tối hôm qua, con nghĩ, có lẽ bố đang ở trên mặt trăng cùng chú thỏ kia, thế là nước mắt con lại tuôn ra. Ở trên mặt trăng chỉ có bố và chú thỏ, thế thì buồn quá.
Bốơi, nếu ngăn kéo của bà đầy chặt, bà sẽ chết đấy. Vì thế, từ giờ con sẽ không viết thư hàng ngày nữa. Thay vào đó, khi viết, con sẽ viết bằng chữ nhỏ. Con sẽ gọt bút chì thật sắc, và sẽ viết được nhiều.
Thế nhé bố, con chào bố!
Hôm bà cụ đi dự lễ tang, ý nghĩ "bà cụ sắp chết rồi" khiến tôi sợ điếng người, nhưng tôi vẫn viết thư cho bố. Buồn cười là thậm chí tôi còn viết hăng hơn. Ban đầu đó chỉ đơn giản là một trò chơi, chẳng biết từ lúc nào những lá thư ấy đã trở thành một phần không thể thiếu, giống như một thói quen vậy. Rồi một ngày nào đó có thể bà cụ sẽ chết, khi nghĩ như vậy tôi lại thấy việc viết thư dường như càng trở nên cấp bách hơn. Thế là dần dần, trong thư, tôi bắt đầu kể cho bố thêm nhiều chuyện.
Cũng có thể tôi đã vượt qua chuyện bố mất rồi nên không còn cảm thấy cay đắng khi nhớ về bố nữa. Nhưng nói đúng hơn, dường như tôi đang cố tìm câu trả lời cho những điều mình không thể tự tìm hiểu. Ngay cả bây giờ, khi đã trưởng thành, gặp bất kể việc gì không ổn, thì dù có là nhỏ nhặt, như cài lệch cúc áo chẳng hạn, nếu không làm lại từ đầu, tôi sẽ bị ám ảnh bởi cảm giác bất an, từa tựa như vết thương lâu lâu lại há miệng một lần vậy. Về sau, mẹ cố gắng kiếm tìm những điều mới mẻ trong cuộc sống, mẹ tái hôn, thế rồi tôi dần xa rời mẹ, nguyên nhân có lẽ vì bản tính của tôi.
Trong một lá thư gửi bố, tôi đã viết như thế này.
Bố có khỏe không? Móng chân của con rất giống móng chân của bố đấy. Con biết thế là vì ngày trước bố từng nói với con như vậy. Lúc đó con cũng nhìn móng chân của bố và thấy: "Đúng là giống thật!"
Hôm nay, lúc tắm xong, mẹ cắt móng chân cho con, con nhìn móng chân mình và có cảm giác thật lạ bố ạ. Móng chân con còn đây, vậy mà móng chân bố không còn nữa. Móng chân bố không còn nữa, vậy mà trước đây móng chân hai bố con mình lại có hình dáng giống hệt nhau. Trước đây có bố, có mẹ và con. Bây giờ không có bố nữa, chỉ còn mẹ và con thôi, tại sao lại thế? Nhưng nếu cứ nghĩ mãi nghĩ mãi thì đầu con sẽ quay như chong chóng mất.
Lúc cắt móng chân cho con, trán mẹ nhíu lại và mẹ tỏ ra chăm chú. Con đã nghĩ: "Chẳng biết hồi bố cắt móng chân cho mình, mặt bố trông như thế nào?" Nhưng con hoàn toàn không biết. Vì khi đó, bố chỉ toàn cúi xuống. Con thích bố cắt móng chân cho con hơn. Vì bố cắt rất chậm nên con không thấy bị nhột. Thế bố ạ, con chào bố!
Tháng Mười hai đã đi được một nửa chặng đường và kỳ nghỉ đông đang đến. Ngày cuối của học kỳ, tôi chạy từ trường về nhà dưới ánh nắng trong vắt của mùa đông.
Khi chạy lên cầu thang, tôi thấy một cậu con trai lạ hoắc đang đứng trước máy giặt của bác Nishioka. Cậu ta chắc là hơn tuổi tôi, trông cứ như một cây nấm kim châm đeo kính vậy. Lúc tôi bắt gặp, cậu ta đang nhét một đống đồ giặt cao như núi vào máy.
Lập tức, ký ức về "sự kiện cái máy giặt" lần trước ùa về. Chắc chắn là dùng trộm rồi, tôi nghĩ, đoạn rụt rè mở khóa cửa và nhìn chằm chằm.
"Chào!"
Cậu ta lên tiếng. Đó là một giọng nói khàn nhưng rất sáng.
Không đáp lại, tôi cuống cuồng mở cửa rồi vào phòng. Cầm nắm cơm do mẹ làm sẵn, tôi nhòm qua khe cửa. Cậu con trai kia đang rẩy bột giặt vào máy rất thành thạo. Tôi đi ra ngoài, tránh nhìn vào cậu ta, tôi khóa cửa lại rồi chạy ngay xuống cầu thang.
"Bàơi, có thằng nào lạ lắm!"
Khi đeo kính, những con chữ bé tí tẹo trên báo chẳng thể gây khó dễ được cho bà cụ, và bà cụ coi việc đọc kỹ không sót tí gì một tờ báo là thú vui hàng ngày. Hôm đó, bà cụ đang ngồi thu chân trong bàn sưởi, tay mở rộng tờ báo, nghe tôi nói bà nhíu mày, trán hiện lên những nếp nhăn lớn:
"Thằng nào lạ?"
Bên trên chiếc kính vừa trượt xuống, hai mắt bà cụ nhìn tôi chằm chằm.
"Một đứa đeo kính. Nó dùng máy giặt nhà bác Nishioka bà ạ."
"À," bà thốt lên, rồi vừa gập tờ báo lại vừa nói:
"Con bác Nishioka đấy."
"Bác Nishioka có con hở bà?"
"Có chứ."
"Nhưng mà... thường thì nó ở với mẹ."
Bà cụ nhỏm dậy, quỳ gối và xếp lại xấp báo cho ngay ngắn, gây ra những tiếng cộp cộp bên trên bàn sưởi. Chẳng thể hỏi han gì thêm trong bầu không khí này, tôi đành im lặng.
Ăn trưa xong, tôi ra sân phơi đồ, đang cho lũ mèo ăn nốt một ít cá thu khô còn lại từ tối qua, chợt nghe có tiếng bước chân đi xuống cầu thang. Tiếng bước chân tiếp tục đi qua khu vườn rồi vòng tới cửa trước nhà bà cụ, lại là cái cậu ban nãy.
"Bà có nhà không?"
Tôi gật đầu, thế là cậu ta đi về phía khu vườn. Từ chỗ cửa quét rác, cậu ta nói với bà cụ như người lớn:
"Cháu mời bà dùng món này ạ."
Rồi chìa ra cái hộp bên trên có in dòng chữ "Thạch quả sơn trà Nhật Bản."
"Bà cảmơn."
Bà cụ khẽ cúi đầu theo đúng kiểu của người già, rất trang trọng.
"À, con bé kia là Chiaki, hàng xóm của cháu đấy. Nó học lớp Một."
Bà cụ quay về phía tôi, giới thiệu qua loa tên cậu ta là Osamu và đang học lớp bốn. Lớp Bốn mà bé tí tẹo.
"Anh ở đây vào kỳ nghỉ hè, mình là bạn nhé."
Thay cho lời đồng ý, tôi nhìn về phía Osamu, miệng Osamu bụm lại cứ như đang nhịn cười để khỏi lộ mấy cái răng cửa to tướng.
Osamu nói sẽ đi mua đồ để nấu cà ri, thế là tôi quyết định đi cùng. Chúng tôi đi bộ trên con đường mòn chạy dọc bờ sông, vừa đi vừa đá những viên đá cuội nhỏ. Vóc người nhỏ thó, dáng đi còng lưng và cái đầu khẽ gật gà gật gù của Osamu rất giống bác Nishioka.
"Anh làm cà ri ngon phết đấy nhé."
"Gì cơ, anh tự làm được á?"
"Được chứ. Cả bò hầm xốt kem này, trứng rán này..."
Siêu quá, tôi trầm trồ nhưng rồi lại nghĩ, chắc học sinh lớp Bốn ai cũng thế.
"Mẹ anh dạy anh cách nấu ạ?"
"Ừ, nhưng chủ yếu là anh học từ sách với ti vi. Mẹ anh dạy học ở một trường tư thục nên bận lắm."
"Mẹ em ấy, mẹ em làm ở chỗ tổ chức đám cưới. Ngày nào cũng nhìn cô dâu nhé, nhiều lắm!"
"Thật á?"
"Anh thích cô dâu không?"
Osamu suy nghĩ một lát rồi đáp: "Không thích lắm."
"Tại sao?"
"Có gì đó ghê ghê ấy. Vì người họ cứ cứng đờ ra."
Lúc ở siêu thị trong khu mua sắm, Osamu mua đồ với vẻ rất thành thạo, rồi chúng tôi cũng đi bộ về trên con đường dọc bờ sông. Cảm giác ngượng ngùng trước người lạ mặt mọi khi chợt tan biến, tôi huyên thuyên với Osamu đủ thứ chuyện trên đời, nào là chuyện bà cụ, nào là chuyện cô Sasaki quẳng đồ ăn cho lũ mèo hoang... Osamu vừa nghe vừa cười khúc khích, những lúc tôi ngập ngừng không biết nói gì, anh ấy lại hỏi chêm vào những câu gợi chuyện.
"Khi nào xong cà ri em đến ăn nhé!"
Osamu mời tôi lúc ở lối đi của khu căn hộ cho thuê. Tôi muốn nói: "Vâng, em sẽ đến! nhưng lại thôi. Không xin phép mẹ trước mà đã đồng ý là hư, tôi nghĩ.
"Thế tối nay đi nhà thờ nhé!"
"Nhà thờ á"
"Thánh lễ Misa đêm Giáng sinh mà."
Không phải tôi không biết đó là đêm Giáng Sinh. Nhưng khi thấy những người bận đồ ông già Noel đi phát tờ rơi quảng cáo đại hạ giá, tôi đâm ra bối rối. Vì trong lòng tôi, ông già Noel chính là bố.
Bố mất có nghĩa là từ năm nay trở đi sẽ không ăn mừng Giáng sinh nữa, tôi cứ đinh ninh như vậy, nhưng hôm đó mẹ mua về cho tôi một cái bánh kem có dâu tây ở trên. Tôi cắt hai miếng đặt lên đĩa rồi sang gõ cửa căn hộ bên cạnh. Trong phòng, bác Nishioka và anh Osamu ngồi đối diện nhau trước cái bàn gấp be bé đang cùng ăn cà ri.
Bác Nishioka nói cảmơn lúc nhận bánh rồi hỏi tôi:
"Chiaki đã hỏi mẹ chưa? Cháu có được đến nhà thờ không?"
"Mẹ cháu cũng đi cùng được không bác?"
"Dĩ nhiên là được rồi, đi chứ đi chứ."
Osamu nhìn tôi, tay vẫn cầm thìa cà ri và mỉm cười. Cà ri ngon thật là ngon, tôi nghĩ.
"Thế Chiaki về ngủ một chút đi. Sẽ phải thức đến khuya đấy cháu ạ."
Bác Nishioka bảo vậy nhưng tôi nằm thế nào cũng không ngủ được vì trong lòng cứ háo hức mãi về chuyện ra ngoài lúc nửa đêm.
"Mẹơi, vừa nãy nhé, bác Nishioka với anh Osamu ăn cà ri đấy."
"Thế à."
"Trông như cắm trại ấy mẹ ạ."
"Cắm trại á?"
"Vâng, hai người họ im lặng ngồi ăn, mà chỉ ăn mỗi cà ri thôi."
"Chiaki!"
"Dạ?"
"Không được nhìn chằm chằm lúc người khác đang ăn!"
"Vâng, con biết rồi. Mẹơi, thật đấy, trông giống như cắm trại ấy."
"Ừ ừ."
Lúc đó, tôi muốn nói rằng tôi rất thích cảnh anh Osamu và bác Nishioka ngồi ăn nhưng ngoài việc so sánh "giống như cắm trại" ấy tôi chẳng tìm được cách nói nào hay hơn. Tôi mới chỉ được thấy cảnh cắm trại đôi lần trên phim truyền hình mà thôi. Giữa bóng đêm, ngọn lửa liu riu cháy, vài người lặng lẽ ngồi dùng một món ăn nhẹ còn âm ấm, tiếng chim đêm, bầu trời đầy sao sáng... Chợt tôi nhớ ra, khi đó tôi chẳng hề nghe thấy giọng kể chuyện cười từ cát xét của bác Nishioka.
Khuya hôm đó, chúng tôi rời trang viên Cây Dương. Bầu trời đêm quang đãng, những ngôi sao trên cao tỏa sáng lung linh trông như mắt của những loài sinh vật sống. Mẹ mặc cho tôi áo len dày, áo khoác và quàng khăn quanh cổ, đội cả mũ len nữa, trông tôi chẳng khác nào một con thú bông căng phồng sắp bục cả ra.
"Bác Nishioka theo đạo à?"
Nghe mẹ hỏi vậy,bác Nishioka bối rối trả lời. "À không, tôi thì không."
"Thằng bé nhà tôi đã nhận phép rửa tội. Mẹ nó theo đạo."
Nói đoạn bác đặt lòng bàn tay của mình lên đầu Osamu.
"Cả tôi hồi ấy cũng bị đòi phải theo đạo. Trước khi kết hôn ấy. Nhưng chính ra tôi không theo lại hóa hay."
"Sao thế ạ?"
Bác Nishioka hẳn là rất ngạc nhiên khi mẹ thật thà hỏi: "Sao thế ạ?"
"Bởi vì, thì đấy, chẳng phải thế sao? Đạo Thiên Chúa không cho ly... ly hôn mà."
"À..."
"Miệng thì bắt người khác phải trở thành con chiên ngoan đạo, nhưng bản thân thì chẳng mấy chốc đã từ bỏ..."
Bác Nishioka như đang tự nói một mình, bác cười không ra tiếng rồi lại nói nhanh líu như mọi khi: "Thôi, đó là chuyện xưa lắm rồi."
Nhà thờ ở trên đỉnh đồi đối diện khu mua sắm, muốn đến được đó phải đi qua con đường men theo bờ sông tới chỗ trạm cứu hỏa và đoạn đi lên khá dốc. Đứng từ trên đó nhìn lại sẽ thấy rất rõ những quầng sáng đèn nê ông quanh nhà ga hắt xuống dòng sông rộng lớn và đen đặc. Một con tàu điện nhỏ ních đầy người băng qua cây cầu bắc ngang dòng sông. Tôi kéo tay mẹ đang mơ hồ nhìn theo bóng con tàu.
Đó là một khu dân cư sang trọng hơn so với khu chúng tôi đang sống, những tòa nhà sau cánh cổng uy nghiêm đứng im lìm dưới bầu trời đêm. Cây sồi già vươn dài những cánh tay trùm khắp cả khu vườn nhà thờ, nơi nơi như chìm trong bóng tối, những khi cánh cổng gỗ dày mở ra, âm nhạc và ánh sáng ùa tối, cả mẹ và tôi đều há miệng ngỡ ngàng.
Không khí bên trong nhà thờ ấm áp, mọi người đang đứng hát đồng thanh. Anh Osamu nhúng tay vào một thứ trông như cái chậu bằng đá trắng, làm dấu chữ thập trước ngực rồi nhìn tôi hiệu bảo làm theo. Đầu ngón tay tôi chạm vào nước lạnh toát. Osamu cầm tay và chỉ cho tôi cách làm dấu chữ thập.
Căn phòng đầy ắp âm thanh: những khúc hát, tiếng đàn organ, và những lời nói có tiết tấu thanhthản lạ kỳ mà đức cha xướng lên. Với trần nhà cao, nhà thờ chẳng khác gì một chiếc hộp bánh bị lèn chặt tiếng vang. Trong chốc lát, rồi như mụ mị cả người, cứ lặp đi lặp lại các động tác giống mọi người, hết đứng lên lại quỳ gối và ngồi xuống, rồi chẳng biếng từ lúc nào hai mắt đóng dính vào dấu chữ thập ngay trước mặt.
"Ai kia hả anh?"
Tôi thầm hỏi Osamu.
"Đó là Chúa Jesus."
Hơi thở của Osamu có mùi kem đánh răng.
"Sao ông ấy không mặc gì?"
Osamu chỉ khẽ nghiêng đầu.
"Ông ấy chết rồi hả anh?"
"Ừ, cũng gần như vậy."
"Sao lại chết?"
"Để cứu loài người."
Đúng lúc ấy, tiếng đàn organ vang lên và mọi người lại bắt đầu hát. Với vẻ mặt rất mực trang nghiêm, Osamu hát bằng giọng cao nhưng hơi khàn giống như khi nói chuyện. Bác Nishioka nhìn chăm chú vào quyển thánh ca có bia da màu đen, miệng khẽ mấp máy. Tôi ngước lên nhìn mẹ, mắt mẹ ươn ướt như người say.
Tôi thấy thương cái người được gọi là Chúa Jesus, thân hình ông ấy gầy gò và khuôn mặt trông đau khổ làm sao. Bị mọi người nhìn vào trong bộ dạng không mặc gì như thế thì làm sao mà thoải mái cho được. Thế rồi bỗng nhiên, tôi lại nhớ tới câu chuyện về chú thỏ mà bố đã kể. Chú thỏ ấy tình nguyện chết để cứu một vị thần đóng giả làm một người đói khát, còn anh Osamu bảo cái người tên là Chúa Jesus kia đã chết để cứu cả loài người. Phải chăng bất kỳ ai đó chết đi cũng là vì người khác, vì điều gì đó...? Vậy bố tôi chết vì điều gì? Vì một người đói khát ư? Vì loài người ư? Vì mẹ? Hay vì tôi?
Vừa lúc ấy, câu chuyện của đức cha bắt đầu và đột nhiên tôi thấy buồn ngủ. Khi mẹ lạy người đánh thức tôi dậy, trong nhà thờ đã gần như không còn ai. Người phụ nữ chơi organ khi nãy đang thu dọn bản nhạc. Nhà thờ chỉ ít phút trước thôi chẳng khác nào hộp bánh lung linh ánh sáng và dồn chặt âm thanh giờ đây chỉ còn như một một trường bình thường ở bất kỳ đâu.
Không khí bên ngoài lạnh buốt như chọc vào mắt tôi.Ở chỗ cánh cổng còn đang mở, tôi ngoái đầu nhìn lại Chúa Jesus trên cây thập giá một lần nữa.
"Cháu để ta lại đây mà về ư?"
Người đó nói.
"Lần sau cháu lại tới nhé!"
Tôi khẽ lẩm bẩm rồi bước ra ngoài.
*
* *
Có nhiều hôm, bác Nishioka phải đi làm từ sẩm tối nên từ chiều anh Osamu đã đi chợ để nấu cơm sớm. Tôi vẫn thường tha thẩn quanh Osamu, có lúc xách hộ anh vài thứ khi đi chợ, lúc thì giúp anh rửa rau...Tại căn bếp nhỏ trong căn hộ, Osamu bận tạp dề, tay phải cầm muôi, tay trái nhấc lọ xì dầu trong tủ bếp ra, dáng vẻ anh khi đó y hệt vợ của bác Nishioka. Và cũng giống như đống chăn mền lúc vừa ngủ dậy, trông chẳng khác gì một con cá sấu. Dù nhìn thế nào thì hình ảnh anh Osamu luôn tay luôn chân trong căn bếp ấy cũng y hệt "bác gái bên nhà hàng xóm"vậy. Được ở cùng với "bác gái" trong căn bếp đó, tôi thấy thật vui là yên ổn.
Điều này dường như có liên quan tới chuyện tôi không cảm nhận được sự bình yên nơi bóng dáng của mẹ mỗi khi mẹ làm bếp. Tôi biết nếu nói điều này thật bất công với mẹ, người ngày ngày vẫn làm cơm cho tôi ăn, nhưng có lẽ tôi thấy ngạt thở. Trong tôi đầy ấp nỗi lo: liệu mẹ có làm việc quá sức, liệu mẹ có quá vất vả, liệu một lúc nào đó mẹ có giống như bố, sẽ bỏ tôi lại hay không? Tôi học cách sử dụng máy giặt và gấp quần áo, tôi nhận nhiệm vụ đi mua sữa mỗi ngày, tôi cố gắng để trở thành học sinh lớp Một mẫu mực, nhưng dù cố gắng thế nào, mỗi lần nhìn thấy lưng mẹ đứng quay mặt về phía bồn rửa bát, tôi lại sợ hãi nghĩ rằng rồi đây tôi sẽ bị bỏ lại một mình. Hồi tưởng về mẹ khi ấy, tôi có cảm giác mẹ như bị bọc kín trong một nỗi bất an, có lẽ nói vậy là hợp lí hơn cả.
Nhưng Osamu thì khác, anh ấy luôn vui vẻ và không đứng bếp theo cái kiểu ủ dột như mẹ tôi. Một hôm, trên đường đi mua đồ về, tôi nói với Osamu: "Giá mà anh ở đây mãi nhỉ."
"Ừ, hay là thế nhỉ."
Không hề lường trước rằng mình sẽ nhận được một câu trả lời đáng mừng thế và giản đơn đến thế, tôi lấy làm hân hoan.
"Thật nhé, thật nhé!"
"Ừ, dù gì anh cũng nấu ăn ngon hơn bố..."
"Đúng rồi, đúng rồi."
"Đăng nào, sau khi sinh em bé, mẹ anh cũng sẽ vất vả lắm."
"Em bé, mẹ anh sinh em bé ạ?"
"Ừ. Dự kiến là ngày mùng ba Tết đấy."
"Ồ."
"Vì mẹ anh hơi yếu nên giờ vẫn đang nằm viện."
Chắc vì thế mà anh ấy đến đây, tôi hiểu ra.
"Đến Tết, anh có thể đi thăm mẹ."
"Xa lắm!"
"Nhưng để mẹ anh ở một mình như thế, tủi thân lắm."
"Còn có bố nữa."
"Dạ?"
"Bố mới của anh. Không phải bố ở đây đâu."
Tôi thất vọng thốt lên một tiếng "ồ". Trong giây lát, tôi im lặng bước đi, từ từ sắp xếp lại mọi thứ trong đầu.
"Bố mới của anh có ác không?"
"Không đâu," Osamu khẽ lắc đầu. Câu trả lời của Osamu khiến tôi khá yên tâm như thể nó là chuyện của mình; tôi hỏi vậy là do bị ảnh hưởng bởi những bà mẹ kế độc ác trong truyện tranh và truyện cổ tích. Tuy nhiên tôi vẫn thấy có điều gì đó không chắc chắn.
"Anh thích khu nhà đó."
Đột nhiên Osamu nói, đôi mắt hẹp dài cố mở thật to sau cặp kính.
"Bà cụ chủ nhà rất giống bà của anh. Hồi còn nhỏ, anh đã từng đến chỗ bà anh. Nhưng rất lâu rồi anh không gặp bà nữa."
"Tại sao thế ạ?"
Tôi bỗng thấy thật khó có thể tin rằng bà của anh Osamu lại có khuôn mặt đáng sợ như bà cụ chủ nhà này.
"Vì bà anh cũng hay gọi anh là "Osamu". Kiểu như "Osamu, đào hãy còn lạnh đấy" chẳng hạn. Bà anh rất hiền."
Osamu nhìn trân trân vào khoảng đất cách mũi chân chừng ba mét về phía trước, sau đó dùng ngón trỏ gõ cộc cộc vào mấy cái răng cửa to cộ.
"Anh Osamu này. Những người mà anh biết, đã có ai chết chưa?"
"Không có. Sao thế?"
"Không ạ. Không có gì."
Tự nhiên tôi muốn kể cho Osamu nghe về những lá thư tôi viết cho bố, về cái ngăn kéo tủ của bà cụ. Nhưng quanh anh ấy chưa có ai chết cả nên tôi nghĩ cứ giữ bí mật với bà thì hơn. Vừa thấy thất vọng lại vừa nhẹ nhõm, tôi đá chân lên cao, chiếc giày thể thao đã bắt đầu trở nên hơi chật.
*
* *
Bố khỏe không ạ? Hôm nay, anh Osamu bảo: "Anh sẽ hái cho em quả qua lâu." Anh Osamu cố gắng trèo lên cây dương. Nhưng dưới thấp không có cành nào cả nên mãi mà anh ấy không trèo được. Đúng lúc ấy bà cụ hỏi: "Hai đứa đang làm gì thế?" Anh Osamu trả lời: "Cháu muốn hái quả qua lâu nhưng không trèo lên cây được." Bà cụ vào nhà kho lấy cái kéo làm vườn ra cho bọn con. Nó rất nặng và có tay cầm dài ơi là dài. Bà bảo: "Khi thầy bà còn sống, ông ấy đã mua cây kéo này ở cửa hàng cây cảnh." Anh Osamu trèo lên cái thùng muối dưa lật úp. Anh ấy hô một tiếng rồi đưa cây kéo lên. Cánh tay anh Osamu rung rung. Cuối cùng, quả qua lâu bị cắt rơi xuống, và con tóm kịp lấy nó. Anh Osamu nói lớn: "Nice catch!"(4)Con rất vui. Nhưng sau đó, vì cái kéo quá nặng nên anh Osamu bị ngã nhào.
Quả qua lâu rất nhẵn bố ạ. Con tưởng nó mềm giống như cà chua nhưng hóa ra không phải. Con hỏi: "Ăn được không hả bà?" thì bà cụ nói: "Bà không biết, sao cháu không thử đi?" Con định ăn thì anh Osamu bảo: "Chiaki, đừng có ăn!" nên con không ăn nữa. Bà lại bảo: "Nó định ăn thật đấy, cái con bé này," con bực lắm bố ạ.
Con rủ: "Quả qua lâu này thật đẹp, mình mang tới nhà thờ tặng cái người ở trên cây thập giá đi anh đi," Anh Osamu đồng ý: "Ừ, hay đấy." Lúc đó không có ai, nhà thờ hơi đáng sợ bố ạ. Anh Osamu bảo: "Con người sau khi chết sẽ tới xứ sở của các vị thần, Chiaki cũng tới đó. Anh cũng thế." Anh ấy còn bảo, các vị thần là những người chăn cừu, còn con người là những con cừu. Con đã tưởng tượng bố biến thành cừu. Nhưng con chẳng tin chút nào. Con không thích bố cứ tha thẩn trên mặt trăng với thỏ, kể cả cừu cũng thế. Con nghĩ, nếu bố mà biến thành cừu thì làm sao con biết được con cừu nào là bố.
Ông Jesus chỉ có một mình, ông ấy không mặc gì và trông ông ấy có vẻ buồn chán bố ạ. Con đặt quả qua lâu dưới cây thập giá. Rồi con chạy ra ngoài. Ra ngoài xong, con nghĩ, ông Jesus và bố hơi giống nhau. Con thấy ông ấy có khi còn giống bố hơn cả bức ảnh trên bàn thờ nhà mình nữa. Nhưng nghĩ lại thì điều đó thật kì cục làm sao.
Anh Osamu bảo: "Lần sau, chúng mình mang hoa tới nhé!" Con thích ý nghĩ lại được tới đó. Nhưng con thích những quả qua lâu hơn là hoa. Con nghĩ, nếu là bố, chắc bố cũng thích những quả qua lâu hơn. Thế bố nhé, con chào bố!
Mùa Thu Của Cây Dương Mùa Thu Của Cây Dương - Kazumi Yumoto Mùa Thu Của Cây Dương