People sacrifice the present for the future. But life is available only in the present. That is why we should walk in such a way that every step can bring us to the here and the now.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Kazumi Yumoto
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 13
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2727 / 106
Cập nhật: 2015-08-21 13:28:12 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5
ôi bắt đầu đi học lại từ thứ Hai tuần kế tiếp. Lần này, không phải là nỗi lo về việc quên đồ, trộm cắp, cháy nhà nữa, trong tôi xuất hiện một nỗi lo mới: cái cảm giác bất an kia - những lo lắng không yên về việc quên đồ, trộm cắp, cháy nhà... - liệu có quay trở lại? Điều này khiến tôi chẳng mấy hào hứng với việc tới trường, thế nhưng hình như tôi bắt đầu thấy nhớ, dù chỉ là một chút, những va chạm với thế giới bên ngoài.
"Hồi trước ấy, tớ còn tưởng Hoshino không thể nói chuyện cơ."
Một hôm, tôi ngỡ ngàng khi nghe bạn gái ngồi kế bên nói vậy. Chẳng lẽ ngày trước mình hâm đến thế sao, tôi ngỡ ngàng, nhưng cũng phần nào thấy thanh thản vì cô bạn ấy đã nói thẳng với tôi như vậy. Và như thế, trường học dần thay đổi, từ một vùng hỗn độn đầy những lỗ cống dần trở thành một thế giới trong đó ngôn từ thực sự được chia sẻ.
Hằng ngày, sau khi tan học, tôi chạy như bay về trang viên Cây Dương, mang theo lá thư đã viết từ đêm hôm trước tới chỗ bà cụ. Khi tôi đưa cho bà phong thư có ghi "Từ: Chiaki - Tới Bố", bà cụ bèn đứng lên, hừm một tiếng ra chiều khó nhọc rồi nói là chấp nhận, đoạn bỏ thư vào ngăn kéo tủ. Cho rằng chỉ nhắm mắt thôi thì chưa đủ, tôi còn dùng cả hai tay bịt thật chặt mí mắt. Nếu không làm vậy, tôi sẽ chẳng thể nào ngăn bản thân khỏi nhìn vào ngăn kéo. Vì hai con ngươi dưới lớp da mỏng trên mí mắt bị tay tôi ấn quá mạnh, nên giữa bóng tối tôi thấy hiện ra những quần sáng hư ảo màu đỏ và xanh. Cho tới khi đã mở mắt được một lúc, tôi vẫn còn thấy như cả vũ trụ đang trôi nổi bồng bềnh và lượn vòng xung quanh.
Tôi tự hỏi mình đã viết thư trong tâm trạng như thế nào? Ban đầu, tôi viết không phải vì bị thôi thúc bởi một ước muốn rõ ràng là "mong được nói chuyện với bố". Có một điều chắc chắn, là tôi cảm thấy từ tận sâu trong tim, có điều gì đó mách bảo mình nên viết thư, nên làm như thế. Với tôi, việc bố đã mất và việc tôi viết những bức thư gửi bố chẳng có gì liên quan đến nhau. Điều khiến tôi khoái chí hơn cả, đó là khi bà cụ ngỡ ngàng thốt lên: "Ô, cháu mà cũng viết được chữ cơ à?" hay "Cháu đang cố làm cho bà chết sớm đây."
Lá thư đầu tiên của tôi như thế này.
Bố có khỏe không ạ? Con khỏe. Tạm biệt bố.
Ba lá thư đầu, tôi lặp đi lặp lại cùng một nội dung. Đến lá thứ tư, tôi đã viết khác đi, không phải vì nghĩ rằng "viết thế này thì tệ quá" mà bởi vì, tôi thực sự có điều để nói.
Bố có khỏe không ạ? Hôm nay con lên bảy rồi. Mẹ mua cho con một cái bánh ngọt. Hai mẹ con cắt bánh và mang xuống mời bà cụ chủ nhà. Bà gọi bánh ngọt là "kẹo Tây" bố ạ. Mang cả sang cho bác Nishioka và cô Sasaki ở phòng bên cạnh nữa. Bánh rất ngon. Mẹ tặng con quyển "Những cuộc phiêu lưu của cô gà mái Emma". Tạm biệt bố.
Viết tới đó thì mẹ bảo tôi đi ngủ, thế là tôi dán nguyên lá thư ấy lại và từ hôm sau trở đi, tôi chuyển sang viết về những gì đang xảy ra xung quanh mình theo đúng kiểu của một đứa trẻ bảy tuổi. Chúng giống nhật ký hơn là những trang thư. Ngày qua ngày, tôi lại càng viết hăng say. Có thể kể với ai đó về một ngày của mình mà không hề phải bận tâm xem "liệu có làm người đó lo lắng không" hay "liệu có bị mắng không" - cảm giác ấy tuyệt vời đến bất ngờ.
Vào một buổi chiều tháng Mười một, cây dương trút lá trong chớp mắt, còn giàn mướp qua lâu đã có tới năm quả chín đỏ. Ngày ngày, tôi vẫn đến chỗ bà cụ sau khi tan học và cùng bà quét lá rụng. Cái chổi tre cao hơn hẳn thân người tôi, thành thử trông tôi cứ như đang bị nó lắc lư loạn xạ. Nhưng tôi là đứa khá siêng làm. Vì bà bảo: "Lá rụng nhiều thế này, phiền hàng xóm lắm!" Thế là tôi không chỉ quét trong vườn mà còn ra ngoài đường, tới cái nhà có con chó hay sủa hóng, tôi quét sạch cả con đường trong tiếng chó sủa inh tai. Tôi biết, chỉ cần sang ngày mai thôi, tất cả sẽ lại đâu vào đấy, nhưng tôi thực sự say sưa với sự lặp lại này. Tôi cầm chổi rất chặt, khiến da ở chỗ ngón trỏ và ngón cái bị loét ra. Lần nào như vậy, bà cụ đều bôi thật đẫm thuốc vào tay tôi và nói:
"Cháu đúng là oặt oẹo quá đi."
Những lúc ấy, bà cụ hết nhìn chỗ đau lại nhìn cái mặt nhăn nhó của tôi, vừa nhìn vừa cười hô hô ra chiều sung sướng lắm.
Rất lâu về trước, khi người chồng quá cố của bà cụ - ông già râu bạc trên bàn thờ - trồng cây dương non trong khu vườn, khắp vùng này ruộng rẫy còn thưa thớt, đồng cỏ mọc rậm rì. Nghe nói ngoài ngôi nhà giống như một túp lều tạm thì gần như chẳng có rào giậu gì che chắn xung quanh nhà hai vợ chồng bà, trong vùng chỉ có thêm vài hộ nông gia nữa. Khung cảnh ấy cũng từa tựa như vùng đất nơi ông bà đã sinh ra và lớn lên. Thời gian đầu, bà cụ thất vọng lắm: "Khó khăn lắm mới dứt áo ra đi được, vậy mà lại sống ở một nơi như thế này sao?"
"Nhưng thầy của bà rất thích nơi này. Ông ấy hơi buồn khi xung quanh các ngôi nhà bắt đầu mọc lên chen chúc. Mà có khi cứ như ngày xưa lại hay. Ở một nơi toàn đồng cỏ rậm rạp thì chẳng cần phải quét lá rụng làm gì, nhỉ?" Bà cụ nói, cánh mũi nở phập phồng.
Lá rụng được quét vun lại thành đống rồi đốt, cháy rất nỏ. Nếu chỉ lá cây không thôi thì rất khó bắt lửa, bà cụ bèn lấy can dầu trong nhà kho ra và rót vào một cái cốc uống cà phê sứt quai. Sau đó, bà cụ nhúng đầu mấy tờ báo được cuộn tròn vào cốc dầu rồi dùng diêm châm lửa. Bà cụ nâng ống giấy báo đang cháy lên như nâng một bó đuốc, lưng bà cụ còng hơn hẳn mọi khi, khiến trông bà hơi đáng sợ. Chỗ dầu còn lại trong cốc bà cụ rải đều lên khắp đống lá rồi dùng ống giấy báo châm lửa, trong thoáng chốc, cả thân người bà cụ bất động.
Ban đầu, ngọn lửa cháy chậm chạp. Như một con vật hèn nhát chỉ dám ló mắt khỏi hang mà dò xét xung quanh. Nhưng chỉ thoáng sau, trạng thái lập lòe ấy vụt tan biến, ngọn lửa đã trở nên ổn định liền cháy bùng lên, như thể nó đang hô hấp mạnh mẽ. Trước sự bùng cháy bất chợt ấy, tôi không khỏi bàng hoàng, còn bà cụ bắt đầu đi lòng vòng quanh đám lửa, dường như câu thần chú làm bà bất động khi nãy đã được hóa giải.
Tôi ngồi xổm xuống, nín thở nhìn cảnh lá khô và giấy vụn dần biến dạng giữa ngọn lửa như trong cơn hấp hối. Chúng gợi tôi nhớ tới hài cốt của bố mà tôi đã thấy ở khu hỏa táng, nhưng chẳng hiểu sao ngọn lửa của đống lá không khiến tôi thấy bất an. Bởi vậy mà cứ mỗi lần đốt lá khô, từ trong tôi, những ký ức về hài cốt của bố lại bị khơi dậy. Điều đó lặp đi lặp lại hết lần này đến lần khác, cho đến khi hình ảnh tro xương của bố đã dần tách rời hẳn khỏi các ký ức thông thường và trở nên thân thuộc với trái tim tôi như một ý nghĩ thuần túy.
Nếu là vào ngày nghỉ và cô Sasaki có ở nhà, thế nào cô cũng ngửi thấy mùi đốt lá.
"Cháu đi mua khoai nhé!"
Nói xong, cô liền leo ngay lên xe đạp và phóng đi.
*
* *
Chúng tôi nướng khoai theo cách của bà cụ: đầu tiên, bọc khoai bằng một lớp giấy báo ướt, sau đó gói tiếp một lượt giấy bạc rồi từ từ nướng lên, khoai sẽ rất ngon. Buổi chiều đông nhá nhem, ngồi bên đống lửa đốt từ lá khô, mặt mũi thì nóng bừng nhưng cơ thể lại lạnh đờ và tê cứng, giữa lúc ấy mà được ăn khoai nướng nóng hổi thì chẳng có bữa tiệc nào trên đời này sánh bằng.
Ngoài đường, cứ hễ có ai đó tình cờ đi ngang qua, cô Sasaki cũng đều gọi với theo dẫu có là người không quen biết.
"Mời tới đây ăn khoai ạ."
Đám lửa càng lúc càng cháy lớn và chẳng thể ngờ được, đôi khi người được gọi cũng đáp lại lời mời bất ngờ của cô Sasaki. Từ ông cụ dẫn chó đi dạo đến cô gái bán bảo hiểm hay cậu bé đang dắt chiếc xe đạp hỏng với khuôn mặt lem luốc đất lẫn nước mắt. Mọi người không nói gì nhiều với nhau. Thực ra, cũng có thể là vì miệng ai cũng đầy khoai nóng nên không nói được. Nhưng ký ức đó - về những người không quen biết nhau, chưa một lần gặp mặt lại ngồi quây quần quanh đống lửa trong vườn nhà bà cụ và cùng ăn khoai nướng - để lại trong tôi một dư vị khó phai, một bức tranh rất đỗi yên bình.
*
* *
Chuyện xảy ra vào một ngày nọ. Hôm đó, tôi đang chờ bà cụ trong vườn. Liệu có phải bà đi gặp bác sĩ để khám mắt không nhỉ? Tôi đi học về đã được một lúc lâu rồi. Sau đợt gió Bắc đêm qua, cây dương gần như trơ trụi. Vừa quét vun lá rụng tôi vừa nghĩ: "Nếu chẳng còn cái lá nào thì làm sao mà đốt lửa được nữa." Tôi cứ tưởng, giống như khi nhặt sỏi bên bờ sông, hàng ngày ta có quét lá rụng bao nhiêu đi nữa cũng chẳng bao giờ hết, vậy mà việc ấy tới một lúc nào đó cũng sẽ ngừng lại, lần đầu tiên tôi nhận ra điều đó. Nắm chặt cây chổi tre, chẳng hiểu sao tôi thấy lo lắng quá.
Tôi vun lá cây lại thành một đống lớn. Dĩ nhiên tôi hiểu trẻ con không được nhóm lửa một mình nên chỉ ngồi xổm ở đó, yên lặng đợi bà cụ về. Gió đã lặng nhưng hôm nay là một ngày lạnh giá và xám xịt. Đôi chân đang gập lại từ từ mất cảm giác, tôi thấy người lạnh dần và lả đi.
"Này, này..."
Có tiếng gì như tiếng gọi tôi từ phía xa, tôi mở mắt. Không biết tôi cứ ngồi xổm như thế mà ngủ quên mất từ lúc nào. Trên đầu gối để tràn có vết răng cửa hằn xuống, chân tôi tê dại, rân rân như kiến bò. Trời đã sẩm tối.
"Cháu ngủ đấy à?"
Giật mình ngẩng đầu lên, trước mắt tôi hiện ra một cái đầu thỏ khổng lồ. Con thỏ mặc quần bò, giơ tay vẫy vẫy tôi khi ấy đang ngỡ ngàng trong tư thế ngồi xổm.
"Cô Sasaki ạ?"
"Ôi, cháu nhận ra ngay được à."
Cái đầu thỏ được nhấc lên, và rồi cô Sasaki xuất hiện. Tóc cô bông xù lên trong giây lát khi cái đầu thỏ được nhấc ra, tôi đã nghĩ: "Cô Sasaki thật đẹp!"
"Cái này là của công ty cô làm đấy. Người ta nói không cần nữa cho nên..."
Cô Sasaki dúi cái đầu thỏ khổng lồ về phía tôi.
"... cô định cho cháu."
Hai chân tê dại, tôi loạng choạng đứng lên và đội thử cái đầu thỏ vào.
"Chẳng nhìn thấy gì cả cô ạ. Mùi khó chịu quá!"
Quanh tôi mọi thứ hoàn toàn tối đen.
"Chắc không được rồi. Vị trí hai mắt được làm để phù hợp với đầu của người lớn mà."
Cô Sasaki nhấc cái đầu thỏ ra giúp tôi rồi bảo: "Lần sau cô mang về cho cháu cái khác dành cho trẻ con nhé." Dù không có mong muốn hóa thân thành một chú thỏ nhưng tôi vẫn nói cảm ơn cô.
"Bà già đâu rồi?" Thỉnh thoảng, cô Sasaki vẫn gọi bà cụ như thế.
"Bà không có nhà ạ."
"Đi đâu thế không biết?"
"Cháu đoán chắc bà đi gặp bác sĩ mắt."
"Ừm, mắt bà kém à?"
"Chắc là đến để bác sĩ lấy lông quặm cho ạ."
Vì bà già rồi nên lông mi mọc quặp vào trong mắt, nếu không định kỳ nhổ đi, chúng sẽ làm xước nhãn cầu. Tôi giải thích cho cô Sasaki theo những gì tôi nghe được từ bà cụ.
"Đấy là vì lớp da ở mi mắt bị chùng đấy, chắc chắn là thế." Cô Sasaki đặt ngón tay vào thái dương rồi xếch hai mắt lên trông như con cáo, cả hai chúng tôi cùng không nói gì thêm.
Bóng tối đen thẫm, đặc trưng của những ngày ngắn nhất trong năm, bắt đầu buông xuống như mực chảy tràn.
"Muộn thế này rồi..."
Cô Sasaki lẩm bẩm một mình. "Đã mua khoai rồi, thế mà lại..."
Tự nhiên tôi cảm thấy không yên tâm. Từ trước tới giờ, bà cụ chưa lần nào về quá muộn sau khi đi khám bác sĩ, cũng chưa lần nào đi vắng đến tận giờ này. Nhỡ mà... muộn thế này rồi mà bà vẫn chưa về, không chừng...
"Cô Sasaki, cô có kể là lũ mèo, trước khi chết chúng sẽ bỏ đi đâu đó phải không ạ?"
"Ừ."
"Nếu không đi tìm bà thì..."
"Cháu nói gì cơ?"
"Bà bảo bà sẽ chết, khi nào cái ngăn kéo ấy đầy."
"Ngăn kéo? Chuyện gì thế?"
Sao tôi lại vô tâm thế nhỉ? Ngày ngày, tôi vẫn mang thư đến đưa cho bà cụ mà không hề nghĩ rằng cái ngày ngăn kéo đầy ắp sẽ đến nhanh như vậy.
"Cháu làm sao đấy, nói rõ ra xem nào."
Hình như người ở trên tầng cũng nghe thấy tiếng cô Sasaki, cửa sổ chính giữa ba căn hộ lạch cạch mở. Có tiếng cười vọng ra, có lẽ là từ chương trình hài đang chiếu trên truyền hình, lúc này tôi đã thấy tỉnh táo hơn đôi chút.
"Có chuyện gì thế?"
Bác Nishioka với cái áo khoác ngắn xộc xệch do mặc vội nhô người ra khỏi cửa sổ.
"Con bé này, nó đang lo là bà già không về."
"Vì việc của bà già mà tôi cũng đang nóng ruột như lửa đốt đấy," cô Sasaki nói càng khiến tôi sốt ruột.
"Chắc là bà chết rồi."
Ánh sáng từ căn phòng chỉ hắt ra được đến lưng nên tôi không nhìn thấy mặt bác Nishioka, nhưng dường như khi nghe tôi nói vậy, bác tỏ ra khá bàng hoàng. Có tiếng bước chân đi xuống cầu thang, lát sau bác Nishioka xuất hiện, tay vén lớp tóc dài phía bên trái sang để che bên tóc thưa hơn, bác đi ra vườn.
"Chiaki, sao cháu lại nghĩ là bà cụ chết rồi?"
Bác hỏi tôi, vẫn với lối nói nhanh líu cả lại như mọi khi. Dẫu không muốn kể về những lá thư, trong lòng tôi không khỏi cảm thấy mặc cảm tội lỗi vì đãnhờ bà cụ giữ hộ nhiều thư như vậy. Tôi chỉ nói được rằng: "Vì mãi bà vẫn chưa về." Chính trong khoảnh khắc ấy,ý nghĩ "Mình thành kẻ nói dối rồi!" chợt xuất hiện và bất ngờ, nước mắt tôi rơi lã chã.
Hiệu quả của nước mắt thật đáng kể, bác Nishioka bối rối dỗ tôi khi ấy đang nước mắt ngắn nước mắt dài, rồi bác giậm chân loạn cả lên. Cô Sasaki thở dài, chụp lên đầu tôi cái đầu con thỏ.
"Dù sao thì, dù sao thì ta cũng phải đi tìm bà cụ chứ. Những... những... những việc như thế này, người ta vẫn bảo là bọn trẻ con thường đoán đúng."
Bên trong cái đầu thỏ vừa tối vừa bốc mùi khó chịu, tôi rùng mình sợ hãi khi nghe câu nói run run của bác Nishioka. Thậtư? Trẻ con thường đoán đúng ư?
"Không thì, nhỡ đâu bà cụ quên mất đường về nhà, việc đó cũng..."
"Bác đùa à?" cô Sasaki hình như định nói tiếp gì đó, "Bà già ấy... thì..."
"Sao mà biết được. Chẳng ai nói trước được gì. Cũng có thể tự nhiên bà cụ đâm ra lẩn thẩn."
"Hừm."
"Dù sao thì, cũng nên đi tìm..."
"Tìm, nhưng tìm ở đâu cơ chứ?"
Sau một hồi vật lộn cố gỡ cái đầu thỏ, tôi ngồi phệt ra đất.
"Ta đến chỗ bác sĩ mắt đi."
Tôi nói với cô Sasaki, người cuối cùng đã giải thoát cho tôi khỏi thứ của nợ ấy.
"Vậy, tôi sẽ đi về phía nhà ga..."
Vẫn mặc áo khoác ngắn, bác Nishioka dợm bước đi.
Đã hết giờ khám bệnh của bác sĩ, chúng tôi nhấn chuông thế nào cũng không thấy ai ra. Vừa đi trên con đường tối thẫm, tôi vừa để ý nhìn xung quanh, hay là bà cụ bị ngã ở đâu rồi nhỉ.
"Không sao đâu. Chắc là bà cụ đã về nhà rồi."
Cô Sasaki miệng hút thuốc, lững thững bước. Chợt tôi hít hà hít hà.
"Mùi gì thơm thế cô nhỉ?"
Cô Sasaki cũng dừng lại một lát ngửi ngửi: "Chắc quanh đây có ai đang nấu cà ri."
Phải rồi, bầu không khí trong lành của một đêm đầu đông, món cà ri từ nhà ai đó và làn khói thuốc lá. Mình biết sự kết hợp này, tôi nghĩ. Mình từng trải nghiệm cảm giác này rồi. Lần đó hai bố con tôi đi dạo trên con đường đêm, cũng có mùi cà ri, và bố cũng đang hút thuốc. Chợt nhớ tới vầng trăng đã thấy dạo đó, một vầng trăng vằng vặc tròn đầy, tôi nhìn lên bầu trời:
"Trăng!" tôi reo lên.
"Ừ, trăng rằm đấy!" cô Sasaki trả lời, chậm rãi nhả ra một làn khói trắng.
"Cô nghĩ là bà sẽ về thật chứ?"
Khi tôi hỏi lại lần nữa, cô Sasaki không nói gì, chỉ cầm lấy tay tôi và nắm thật chặt.
Lúc chúng tôi về đến trang viên Cây Dương, mẹ đang sốt ruột đứng đợi ở cổng. Thấy tôi và cô Sasaki đi cùng nhau, mẹ có vẻ hơi ngạc nhiên.
"Mẹơi, bà đâu? Bà vẫn chưa về à?"
"Chưa. Có chuyện gì à?"
Tôi đang ủ rũ nên cô Sasaki bèn thay tôi kể đầu đuôi câu chuyện cho mẹ nghe.
"Tôi cũng chẳng ra sao cả. Ai lại đi bảo về con bé rằng, lũ mèo trước khi chết sẽ bỏ đi tìm nơi chết, vì vậy mà con bé mới lo lắng..."
Mẹ âu lo nhìn tôi, nhưng rồi ngay sau đó mẹ nói.
"Không đâu, cũng hơn bảy giờ rồi, con bé lo cũng đúng thôi."
Mẹ vỗ nhẹ vào lưng tôi khi ấy đang ủ rũ.
"Những lần trước, như cái lần đi du lịch suối nước nóng cùng hội người cao tuổi ấy, bà cụ còn báo với tôi một tiếng rồi mới đi cơ mà."
Cô Sasaki cũng bắt đầu thấy rốt ruột, có lẽ vì nghe mẹ nói là cũng đã hơn bảy giờ rồi. Cô liếc sang nhìn ra phía con đường chạy dọc bờ song.
"Họ hàng của bà thì sao?" mẹ hỏi.
Cô Sasaki nghiêng đầu như muốn nói, tôi không biết. "Hình như hai vợ chồng họ không có con cái gì thì phải. Có lần tôi nghe thấy bảo bà cụ là vợ hai."
Ba người chúng tôi thở ra toàn khói trắng, cứ thế đứng ngây ra ở cổng, đang lo lắng không biết đã có chuyện gì xảy ra, đúng lúc ấy, bác Nishioka trở về.
"Không được, không được rồi."
Bác Nishioka khoát tay rất rộng, như thể vừa đảm nhận một nhiệm vụ trọng đại vô cùng.
"Tôi đứng đợi ở cửa soát vế một lúc, nhưng nghĩ làm vậy chẳng ích gì nên mới hỏi nhân viên nhà ga xem có thấy bà cụ, xong tôi đi lòng vòng quanh khu mua sắm rồi ghé vào đồn cảnh sát..."
Đến lúc này, bác Nishioka mới nhận ra mẹ tôi: "A, chào cô!" bác nói bằng giọng trầm nhất có thể rồi cúi đầu.
"Ở đồn cảnh sát, đã có chuyện gì xảy ra sao?"
Bị cô Sasaki hỏi dồn, hàng mi của bác Nishioka cứ giật giật liên hồi. Bác càng nói nhanh hơn mọi khi.
"Không, không, tôi chỉ tới hỏi thôi."
"Rồi sau đó?"
"Sau đó hả, chắc chắn là chưa thể yêu cầu mở cuộc điều tra tìm người được rồi... Nhưng tôi không nghe thấy cảnh sát nói gì về việc một bà cụ như thế..."
Đúng lúc ấy, từ con đường chạy dọc bờ sông, một bóng đen chầm chậm tiến lại.
"Bà ạ?"
Dưới ánh trăng mờ tỏ, bong bà thấp thoáng hiện ra.
"Ô kìa, mọi người tập trung cả ở đây à..."
Tiếng bà vang đến chỗ chúng tôi. Hơi bối rối, tôi đứng như trời trồng.
Bà cụ bận đồ tang kiểu truyền thống. Thường bà cụ không mặc kimino nên hiếm khi trông thấy bà cụ trong bộ dạng này, nhưng chi tiết khiến tôi chúý nhất lại chính là khuôn mặt bà cụ. Hồi trước, khi lần đầu tiên gặp bà, tôi đã ngờ rằng khuôn mặt bà trông giống hệt nhân vật Popeye độc ác là vì bà đã uống phải một loại thuốc quái gở nào đó, và lúc này đây, tôi hoàn toàn tin đó là sự thật.
Cái mặt gãy của bà cụ trông như dài hơn. Nếu nhìn kỹ sẽ thấy, trên khuôn mặt chảy dài đó, hai má ở nửa dưới mặt phồng lên, các nếp nhăn cũng căng ra, có thể thấy rõ là bà cụ trông trẻ hơn. (Thôi đúng rồi, ra là bà uống thuốc cải lão hoàn đồng...) Nhưng cảm giác về sự hoạt bát thường ngày, gần như là cái vẻ gian gian, không còn nữa. Đến cả giọng nói của bà cụ cũng khang khác, nghe cứ khàn khàn làm sao ấy.
"Ôi, tôi mệt quá. Đi thăm viếng tang ma làm gì. A, chờ chút, cái này..."
Bà cụ mở túi xách màu đen và lấy ra một chiếc chìa khóa rồi chĩa về phía tôi. Tôi run run lại gần, cầm lấy chiếc chìa khóa. Mắt tôi cứ dán vào mặt bà cụ.
"Cháu thẫn thờ nhìn cái gì đấy? Mở cửa cho bà đi chứ!"
Bà vừa dứt lời, tôi liền hét lên.
"Bà... bà mọc răng!"
Bà cụ im lặng, có vẻ không được thoải mái cho lắm. Rồi bà cụ chậm rãi nói:
"Đấy là thứ để đeo vào miệng, dùng để diện khi ra ngoài."
Nói đoạn bà cụ ngậm chặt miệng lại, lỗ mũi nở rộng ra hết cỡ.
Mình nhìn rõ hai cái hàm răng trắng đều ấy, bị cuốn vào suy nghĩ đó, tôi quên cả chớp mắt, đúng lúc ấy, một tiếng huýt lạ vang lên.
Cô Sasaki đưa hai tay lên che mắt, nhìn như vẻ đau khổ. Mẹ đứng đối diện cũng cúi xuống, hai vai run lên. Tôi tự hỏi không biết có phải hai người họ đang khóc không. Nhưng kỳ thực cả hai đang cười. Có điều gì đáng buồn cười thế nhỉ, tôi không hiểu gì nên quay sang nhìn bác Nishioka, đôi mắt bé tẹo của bác hấp háy liên hồi còn lông mày thì nhướng lên. Bà cụ vào nhà rồi đóng cửa đánh rầm một cái.
Sau bữa cơm chiều, mấy người lớn dắt tôi xuống thăm và xin lỗi bà cụ. Nhưng tôi chẳng hiểu gì cả, tại sao bà cụ lại khó chịu đến vậy. Điều duy nhất tôi biết chỉ là: "Ồ, hóa ra đó là răng giả." Dù sao tôi cũng thở phào nhẹ nhõm vì bà cụ đã về nhà bình yên vô sự. Nhưng rõ ràng là không có răng giả trông mặt bà dễ coi hơn, tôi nghĩ. Và rồi tôi hậm hực, cảm thấy trong việc này hình như mọi người không công bằng với mình, sau đấy vì mệt quá nên tối đó, thật hiếm hoi, tôi ngủ mà không mơ mộng gì.
Mùa Thu Của Cây Dương Mùa Thu Của Cây Dương - Kazumi Yumoto Mùa Thu Của Cây Dương