The longer you wait for something, the more you appreciate it when you get it, because anything worth having is definitely something worth waiting.

Unknown

 
 
 
 
 
Tác giả: Kazumi Yumoto
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 13
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2727 / 106
Cập nhật: 2015-08-21 13:28:12 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3
hưng tôi càng cố gắng bao nhiêu, cơ thể tôi càng không nghe lời bấy nhiêu. Nhiệt độ chẳng cao hẳn, cứ lên lên xuống xuống, mẹ vì tôi mà phải nghỉ làm cả tuần liền. Trong khoảng thời gian ấy, tôi mơ thấy mình bị lỗ cống biết đi đuổi theo, cứ mỗi lần tỉnh giấc tôi lại chúi cái đầu ong ong nặng trịch cơn buồn ngủ vào tủ quần áo để thay đồ đến trường. Tôi thay đồ, bất kể lúc đó là nửa đêm. Cặp sách và túi sách tay vẫn như mọi khi, chắc chắn có tất cả sách giáo khoa và vở tập. Bút chì đã gọt. Tẩy, có. Quần áo thể thao, có. Túi đựng bữa trưa, có. Kèn harmonica, có. Bút chì màu, có...
Cuối cùng, bác sĩ đưa ra một thông báo đáng sợ: "Chị nên cho cháu nhập viện một thời gian." Nhập viện, vừa nghe hai tiếng ấy tôi đã lắc đầu nguầy nguậy. Hơn nữa, tôi chẳng thích bị đưa vào một nơi lạ hoắc chút nào.
"Chiaki, nhập viện rồi con sẽ khỏe lại và đi học được."
Mẹ thuyết phục tôi, vẻ mặt vô cùng khổ tâm.
"Mẹ nói dối."
"Mẹ không dối con đâu."
"Không cần nhập viện cũng được mà. Từ mai con sẽ đến trường."
Thà con đi học còn hơn nhập việc, tôi khăng khăng bướng bỉnh. Nếu không chịu đến bệnh viện thì ở nhà sẽ tốt hơn, nhưng nếu nghỉ thêm nữa mẹ sẽ mất công việc mà khó khăn lắm mới kiếm được. Đúng lúc ấy, bà cụ chủ nhà lên tiếng.
"Tôi là chủ nhà, sự thể ra nông nỗi này tôi cũng phải có trách nhiệm. Tôi sẽ để mắt tới Chiaki khi cô đi làm."
Bà cụ cho rằng tình trạng căng thẳng của tôi có liên quan đến vụ người lạ dùng lén máy giặt, bà cụ thấy mình phải chịu phần nào trách nhiệm. Cổng ngoài của trang viên Cây Dương lúc nào cũng mở, bà nói đáng ra không được để như vậy.
"Sáng nào mẹ đi vắng, Chiaki xuống chỗ bà nhé. Bà sẽ trải chăn sẵn cho Chiaki."
Tôi không khỏi bàng hoàng trước những lời mẹ nói. Mẹ bảo tôi sẽ ngủ trong căn phòng chỉ mở mỗi một cánh cửa chớp, toàn sách cũ và dán đầy những lá bùa bí ẩn ấy ư? Với lại lúc đầu bà cụ chẳng bảo "cấm trẻ con" đấy thôi, vậy có nghĩa bà cụ không thích bọn con nít. Vậy có khác nào tôi bị tống vào hang ổ của ma nữ độc ác?
"Bà không lên nhà mình được hả mẹ?"
"Dạo này đầu gối bà yếu rồi, lên xuống cầu thang khó lắm. Nếu có bà bên cạnh con mẹ cũng đỡ lo..."
Mẹ khẽ cười rồi chọc nhẹ ngón trỏ vào má tôi.
"Chỉ buổi trưa thôi."
"Con ở nhà một mình được mà mẹ..."
"Mẹ xong việc rồi ta cùng về nhà. Thôi nào, đừng cứng đầu thế."
Tôi buộc lòng phải nghe theo. Vả lại nếu không tới đó, thế nào bà cụ cũng tự ái cho mà xem...
Thế là từ hôm sau, tôi "đi làm" cùng mẹ.
Bà trải chăn cho tôi tại một phòng kiểu như phòng ở, thông theo hướng Bắc-Nam với phòng bếp bằng gỗ và nằm ở góc trong cùng từ sảnh vào. "Kiểu như phòng ở", gọi như vậy nghe cũng hơi lạ. Nhưng, trong căn phòng đó, bà cụ thường xem tivi, uống trà, đọc báo hay ngồi bên bàn sưởi, thành ra nó cũng chẳng khác gì phòng ở cả. Song, như những gì tôi nhìn thấy khi lần đầu ngó vào từ ngoài hành lang thông với sảnh ngoài: nào là giá sách cố định trên tường chặt cứng sách cũ cao ngất đến trần nhà, rồi con rồng trang trí làm từ đá màu lục, cả những bức phướn với các con chữ hình thù kỳ dị trông như mớ tóc rụng của những linh hồn... thì căn phòng này quá bất thường để có thể gọi là phòng ở. Ngay cạnh cửa quét rác(3) là một cái tủ đen thui với các tay cầm màu vàng kim, chăn nệm được trải khít ngay cạnh cái tủ nặng nề ấy. Khi nằm xuống nệm và quay về phía đối diện cái tủ, tôi nhìn thấy ảnh một ông cụ đặt trên bàn thờ, bức ảnh cũ kỹ đã bị thời gian làm hư hại nhiều. Với chòm râu bạc phơ mọc dài che kín tới tận ngực và trên đầu không một cọng tóc, khuôn mặt ông hơi có vẻ nhút nhát nhưng điều đó không khiến ông trở nên bớt đáng sợ đối với tôi. Thật may là bà cụ đã mở hết các cánh cửa chớp ra, không biết là vì tôi hay chỉ đơn giản là do tiết trời thay đổi.
Mỗi sáng tôi dùng lược chải mái tóc hỉ nhi và mặc bộ đồ ngủ có họa tiết dâu tây đẹp mắt, bên ngoài choàng một áo khoác không cổ đan bằng len xanh sợi to rồi tới chỗ bà cụ. "Cháu chào bà," nói rồi tôi chui vào tấm chăn bông nặng trịch mà bà cụ đã trải cho từ trước. Hai, ba hôm đầu tôi ngủ không yên. Còn bà cụ, chẳng biết vì nghĩ tôi đang ngủ hay vì không quan tâm mà ngoài những câu như "Đến giờ uống thuốc rồi," hay "Cặp nhiệt độ đi!" thì không nói gì với tôi nữa. Thế nên tôi chỉ nằm chong mắt lắng nghe tiếng tích tắc tích tắc phát ra từ chiếc đồng hồ treo tường.
Nhưng ngủ mãi cũng không được.
Buổi trưa, tôi ăn hai nắm cơm mẹ làm cho. Còn thực đơn của bà cụ bao giờ cũng vậy: ruốc tảo ăn với cơm nguội, kèm theo đó là món tủ - canh tương nấu củ cải. Bà cụ nấu cả phần tôi, nhưng vì ở nhà mẹ chưa nấu canh tương củ cải bao giờ, hơn nữa củ cải ninh đến nát bét cộng thêm nước canh mặn đắng làm tôi quả thật khó nuốn. Tôi nghĩ thầm, chỉ có bà cụ mới nấu được món như thế này.
Không chừa lại một giọt nước, bà cụ lúc nào cũng húp sạch canh tương, không hề để ý là tôi đang ngắc ngứ. Rồi bà cần thận dùng đũa gắp những lá cải còn sót lại trong bát canh đã uống và đưa lên miệng. Với cái miệng chỉ còn mỗi ba chiếc răng hàm dưới, bà cụ chén đủ mọi thứ, từ dưa muối cho đến bánh khô souka. Chẳng hiểu thế nào mà tôi lại cứ muốn nhìn bà cụ ăn, tới khi gần như bị hớp hồn bởi cái miệng bà cụ đang há to hết như cái hang, bà cụ sẽ trừng mắt lên nhìn tôi và nói:
"Này, cháu không ăn đi à?"
Tôi bèn vội vàng và lấy và để những gì còn trong bát. Nếu bà cụ nói với mẹ là tôi lười ăn thì còn lâu tôi mới thoát khỏi cảnh khổ này.
Kinh khủng hơn, bà cụ còn bắt tôi uống thuốc sắc. Đó là thứ thuốc mà bà cụ uống mỗi ngày nhằm giúp lưu thông khí huyết, vị thuốc rất kỳ dị, chẳng biết là ngọt, đắng hay chua nữa. Lần đầu uống thứ thuốc ấy, tôi hiểu ra ngay mùi kỳ lạ trong nhà bà là từ đâu mà có.
"Nếu cháu muốn khỏe mạnh thì phải chịu khó uống đi. Dần dần rồi sẽ quen."
Mắt ngân ngấn nước, tôi cố kìm không khóc, mắt chăm chăm nhìn vào họa tiết hoa mơ vẽ trên chén trà đựng thuốc và nuốt từng ngụm. Lúc ấy tôi tự hỏi, không biết liệu khi về già như bà cụ, mình có quen được với cái vị kinh khủng này không?
Theo đúng nghĩa đen, tôi lặng lẽ tiêu hóa nhiều ngày thuốc sắc, canh tương củ cải và cả cái chăn bông nặng trịch. Tôi không biết nên nói gì, và lại nếu nói mà chẳng ra đâu vào đâu thì thà im lặng còn hơn, tôi đã nghĩ theo hướng tiêu cực như thế. Còn bà thì thế nào nhỉ? Chắc hẳn bà cụ nghĩ, bọn trẻ con đúng là vô tích sự.
Tôi vẫn nhớ như in cái ngày đầu tiên tôi và bà cụ thực sự trò chuyện với nhau.
"Bà tới bác sĩ khám mắt nhé. Sẽ về ngay thôi."
Đó là lần đầu tiên bà cụ đi vắng kể từ khi tôi đều đặn xuống tầng một. Mặc dù những lúc chỉ có hai bà cháu tôi chẳng thấy thoải mái chút nào, nhưng nghĩ đến việc sẽ bị bỏ lại một mình, trong một khắc tôi bỗng muốn nói: "Bà như thế là không giữ lời hứa!" Song cái cách bà cụ điềm nhiên thông báo về việc đến bác sĩ khiến tôi chẳng thể làm gì khác hơn là im lặng gật đầu. Thế đấy, đến bà cụ cũng có việc để làm, có lẽ cả quả đất này chỉ mình tôi hết ngủ rồi lại dậy, cùng lắm là đọc sách cho qua ngày... Thấy buồn buồn trong lòng, tôi lặng lẽ nghe tiếng bà cụ đi về phòng, thay đồ và kiểm tra lại van đường ống gas.
Bà cụ đi vào trong cơn mưa phùn. Một lát sau, mưa đổ sầm sập và xung quanh dần trở nên tối sầm. Bà cụ bảo sẽ về ngay, nhưng "ngay" là bao giờ? Càng để ý thời gian, trong đầu tôi bắt đầu lởn vởn toàn tiếng tích tắc của đồng hồ treo tường. Khi mắt chòng chọc liếc sang cái đồng hồ, thì từ chỗ cái máng vỡ, tiếng nước mưa chảy tong tỏng xuống nền đất cứ đập vào tai khiến tôi thấy khó chịu vô cùng. Thấy như người nóng dần lên, tôi trở mình nhiều bận. Vừa trở mình tôi vừa lim dim phân vân, không biết nên nhắm chặt mắt lại để khỏi thấy những gáy sách ngả vàng vì nắng, tấm ảnh ông cụ trên bàn thờ, những bức phướn vàng vọt và cái nanh nhe ra của con rồng trang trí... hay nên căng mắt cẩn trọng dõi theo chúng.
Thế rồi, có lẽ tôi đã ngủ thiếp đi. Đến khi mở mắt ra, trong thoáng chốc, tôi choáng ngợp bởi ánh sáng, sáng đến mức tôi ngỡ như khắp nơi đang tỏa ra sách vàng. Đồng hồ đã chỉ quá trưa. Vậy là bà cụ đi vắng được chừng hai tiếng rồi. Thế mà bà cụ bảo sẽ về ngay cơ đấy. Mà mình đâu có đợi bà về, tôi nghĩ.
Thời tiết thay đổi đến bất ngờ, không thể tin nổi chỉ vừa mới đây thôi trời hãy còn sầm sì. Tôi chui ra khỏi đống chăn đệm, mở cửa kéo trông ra vườn.
Đó là lần đầu tiên trong đời tôi hiểu thế nào là tươi mới. Tôi hít căng lồng ngực làn khí thu se lạnh sau cơn mưa. Rồi tôi phát hiện ra nguyên do vì sao khắp xung quanh như thể sáng bừng và rực rỡ ánh kim, chính là vì cây dương giữa vườn.
Trong thoáng chốc, tôi quên cả lạnh, mắt dán vào cây dương to lớn đang vươn mình giữa bầu trời quang đãng. Cây dương khoác áo vàng, đón ánh sáng trong suốt từ trên cao đổ xuống. Chẳng biết cây thay màu lá như vậy từ bao giờ. Ngày nào trong hè tôi cũng say sưa nhìn ngắm cái cây, vậy mà... Rốt cuộc tôi đã làm gì vậy...
Đúng lúc ấy, từ ngôi nhà ở góc đường, ngôi nhà thứ ba tính từ trang viên Cây Dương, có tiếng chó sủa inh ỏi. Đó là một con chó lai chuyên sủa hóng, tôi đoán chắc phải có ai đó đi ngang qua. Quả nhiên, nhìn về phía hàng rào tôi thấy một chiếc ô màu xanh lá từ từ tiến lại. Ai đó đang gương ô và thong thả bước đi dù trời đã tạnh mưa. Đó là bà cụ chủ nhà.
Có lẽ là bởi cái lưng còng mà cả người bà cụ hết lắc sang trái rồi lại sang phải sau mỗi bước đi. Chiếc túi vải nhỏ bà cụ đeo vào tay cầm ô cũng đu đưa như quả lắc, thấp thoáng hiện ra phía bên kia hàng rào.
Chợt có tiếng kêu lảnh lót vang lên từ tán cây dương, rồi một chú chim nhỏ hơn bồ câu chút xíu vội vàng cất cánh, bà cụ liền đứng lại. Gác cán ô lên tấm lưng còng và khẽ thò cái cổ ra như một con rùa, bà cụ ngước mắt nhìn lên.
"Rõ là giống thủy thủ Popeye mà!" tôi nghĩ.
Nhưng không như mọi khi, vẻ mặt bà cụ khi ấy chẳng giống người xấu chút nào.
Thấy tôi đang đứng ngoài hiên, bà cụ tỏ ra hơi bất ngờ. Không khí bên ngoài giúp tôi thấy thoải mái, cộng thêm việc có thể khiến bà - một người luôn lầm lì và chẳng nói được lời nào ngọt ngào với trẻ con - phải bất ngờ, tôi cảm thấy thực sự dễ chịu.
"Bà ơi, tạnh mưa rồi đấy."
Tôi cố nói thật to dù đang bị khản tiếng. Bà cụ chỉ cười nhe hàm răng móm. Mỗi khi cười kiểu đó, miệng bà cụ biến thành một nếp nhăn lớn chôn sâu dưới mũi. Nhưng bà cụ vẫn không cụp ô lại. Tôi xỏ chân vào đôi guốc còn ẩm nước mưa của bà cụ rồi đi qua vườn, hướng về phía cổng. Từ sau vụ máy giặt, cánh cổng luôn kêu cọt kẹt mỗi khi đóng mở lúc nào cũng được đóng kín. Tôi mở cổng cho bà cụ rồi nói thêm lần nữa:
"Bà ơi, tạnh mưa rồi đấy."
"Tạnh rồi."
Tôi còn đang chưa biết nói gì, bỗng bà cụ nhìn thẳng vào mắt tôi và nói:
"Bà đang hong khô cái ô."
"Dạ?"
"Ô đi mưa về phải hong khô chứ. Cháu không biết à?"
"Cháu biết," tôi chẳng biết nói gì trước thái độ của bà cụ, dường như với bà, việc vừa đi đường vừa hong ô cho khô chẳng có gì lạ lùng.
"Vào nhà nhanh lên. Người ngợm thế này..."
Vừa nói, bà cụ vừa đi về phía mái hiên. Bà đặt cái ô vẫn còn hơi ướt lên chỗ hòn đá kê chân, "hây a" một tiếng rồi bước vào nhà qua cửa kéo. Bà cụ không quên cầm theo đôi guốc vừa đi và đem ra đặt ở cửa trước. Bị bỏ lại đằng sau, tôi hắt hơi một cái.
Đó là tất cả những gì tôi nhớ về lần trò chuyện thực sự đầu tiên giữa tôi với bà cụ. Ít lâu sau, có lần trời nắng tôi cũng thấy bà giương ô. Tôi bảo: "Cái ô vẫn khô mà bà." Lần này, nghe xong bà thủng thẳng nói: "Thì dùng để che nắng."
*
* *
"Bà ơi, bà thích canh củ cải nấu tương ạ?"
"Ồ, thích chứ."
"Tại sao ạ?"
"Đừng bao giờ thắc mắc tại sao thích, tại sao ghét."
Lúc nào cũng thế, bà hiếm khi bắt chuyện trước, chỉ khi tôi hỏi bà mới trả lời. Và bà trả lời theo kiểu khá cụt lủn.
"Bà bao nhiêu tuổi rồi ạ?"
"Ừm."
Bà cụ tỏ thái độ như muốn lảng sang chuyện khác.
Nhưng cũng có đôi lần bà cụ nói nhiều hơn. Như hôm tôi nhìn thấy chỗ hói sau đầu bà. Da mặt bà cụ hơi sạm, các nếp nhăn hằn sâu, mái tóc thì bạc trắng như cước và xù bông lên, tóc bà cắt ngắn tầm ngang với tóc tôi và được chải ra phía sau gọn ghẽ. Những khi suy nghĩ, bà cụ thường đặt lòng bàn tay lên gần đỉnh đầu. Đám tóc bạc nơi bà hay đặt tay hơi tẽ ra và tôi thấy thấp thoáng một mảng da bóng láng, bóng tới mức không thể hình dung nổi đó lại là phần tiếp nối với khuôn mặt nhăn nheo của bà.
"Bà ơi, phụ nữ cũng có người bị hói ạ?"
Tốt nhất là nên hỏi bóng gió thôi, tôi nghĩ. Làm vậy có lẽ bà sẽ không nhận ra tôi đang nói về bà, song bà hiểu ra ngay: "À, cái này," rồi bà đưa tay lên tóc. Tôi tưởng như cả người mình co rúm lại. Nhưng trông bà cụ không có vẻ khó chịu.
"Hồi trẻ, bà khắt khe lắm, bất kể việc gì, nếu chưa thật đâu vào đó thì bà còn thấy bứt rứt khó chịu. Như khi búi tóc ấy, bà thít tóc chặt quá đến căng da dầu. Nên bây giờ mới bị thế này."
"Búi tóc là gì hả bà?"
"Búi tóc là búi tóc thôi. Một kiểu đầu của người ngày xưa."
"Trông nó có giống kiểu tóc của samurai trên tivi không bà?"
"Kiểu đó hơi cổ một chút nhưng cũng từa tựa vậy đấy."
"Bà từng mặc kimono rồi chứ ạ?"
"Đương nhiên. Ngày xưa ai chả mặc."
"...nếu buộc tóc chặt quá thì sẽ bị hói ạ?"
"Ừ. Cháu cũng cẩn thận đấy."
"Vâng. Cháu sẽ cẩn thận."
Khi ta mở lòng chuyện trò cùng thế giới bên ngoài, hẳn sẽ có biết bao điều từ thế giới ấy chảy vào ta, tôi nghĩ.
Tôi say sưa ngắm cây dương trút lá mỗi ngày. Lần nọ trông thấy một quả đỏ hiện ra giữa tàng cây mỏng, tôi hào hứng vô cùng.
"Đó là mướp qua lâu," bà cụ bảo. "Dây mướp vươn ra quấn quanh thân cây rồi đấy. Chẳng bao lâu nữa chim sẽ bay đến mổ."
Cũng vào khoảng thời gian này, mấy con mèo hoang thường lui tới khu vườn của bà cụ. Khi thì chúng chui vào những bụi cây thấp như rêu đại kích, cây đuôi diều... lúc lại trèo lên thành của cái lò than màu xanh đang nằm chỏng chơ trên nền đất, chắc hẳn chúng thấy khu vườn này là một nơi cư trú tuyệt vời. Sáng sáng, tôi cầm hai nắm cơm trưa mẹ làm cùng chút sữa đựng trong cốc rồi xuống chỗ bà. Nào là: chúng nó ỉa, bẩn lắm; nào là: cứ thế này lũ chim không dám tới mất; dù càu nhàu như vậy nhưng bà cụ vẫn đưa cho tôi một cái đĩa mẻ. Tôi đổ sữa vào đĩa rồi đặt ra chỗ phơi đồ cạnh mái hiên.
Một hôm, tôi lại sốt, lại được bà cụ trải chăn đệm cho. Đang ngủ, chợt tôi nghe tiếng bà từ bên ngoài vọng vào.
"Không được. Không được."
Tôi đứng dậy, mở cửa kéo ra. Trời sáng trong, nắng rải khắp nơi nhưng không khí thì lạnh buốt. Chắc đã sang tháng Mười một rồi.
Bà cụ đứng trong khu vườn đã bắt đầu ngập lá rụng, nheo mắt nhìn lên. Quanh bà là bốn, năm con mèo. Chúng nằm bẹp dí sát đất, mặt cúi gằm, miệng ngoác ra kêu liên hồi như phản đối. Bà cụ lại ngước nhìn lên và cố nói lớn, nhưng người già yếu sức, giọng nói vừa the thé thốt lên đã lại hụt hơi.
"Không được đâu cô Sasaki. Tôi đã nói với cô mãi rồi, cô cho lũ mèo ăn gì cũng được. Nhưng làm ơn thôi cái kiểu quẳng đồ ăn từ trên xuống như thế đi. Sao cô không xuống tận nơi và cho chúng ăn tại một nơi cố định hẳn hoi."
Ở hàng hiên, tôi ngả người nhìn lên. Từ cửa sổ căn phòng phía Tây thò ra khuôn mặt trắng bệch còn ngái ngủ của cô Sasaki.
Cô Sasaki làm việc ở một công ty chuyên may trang phục cho nhà hát và các buổi trình diễn tại những tụ điểm vui chơi giải trí. Cô luôn mặc quần bò ống côn, còn vừa đi vừa hút thuốc. Tôi chưa thấy cô trang điểm bao giờ. Cô Sasaki chắc cũng ngang tầm tuổi mẹ nhưng chẳng hiểu sao tôi có cảm giác cô chẳng khác gì sinh viên.
Tôi đang cho lũ mèo uống sữa thì cô Sasaki bắt chuyện.
"Cháu là Hoshino à?"
Tôi im lặng gật đầu.
"Cháu mấy tuổi?"
Tôi bèn giơ sáu ngón tay lên. Liệu mình có bị mắng vì thái độ trẻ con thế này không nhỉ, tôi băn khoăn. Nhưng hình như cô Sasaki chẳng mấy bận tâm, cô ngồi xổm xuống trước mặt tôi rồi bất ngờ hỏi.
"Cô hỏi nhỏ cháu cái này nhé. Tóc cháu, có phải là bắt chước cô không đấy?"
Cô Sasaki cũng để kiểu tóc giống như tôi. Trong đầu tôi chắc mẩm rằng cô ấy rất khó chịu khi thấy một đứa trẻ có kiểu tóc giống mình, người tôi cứng đờ lại như tảng đá, đến mức lắc đầu cũng không nổi.
"Cháu sao thế, cô chỉ muốn nói là hai ta có kiểu đầu giống nhau thôi mà. Cháu đúng là không biết đùa."
Cô Sasaki nói, đoạn nhả khói thuốc, đứng dậy rồi thoăn thoắt leo lên cầu thang.
Bà cụ vẫn nhìn lên, bèn lớn tiếng quát. Chắc bà bực lắm.
"Cô Sasaki, được chứ, cô hiểu chưa? Khi cho mèo ăn, hãy nghiêm chỉnh..."
"Cháu xin lỗi."
Cô Sasaki rụt đầu vào rồi nhẹ nhàng đóng cửa.
Từ chỗ mái hiên, nếu chú ý sẽ để ý thấy những mẩu thịt cá rải rác trên nền đất. Con mèo to nhất có bộ lông vằn như hổ rón rén lại gần và chén sạch. Những con còn lại ngước lên nhìn thèm thuồng, như thể chúng đang chờ đợi bữa tiệc khác từ trên trời rơi xuống.
"Ôi trời ơi, khỉ thật. Trông có thảm hại không."
Bà cụ vừa tháo guốc vừa gầm lên.
"Trở lại chăn ngay! Lại sốt rồi đấy!"
Thấy bà có vẻ bực bội, tôi vội vàng chui vào trong chăn ngay lập tức. Ở trong chăn ấm sực, tự nhiên tôi rùng mình.
"Cái cô Sasaki đó, cứ thấy chán đời là lại bày trò dở hơi."
Bà cụ lẩm bẩm một mình khi đã yên vị trước bàn sưởi.
"Tức là khi nào thấy chán thì cô ấy lại ném thức ăn xuống cho lũ mèo?"
Tôi thò mỗi mắt ra khỏi chăn và hỏi.
"Chịu."
"Thì bà vừa nói thế còn gì."
"Ừ, có lẽ."
Suy nghĩ một lát, tôi bèn nói, "Không đúng."
Bà cụ nhìn tôi, "Không đúng thế nào?"
"Cháu nghĩ cô ấy làm thế vì thấy vui thôi."
"Người lớn đàng hoàng có ai làm thế không? Chẳng ra thể thống gì cả."
Cách bà cụ nói "chẳng ra thể thống gì cả" nghe thật ngộ làm tôi bật cười khúc khích. Bà cụ bèn lườm tôi, mắt sáng quắc.
"Cháu mà định bắt chước thì liệu hồn!"
Hiển nhiên là cô Sasaki vẫn tiếp tục trò ném thức ăn cho lũ mèo, mỗi lần như vậy mặt bà cụ lại trở nên càu cạu. Có thể với bà, cô Sasaki khi đó thật kỳ cục, nhưng tôi lại thấy như vậy rất thú vị.
Mùa Thu Của Cây Dương Mùa Thu Của Cây Dương - Kazumi Yumoto Mùa Thu Của Cây Dương