Outside of a dog, a book is man's best friend. Inside of a dog it's too dark to read.

Attributed to Groucho Marx

 
 
 
 
 
Tác giả: - Karen Robards
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Góc phố
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2873 / 46
Cập nhật: 2014-12-20 08:52:14 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4
hương 7:
Hắn nghe thấy tiếng xe không thể nhầm lẫn đang tiến lại gần mình. Johnny không buồn nhìn hay giơ ngón tay lên xin đi nhờ. Ai ở Tylerville này có thể cho hắn đi nhờ cơ chứ? Không ai cả. Hắn là Johnny Harris, kẻ sát nhân. Người ta tránh hắn còn hơn tránh hủi. Chó chết, hắn còn không thể ăn cho ra hồn nữa. Nhớ lại sự nhục nhã của mình khi ăn bữa tối, hắn nghiến răng lại. Hắn luôn luôn ăn với mục đích tống thức ăn xuống họng trước khi kẻ khác chiếm mất. Cung cách hay giấy ăn hay tất tần tật những thứ khác chưa bao giờ là quan trọng. Nhưng chúng lại quan trọng với cô ta. Vậy là, chó thật, hắn sẽ phải học những trò đó. Hắn đau đớn vì bị Rachel coi thường. Hắn tức tối vì cô đã đưa tiền cho hắn. Trả lương trước, cô ta đã nói thế. Nhưng hắn gọi đó là bố thí, và cứ nghĩ đến việc mình trở thành một kẻ ăn xin, hắn lại điên tiết. Một chiếc xe tải màu đỏ trông còn khá mới nhẹ lướt qua, màu sơn sáng bóng của nó ánh lên trong trời chiều tối sẫm. Johnny nhìn theo nó rất lâu, vẻ ghen tị. Trong khoang xe có một người đàn ông, một người phụ nữ, một bé trai và một bé gái. Hắn luôn mơ được có một gia đình như thế. Chó thật, trong những năm ở tù, hắn đã mơ tưởng đủ thứ kiểu như thế. Mơ tưởng giúp đầu óc hắn giữ được tỉnh táo. Nhưng vào lúc này hắn đang ở đây, đó là hiện tại. Hắn đang lê bước bên lề con đường nhựa gập ghềnh dẫn đến khu nghèo nhất của hạt. Những ngôi nhà trong nông trại xiêu vẹo với những mảnh sân đầy đồ tạp nham, rải rác quanh đó là những mái lán có sân còn lắm đồ tạp nham hơn. Những người phụ nữ béo ú trong những bộ váy mặc ở nhà ngồi trên bậc hiên xiêu vẹo, đầu gối xòe sang hai bên, nhìn hắn chằm chằm. Những người đàn ông gầy nhẳng mặc những chiếc áo ba lỗ đang gãi nách cũng nhìn hắn khi hắn đi qua. Những con chó ghẻ lở gầy trơ xương không biết của nhà nào lao về phía hắn sủa đữ dội. Chào mừng về nhà. Thật tồi tệ, hắn là một phần của nơi này, và nó là một phần của hắn. Trước đây hắn từng là một trong số những đứa trẻ đang chơi đùa như thế kia, cũng nhếch nhác và bẩn thỉu như chúng. Mẹ hắn cũng béo và luộm thuộm như những người phụ nữ đang làm hắn sợ co rúm người lại kia. Bố hắn là một gã con hoang ích kỷ chỉ biết đánh đập và chửi bới, và ông ta chỉ mặc độc một cái áo lót khi ở nhà. Từ những lỗ thủng và vết bẩn luôn luôn bám trên đó thì chắc là ông ta chỉ có một cái duy nhất mà thôi. Đó là những người quanh hắn. Kinh nghiệm sống của họ cũng là của hắn. Dòng máu tồi tệ của họ thấm vào gen hắn. Có lần, hắn đã muốn trốn đi. Có lần, hắn đã mong muốn rất nhiều điều. Đó là một ngôi nhà gỗ cấp bốn, chỗ nào cũng xiêu vẹo và rách nát, thậm chí còn tệ hơn cả những ngôi nhà tệ nhất mà hắn đi qua, trên nóc có một cái chuông. Một con đường rải sỏi dẫn đến đó. Hai chiếc xe tải han gỉ đậu ở lối đi, một chiếc đã mất lốp, nằm trên những khối xi măng. Gà qué bới tung tóe trong sân. Qua cửa trước để ngỏ, hắn thấy thấp thoáng ánh sáng từ tivi. Có ai đó ở nhà. Johnny không biết nên buồn hay vui nữa. Hắn bước vào lối đi, lên bậc hiên, rồi nhìn qua cửa kính với vô số những lỗ và mảnh vỡ nhỏ. Một người đàn ông đang nằm xem tivi trên một chiếc ghế dài lún xuống. Đó là một ông già, tóc hoa râm, gầy rộc, mặc một chiếc áo ba lỗ cáu bẩn đang nốc một chai bia rẻ tiền. Cảnh tượng đó làm cổ họng Johnny thắt lại. Nhà. Dù tốt xấu thế nào, hắn cũng đã về nhà. Hắn mở cửa và bước vào. Willie Harris liếc lên nhìn hắn, có vẻ như hơi giật mình trước sự đường đột. Sau đó mắt ông ta nheo lại vì đã nhận ra vị khách của mình là ai. “Mày,” giọng ông ta đầy vẻ khinh miệt. “Tao biết không sớm thì muộn mày cũng sẽ về, y như cái đồng xu đen đủi chó chết vậy. Biến ra chỗ khác! Mày đang che tivi đấy.” “Chào bố,” Johnny nhẹ nhàng nói. “Tao bảo cút ra chỗ khác!” Johnny tránh ra. Không phải vì hắn sợ bố hay những trận đòn của ông ta mà vì hắn muốn xem xem phần còn lại của ngôi nhà có gì thay đổi không. Hắn đi vào căn bếp nhỏ với những chiếc bàn tráng men trắng và bàn để chơi bài mà họ vẫn ngồi đó để ăn - khi mà họ có đồ ăn. Nếu không phải là chiếc bàn đó - có thứ gì mỏng manh mà lại tồn tại được lâu đến thế? - thì cái bàn bây giờ với cái bàn ngày xưa cũng là một cặp sinh đôi, vì nó có một mảnh gỗ bị khuyết ở chính giữa mặt bàn. Bát chén bẩn chồng đống bên cạnh bồn, như thường lệ, có điều bây giờ chỉ còn một vài cái. Những tấm rèm hoa màu hồng vẫn thế, rũ rượi và bẩn thỉu hơn bao giờ hết, treo trên cái giá màu vàng đã võng xuống bên trên bồn rửa. Có hai phòng ngủ bé tí và một phòng tắm cũng bé nốt bên ngoài hành lang, cũng y như trước đây. Johnny liếc nhìn vào mỗi phòng, băn khoăn không biết tấm đệm đôi trên sàn phòng ngủ bé hơn có phải là chiếc ngày xưa mà hắn, Buck và Grady thường ngủ không. Sue Ann, cô con gái duy nhất trong nhà, từng ngủ trên chiếc ghế dài ngoài phòng khách. Bố mẹ hắn ngủ trên giường trong phòng ngủ bên cạnh, cho đến khi mẹ hắn bỏ đi Chicago với một gã khác. Từ đó, bố hắn ngủ ở đấy với bất kỳ mụ đàn bà dâm đãng nào mà ông ta vơ được. Đôi khi con trai của ông ta - thường là Buck – cũng ngủ với mụ ta luôn. Nhà. Hắn quay trở lại phòng khách và tắt tivi. “Mẹ nhà mày!” Bố hắn nói, mặt méo xẹo vì tức giận. Ông ta đặt chai bia xuống sàn và ngồi dậy. “Dạo này bố thế nào?” Johnny ngồi xuống đầu bên kia của chiếc ghế dài sau khi nhấc hai chân trần của Willie lên và nhẹ nhàng nắm lấy tay để ngăn ông ta ngồi dậy bật lại tivi. Mùi bia trộn với mùi của người già xộc vào mũi hắn. “Đồ chó, bỏ cái tay khốn kiếp của mày ra ngay!” Willie cố gắng giằng để giật tay ra nhưng không được. Johnny mỉm cười với bố và siết chặt nắm tay hơn. Không đau lắm, nhưng đủ mạnh để cảnh cáo. Mọi thứ đã thay đổi, và hắn sẽ không để bị thụi vào bụng hay mồm bất cứ khi nào bố hắn nổi cơn điên nữa. “Bây giờ bố ở đây một mình à?” “Liên quan chó gì đến mày? Mày có ở đây đâu mà lo!” Suốt mười năm không gặp, Willie không hề viết thư, gọi điện hay thăm hỏi gì con mình. Điều đó đã làm mềm đi ký ức của Johnny về ông ta. Thậm chí hắn còn hy vọng là ông ta sẽ vui mừng khi gặp lại mình. “Con không muốn chuyển về đây ở. Con có một căn hộ trong thị trấn. Con chỉ đến để thăm bố thôi.” “Tao khỏe hơn rất nhiều trước khi mày vác mặt về đấy.” Chẳng có gì thay đổi. Chó thật, có thứ gì thay đổi ở cái thị trấn này không thế? “Dạo này bố có nghe tin gì của Buck hay Ann không?” Willie khịt mũi. “Sao, mày nghĩ đây là nhà Walton à? Không, tao chẳng nghe tin gì của chúng nó hết. Cũng chẳng thèm quan tâm. Giống như tao chẳng thèm bận tâm xem mày sống chết thế nào.” Câu nói ấy thật đau đớn. Đáng lẽ ra mọi chuyện không nên như vậy, nhưng sự thật là thế. Johnny đã định đứng lên, đi ra cửa, và không bao giờ quay lại. Hắn sẽ không bao giờ gặp lại lão già đó nữa. Nhưng hắn không thể làm thế. Một điều hắn học được trong tù là giá trị của mọi thứ, của mọi người. Của những mối quan hệ. Hầu hết mọi người có chúng mà không cần phải cố gắng gì. Hắn thì chỉ ước ao có được một vài mối quan hệ trong đời. “Nghe này, bố,” hắn nhẹ nhàng nói. “Bố ghét con và con ghét bố, đúng không? Nhưng không nhất thiết phải tiếp tục như thế mãi. Chúng ta có thể thay đổi mà. Có vô khối người trên thế giới không có người thân. Bố có muốn chết cô độc, không có ai thèm nhỏ nước mắt khóc thương bố trong đám tang không? Quỷ tha ma bắt, con thì không! Chúng ta là gia đình, bố ạ. Máu mủ ruột rà của nhau. Bố không thấy thế à?” Ông bố nhìn hắn chằm chằm một phút, sau đó thò tay lấy chai bia rồi tu một hơi dài. Nhìn ông ta, Johnny cảm thấy hy vọng cháy bỏng trong lồng ngực. Có thể, biết đâu đấy, bố con họ sẽ làm lại từ đầu. Willie đặt chai bia xuống và lấy tay lau miệng. “Chó má, nghe như kiểu nhà tù đã biến mày thành một thằng ẻo lả chó chết vậy. Chắc mấy thằng mọi trong đó đã nặn mày thành một con mụ mau nước mắt rồi. Tao không có thời gian cho mày. Cút ra khỏi nhà tao ngay!” Trong một thoáng, Johnny phải cố lắm mới cưỡng lại được mong muốn sục sôi là thụi một quả đấm vào bản mặt đểu cáng của lão bố. Nhưng rồi kiềm chế được bản thân, hắn thả cánh tay gầy nhẳng mà mình đang nắm ra rồi đứng lên. “Tôi mong ông chết rữa dưới địa ngục, lão già ạ,” hắn lạnh lùng nói, rồi xoay người bước ra. Tiếng cửa kính đóng sầm là câu trả lời duy nhất mà hắn nhận được. Hắn đi men theo chái nhà qua những chiếc xe tải chở hàng, lên chỗ đường cho xe ô tô và đến nơi trước đây là nhà để xe. Nó vẫn ở đó, hơi nghiêng sang một bên, chẳng khác gì ngày trước. Nhìn con gà mái đậu trên một ô cửa sổ không lắp kính và âm thanh phát ra từ bên trong, hắn biết bây giờ nó được trưng dụng làm chuồng gà rồi. Johnny cúi đầu xuống dưới cánh cửa thấp và bước vào trong. Nó vẫn ở đó. Hắn đã không dám hy vọng, nhưng nó vẫn ở đó. Phân gà phủ đầy bên trên, lốp xe đã mục đến tận cùng, và trên ghế ngồi bằng nhựa vinyl có một lỗ thủng làm cho xốp đệm bên trong thò cả ra ngoài. Nhưng nó vẫn dựa cạnh tường nơi trước đây hắn đã để nó ở đó: chiếc xe máy của hắn. Lạy Chúa, nó đã từng là niềm tự hào của hắn! Một chiếc Yamaha 750, màu đỏ anh đào ánh bạc được mua bằng tiền do chính hắn kiếm được từ những công việc vặt quanh thị trấn, và hắn đã yêu nó như yêu một cô gái đẹp. Khi họ đến bắt hắn, hắn đã cất nó trong nhà xe mà không biết rằng gần mười một năm sau mình mới quay về. Trông nó không có vẻ gì là được ai sờ đến trừ những con gà trong suốt thời gian đó. Xét về tính năng sử dụng thì nó vẫn còn mới chán. Thay lốp mới, có lẽ là lên dây phanh nữa, rồi nó sẽ chạy ngon y như trước. Hắn sẽ không phải phụ thuộc vào đôi chân hay Rachel Grant để đi đâu đó nữa. Hắn đã có những bánh xe này rồi. Có thứ gì đó truyền tự tin cho hắn khi có những bánh xe. Hắn đã cảm thấy mình ít đàn ông hơn hẳn khi không có chúng. Có tiếng gầm gừ trầm đục ở đâu đó đằng sau làm John¬ny phải ngoái lại nhìn. Một con chó đứng trước cửa ra vào, to lớn, chân cứng đờ, lông dựng đứng lên, răng nhe ra. Âm thanh phát ra từ trong cổ họng nó đầy vẻ đe dọa. Di chuyển thật chậm, Johnny quay lại đối diện với nó. Bên ngoài trời đã tối, và trong nhà xe còn tối hơn. Ánh trăng bàng bạc rọi trên người con vật. Một con chó xấu xí y như những con khác, nhưng có vẻ to xác hơn. Không được cho ăn đầy đủ, được nuôi theo kiểu bần tiện và có lẽ là rất nguy hiểm. Trước đây gia đình họ luôn luôn có một con chó như thế. To lớn, xấu xí và đầy thù hằn, chắc chắn rồi. Willie đá nó, chòng ghẹo nó, xích nó và bỏ đói nó để biến nó thành đồ hèn hạ. Hèn hạ y như bản thân lão già đó vậy. Có điều là con chó này không bị xích. Tiếng gầm gừ trầm hơn, căng thẳng hơn. Đầu nó hạ thấp xuống đầy đe dọa. Johnny thấy các cơ của mình căng lên chờ đợi một cuộc tấn công. Liếc nhìn quanh, hắn tìm thứ gì đó, một khúc gỗ hay đại loại vậy, để đánh con vật khi nó nhảy lên. Nhưng nó không nhảy. Thay vào đó, sau một tiếng gầm khủng khiếp, nó ngẩng đầu lên, hình như là đang đánh hơi gì đó. Một con gà vỗ cánh và kêu quang quác phía bên phải, nhưng con chó chẳng thèm hướng tai về phía đó. Hình như nó đang nhìn chăm chú vào Johnny. Giật mình trước thái độ của nó, vừa tò mò vừa sợ, Johnny nhìn lại nó chằm chằm. Khi mắt hắn quét qua màu lông nâu vàng, nhận ra những đặc điểm của cái đầu và đôi tai cũng như độ dày và chiều dài của cái đuôi, hắn chợt nghĩ đến một khả năng lạ thường. Con chó khẽ ư ử. “Wolf?” Không thể nào. Hồi hắn bị bắt, con chó mới bốn tuổi. Giờ thì nó... mười lăm tuổi rồi. Một độ tuổi cực kỳ hiếm với một con chó lai bị ngược đãi thường xuyên đến thế. “Wolf, là mày phải không?” Hồi đó hắn đã rất yêu con chó này, nghe mới ngu ngốc làm sao. Nó là con của một con chó đi lạc sống trong chuồng gia súc mục nát bỏ hoang ở cánh đồng gần đó. Giống như đám anh em và lũ bạn của hắn, Johnny đã ném đá vào con chó cái và đàn con của nó, nhưng đến đêm hắn lẻn ra, mang theo một túi quần đầy mảnh vụn thức ăn. Con chó cái không hề mất cảnh giác với hắn, nhưng những con cún lại không e dè, đặc biệt là con to nhất, nó quấn lấy hắn như chú vịt con quấn mẹ. Một ngày kia, khi đàn chó con được khoảng bảy tuần tuổi, hắn thấy chó mẹ nằm chết bên đường. Không biết phải làm gì khác với chúng, hắn đưa lũ chó con về nhà. Hắn phải biết từ trước mới phải. Bố hắn ngay lập tức đã quẳng bốn con lên thùng sau xe tải và chở chúng đi vứt ở chỗ nào chỉ có Chúa mới biết. Con thứ năm, là Wolf, được cho ở lại vì nó to và vì Willie nghĩ rằng nó có thể trở thành một con chó giữ nhà tốt. Mặc cho Johnny phản đối, Willie vẫn ngay lập tức xích con chó lại và bắt đầu khiến nó trở nên hèn hạ. Dù Johnny đã cố bảo vệ con chó, nhưng thủ đoạn của bố hắn vẫn thành công, đến mức mà Johnny là người duy nhất trên thế giới này còn thấy con chó ấy là hữu ích. Ở trong tù, khi hắn nằm thức cả đêm nhìn chằm chằm lên chiếc giường tầng phía trên đầu mình, Johnny đã nghĩ rằng hắn nhớ con Wolf nhất. Đó không phải là điều chó chết đáng buồn trong cuộc đời hắn ư? Con chó lại ư ử lần nữa. Biết là mình đang rất nực cười, rằng mình có thể mất đi cả bàn tay nếu con chó tấn công, Johnny vẫn bước về phía trước, chìa các ngón tay ra để con chó đánh hơi. “Wolf đúng không?” Thật khó tin, con vật khổng lồ đó hạ người xuống và rón rén tiến về phía trước, cư xử như thể nó muốn tin nhưng vẫn sợ bị lừa. Johnny khuỵu hai đầu gối xuống để chào đón nó, tay đưa về phía trước, dò dẫm trong bóng tối, vuốt ve và xoa người con chó trong khi nó rên ư ử, liếm và dụi đầu vào hắn. “A, Wolf,” hắn nói, cuối cùng cũng chấp nhận sự thật, rằng thứ duy nhất mà hắn từng yêu đã chào đón hắn. Sau đó, khi cái đầu to lớn dụi vào lòng hắn, hắn vòng tay quanh cái cổ dày của con chó và vùi mặt vào người nó. Lần đầu tiên sau mười một năm, hắn. khóc.
Chương 8:
“Rachel, có chuyện rồi.” Còn chuyện gì nữa cơ chứ? Rachel mệt mỏi nghĩ trong lúc chuyển điện thoại sang tai bên kia. Trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ kể từ khi Johnny Harris về Tylerville, cuộc sống của cô cứ quay cuồng chao đảo vì phải giải quyết hết vấn đề này đến vấn đề khác, tất cả đều có liên quan đến hắn. Chắc là chuyện này cũng thế, chắc như đinh đóng cột luôn. “Có chuyện gì thế, Ben?” “Cô biết lũ trẻ con mà chúng ta vẫn để mắt trông chừng chứ? Cuối cùng thì tôi cũng đã bắt quả tang một đứa trong số chúng ăn trộm. Có điều Harris không cho tôi báo cảnh sát.” “Sao cơ? Sao lại không cho?” “Tôi đoán là vì bản thân hắn cũng là tội phạm nên hắn thông cảm với những kẻ phạm tội khác. Tôi cũng chẳng biết thế quái nào nữa. Tất cả những gì hắn nói là nếu tôi gọi cảnh sát, hắn sẽ đá vào... chà, tôi không muốn nhắc lại đâu.” “Nói với cô nhé, Rachel, tôi không biết mình có thể chịu đựng được gã này thêm nữa không. Hắn đúng là một cái gai trong mắt.” “Đưa điện thoại cho hắn. Tôi sẽ nói chuyện với hắn. Không, tôi nghĩ lại rồi, tôi sẽ xuống cửa hàng, cố gắng giữ kẻ trộm lại cho đến khi tôi đến, được không?” “Tôi sẽ cố. Nhưng Rachel...” “Chờ tôi đến rồi nói, Ben.” Rachel dập máy. Thật không may, mẹ cô lúc ấy đang đứng cạnh lò nướng làm món bánh mì ngô để kích thích vị giác của bố cô, đã nghe thấy mọi lời cô nói. Điều đó được chứng minh khi cô quay lại và thấy những dấu hiệu căng thẳng không lẫn đi đâu được trên khuôn mặt bà. “Con sẽ không bao giờ nghe lời mẹ phải không, Rachel? Mẹ đã nói với con ngay từ đầu là con đang phạm phải sai lầm rất lớn khi nhận thằng đó vào làm. Mẹ không thể tưởng tượng được là con lại cứng đầu đến thế. Mẹ không thể ngẩng đầu mà đi lại trong thị trấn khi nghe bạn bè mẹ nói rằng con đang giao du với thằng đó. Còn phải cố mà viện ra mấy lời giải thích với Vema Edwards khi bà ấy nước mắt ròng ròng gọi cho mẹ…” “Con biết chuyện đó rất khó khăn cho mẹ, mẹ ạ, và con xin lỗi. Con cũng rất tiếc cho bà Edwards nữa. Nhưng con không tin Johnny đã giết Marybeth. Cậu ta...” “Con gọi cái thằng đó là Johnny á?” Elisabeth cứng người lại cảnh giác. Cử chỉ của bà làm Rachel nghĩ khi cô tốt nghiệp, trong tay cầm tấm bằng sư phạm và nhận dạy đám trẻ của Tylerville. Không phải là cô xác định suốt đời làm giáo viên cấp ba. Cô đã hoàn toàn chắc chắn rằng cuộc sống vẫn còn điều gì đó tuyệt vời đang chờ mình phía trước. Thế rồi mùa hè định mệnh đó đến - cái mùa hè dài lê thê, âm ỉ cách đây mười một năm, chắc hẳn hồi đó phải có những biến động lớn về chiêm tinh học thì mới xảy ra nhiều chuyện khủng khiếp đến như vậy. Cô đã quay trở lại Vandy để học vài khóa sau đại học với mong muốn nhận được bằng thạc sĩ trong tương lai. Một buổi chiều, cô đi dọc theo con dường lát gạch cắt qua khu học xá, đầu óc vẫn ở trên mây như thường lệ. Cô đang sáng tác một bài thơ cho bài tập về nhà môn viết thì có một người chạy bộ quỳ xuống trước mặt cô để buộc lại dây giày. Tất nhiên là cô không để ý, nên đã vấp phải anh ta và ngã chúi đầu xuống đất. Anh ta đỡ cô dậy, đầy vẻ hối lỗi, và ngay lập tức cô đã bị hút hồn vì vẻ ngoài điển trai của anh ta. Thời gian còn lại của mùa hè họ dính với nhau như hình với bóng. Rachel đã yêu. Cô đã hạnh phúc biết bao khi đưa anh ta về ra mắt gia đình. Họ đã nói đến chuyện cưới xin và cô đã mong được đính hôn chính thức trong buổi gặp mặt vào cuối mùa hè đó. Nhưng Michael đã để mắt đến cô em Becky sôi nổi hoạt bát và đổ ngay lập tức. Rachel chẳng còn biết làm gì ngoài việc đau đớn nhìn người đàn ông mình yêu đã bị một người khác quyến rũ. Không phải là Becky cố ý làm cô tổn thương. Rachel biết điều đó. Chỉ là Becky chưa bao giờ nhìn nhận mọi chuyện từ góc độ của Rachel. Như chị gái mình, nó cũng đã yêu Michael điên cuồng từ cái nhìn đầu tiên. Họ đính hôn trong vòng một tháng, cưới sau ba tháng. Rachel bước sang một bên với thái độ lịch sự thấy rõ, cô thậm chí còn đóng vai phù dâu danh dự của Becky. Nhưng nếu không có chuyện của Marybeth Edwards vào cùng thời điểm đó, chắc cô đã chết vì đau buồn rồi. Chuyện tồi tệ hơn là Michael đã đưa Becky quay lại trường Vandy cùng anh ta để hoàn thành nốt năm học thứ ba ở trường Luật của mình. Rachel không bao giờ còn có thể đối diện với Nashville được nữa. Vậy là cô ở nhà, trước niềm vui của bố mẹ, những người đang sợ phát khiếp trước ý nghĩ rằng họ sắp mất đi hai đứa con gái cùng một lúc. Chỉ là tạm thời thôi, cô từng nghĩ, cùng lắm là một năm, cô sẽ lấy lại được thăng bằng. Cô quay trở lại trường để dạy, và dần dần tháng năm trôi qua, nỗi đau lớn nhất rồi cũng qua đi. Cô đã cống hiến hết mình cho công việc và học sinh, cô chờ cho niềm vui sướng mà trước đây đã từng chết đi cùng sự phản bội của Michael sẽ quay trở lại. Có điều, nó chưa bao giờ quay lại. Sau đó bố cô bị chẩn đoán mắc bệnh alzheimer, và bất cứ suy nghĩ nào của cô về việc trốn chạy khỏi Tylerville đều bị ngăn lại. Becky cưới xong là đi luôn, còn mẹ cô quẫn trí trước số phận đang chờ chồng mình, do đó vai trò của cô trở nên vô cùng quan trọng. Bản chân cô cũng muốn được dành từng giây phút rảnh rỗi bên bố khi mình còn có thể. Nhưng đôi khi cô cảm thấy cuộc sống cứ thế trôi qua tầm tay trong khi cô chờ cái chết đến với bố mình. Và cô trách móc bản thân, một người con gái ngoan ngoãn, hiếu thảo không thể có suy nghĩ khủng khiếp như thế. Lúc này Rachel cũng đẩy hẳn nó ra khỏi đầu và chỉ tập trung vào buổi tối sắp đến. Vẫn như hai năm qua, Rob đưa cô đến Heart Beat, buổi hòa nhạc ngoài trời được tổ chức nhằm quyên tiền cho Heart Society - lần trước nó được tổ chức vào thứ Bảy cuối cùng của tháng Tám ở Tylerville Country Club. Thực ra, họ đã đến Heart Beat trong lần đầu tiên hò hẹn. Đúng ra cô nên gọi điện bảo Rob đón cô ở cửa hàng. Không được - ở bên ngoài cửa hàng thì hơn, để Rob không chạm trán với Jonnny. Rob đã thể hiện quan điểm của anh ta về Johnny rất rõ ràng qua bốn cuộc điện thoại và một bữa ăn trưa trong vòng hai ngày vừa rồi. Tại sao cuộc đời không bao giờ đơn giản nhỉ? Rachel nghĩ và thở đài. Cô chỉ làm những điều mà cô cho là hợp đạo lý khi cho Johnny cơ hội thứ hai, và hậu quả là cuộc đời cô bị ném vào một mớ hỗn loạn. Sẽ dễ dàng hơn biết bao nếu cô không trả lời lá thư cụt lủn của Johnny. Nhưng Rachel biết, cô sẽ không bao giờ thanh thản với chính mình nếu làm thế. Hình như có ai đó đã từng nói rằng hạt giống hủy hoại cuộc sống của một người được gieo bằng chính tính cách của người đó, đúng không nhỉ? Hành động tốt bụng (hay là khờ khạo, nếu tin lời Rob) đó là hạt giống hủy hoại cuộc sống hàng ngày đơn điệu của cô. Cuộc đời cô vẫn luôn êm đềm cho đến khi cô gặp chiếc xe bus đó. Từ đó đến nay, cô chưa bao giờ có được một phút giây thanh thản. Sự thật là Johnny rất rắc rối, rõ ràng và đơn giản. Hắn luôn luôn như vậy, và nếu không có chuyện gì, hắn sẽ không thay đổi. Rachel đỗ xe vào bãi ở đằng sau cửa hàng, thẳng người bước vào cửa hậu. Olivia đang ở quầy thu ngân, nhập tiền một bao tải đinh và mấy dụng cụ làm mộc cho Kay Nel¬son, một người phụ nữ ba mốt tuổi phúng phính và xinh đẹp - bạn thân của Becky từ hồi hai đứa còn học cấp một. Không giống như Becky, Kay chưa kết hôn. Cô mở một cửa hàng bán hoa và có vẻ khá hài lòng với tình trạng độc thân hiện tại. Olivia ngẩng lên nhìn, thấy Rachel, liền chỉ về phía nhà kho. “Ồ, chị Rachel, họ ở trong đó.” Rachel gật đầu. Văn phòng của Ben ở đằng sau nhà kho, đó có vẻ là một nơi hợp lý để giữ tên trộm. “Cảm ơn em, Olivia.” Mặc dù giọng lo lắng của Olivia khiến bất cứ ai tinh ý cũng nhận ra rằng có chuyện gì đó không ổn, nhưng câu trả lời của Rachel vẫn rất thoải mái. Chẳng có nghĩa lý gì khi cho cả thế giới biết có vấn đề với cửa hàng của cô cả. Nếu tin đồn lan đi thì sẽ chỉ cung cấp thêm nhiên liệu cho cái cối xay chuyện phiếm vốn đã phải hoạt động quá tải này thôi. Quyết định tỏ ra vô tư lự dù điều đó có làm mình khó chịu đi chăng nữa, Rachel mỉm cười với Kay trong niềm hân hoan không giấu giếm, “Chào em. Hôm Chủ nhật vừa rồi chị không gặp em ở nhà thờ. Em ổn chứ?” “Em ổn cả, chị Rachel ạ. Hôm đó em có chút việc. Em phải hỏi chị câu ‘Chị ổn chứ?’ mới đúng.” Trong giọng Kay chất chứa nhiều sự quan tâm hơn bản thân câu hỏi. Và Rachel hiểu rằng Kay đã nghe nói về chuyện của cô và đang thương hại cô trước sự hiện diện của Johnny Harris trong cuộc đời. Niềm thông cảm không nói ra lời đó khiến Rachel muốn nghiến răng lại, nhưng tất nhiên là nếu còn muốn tiếp tục tỏ ra bình thản thì cô không thể làm như thế. “Bình thường thôi. Em định xây gì à?” Gật đầu về phía đống đồ cô gái mua, Rachel mỉm cười chuyển chủ đề. Kay liếc xuống đống đồ trên bàn và vơ chúng lại như thể đang phòng thủ. “Ồ, không, những cái này là cho em trai em. Nó là thợ mộc của nhà em mà. Dạo này chị có nghe tin gì của Becky không?” Et tu, Brute [1], Rachel nghĩ và nhận ra rằng cũng giống như hầu hết những khách hàng khác trong vòng hai ngày qua, chắc hẳn là Kay cũng đến cửa hàng đồ dân dụng vì tò mò. “Mới tuần trước. Chị nghĩ là nó sẽ về nhà vào Lễ Tạ ơn, cùng Michael và mấy đứa bé.” [1] Tiếng Pháp, nghĩa là “Cả cô nữa, đồ đáng ghét.” “Em sẽ qua chơi và thăm nó.” “Nhớ đến nhé,” Rachel nói, rồi với một cái vẫy tay, cô đi qua quầy thu ngân vào phòng kho. Như cô tiên liệu, cửa phòng làm việc của người quản lý cửa hàng để khép hờ. Điện thoại lắp trên tường bên trái cô, và Rachel dừng lại vừa đủ lâu để gọi một cuộc thật nhanh và khẽ khàng đến hiệu thuốc Howard của Rob. Cô để lại lời nhắn cho anh ta rồi gác máy. Nhận ra mình không thể trốn tránh thêm được nữa, cô bước vào cánh cửa để mở. Dừng lại ở ngưỡng cửa, Rachel quan sát cảnh tượng trước mặt. Một thằng bé với mái tóc vàng bờm xờm và khuôn mặt nhọn ngồi trên chiếc ghế da lớn của Ben đằng sau bàn làm việc. Johnny ngồi trên thành ghế, nói chuyện với nó, lưng quay về phía cửa. Mái tóc quá dài của hắn được túm lại thành một cái đuôi ngựa gọn gàng và buộc bằng một sợi dây chun màu xanh sau gáy. Trong bộ áo phông, quần bò, trông hắn khác hoàn toàn với một Ben béo ục ịch đeo kính đang dựa vào bức tường bên cạnh, hai tay khoanh trước ngực. Chiếc quần âu màu xám được là phẳng phiu, chiếc áo sơ mi kẻ xanh và chiếc cà vạt kiểu hải quân của Ben không đắt nhưng lại hoàn hảo để chứng nhận quan điểm của ông về cách ăn mặc của một người ngồi ở vị trí quản lý. Rachel thầm thở dài, băn khoăn không biết có phải Johnny buộc tóc để chọc tức Ben không. Có lẽ vậy. Đó có vẻ như là điều mà Johnny Harris thích làm. Nhẹ nhàng đóng cửa lại, Rachel chuẩn bị tinh thần để giải quyết vấn đề trước mắt. Ngẩng lên, cô thấy ba cặp mắt khác nhau đang nhìn mình chằm chằm. Đôi mắt Ben tỏ rõ vẻ nhẹ nhõm, trong khi ánh mắt Johnny rất khó giải nghĩa. Cô chưa gặp hay nói chuyện với hắn kể từ bữa tối khó chịu hôm đó. Khi nhớ lại những chuyện khiến họ bất đồng, Rachel lại thấy bồn chồn. Không biết phải trông chờ gì vào hắn và cũng không biết mình đã mang tội và nóng giận đến đâu, Rachel chỉ nhìn lướt qua hắn. Ánh mắt cô dừng lại ở mắt cậu bé: đôi mắt màu nâu vàng, lông mày rậm, quanh mắt có những vết mờ, và chúng đang mở to, chắc là vì sợ hãi. “Rachel.” Ben rời khỏi bức tường, cầm từ bàn lên một chiếc đồng hồ báo thức bằng nhựa và giơ nó ra để cô kiểm chứng. “Đây là thứ mà nó đã lấy. Olivia thấy nó làm chuyện đó, và khi ngăn nó lại, tôi thấy cái đồng hồ được giấu trong áo sơ mi, đúng như cô bé nói.” “Đó là một lời nói dối khốn kiếp!” Phát ra từ thằng bé - mới chừng bảy tám tuổi, và trông không còn có vẻ gì là sợ hãi - lời sỉ nhục đó quả khiến người ta kinh ngạc. “Tôi không lấy gì cả!” “Bọn tao đã bắt quả tang mày đấy, đồ trộm nhãi con ạ! Mày không thể chối tội được đâu!” Giọng Ben đầy giận dữ. Ông quay lại vẫy vẫy cái đồng hồ trước mặt thằng bé. “Và đây cũng không phải lần đầu tiên. Mày và các bạn mày luôn luôn đến đây ăn cắp đồ.” “Bọn tôi không bao giờ lấy gì của mấy người. Ông lấy gì chứng minh là bọn tôi đã làm thế?” Giọng nói tuy nhỏ hơn nhưng vẫn tỏ ra thách thức. “Thế đấy.” Ben quay lại và lắc đầu với Rachel. “Nó còn chẳng thèm ăn năn. Nếu chúng ta không gọi cảnh sát thì chẳng khác nào mời tất cả lũ trẻ trong thị trấn đến để ăn cắp đồ của cửa hàng.” “Tôi đã nói với ông về chuyện gọi cảnh sát rồi đấy, Zeigler, và tôi sẽ làm thật đấy.” Tiếng đe dọa nhỏ phát ra từ Johnny, hắn đã trượt ra khỏi chiếc bàn để nói chuyện với họ sau khi thì thầm điều gì đó với thằng bé. “Cậu không có quyền bảo tôi phải làm gì, Harris ạ. Cậu làm cho tôi.” Lời đáp trả của Ben tuy khẽ nhưng không hề kém hung dữ. “Tôi làm cho Rachel, không phải cho ông.” Sự xấc láo trong giọng nói của Johnny đi kèm với vẻ xấc láo trong ánh mắt hắn chiếu lên Ben, khiến ông ta cứng người lại vì giận dữ. Johnny mỉm cười thách thức Ben. “Cả hai người đều làm cho tôi,” Rachel lạnh lùng nói. Cô ngẩng lên nhìn ánh mắt chằm chằm của Johnny. Ở đó, cô không thấy sự hối lỗi vì chuyện họ cãi nhau lúc trước - kể cả nỗi tức giận cũng không. Cô cũng không quên để ý thấy hắn dùng tên của cô, nhưng đây không phải là lúc tập trung vào điềm gở trong đó. “Ben nói hoàn toàn chính xác: Chính sách của cửa hàng là giao bọn trộm cướp cho cảnh sát, và đứa bé này là một trong số những đứa mà chúng tôi nghi ngờ là ăn cắp đồ của cửa hàng gần sáu tháng nay. Cuối cùng chúng ta cũng bắt được quả tang chúng. Tại sao chúng ta lại không nên gọi cảnh sác chứ?” “Bởi vì nó mới chín tuổi đầu, và nó đang sợ phát khiếp. Cô là kiểu phụ nữ gì mà có thể giao nộp một đứa trẻ cho cảnh sát chứ?” Giọng hắn đầy vẻ quở trách. “Một nữ thương gia,” Rachel rít lên và liếc nhìn đứa trẻ lần nữa. Nó có vẻ sợ, cô nghĩ vậy, khi quan sát ba người lớn nhỏ giọng tranh cãi về số phận của mình, mặc dù rõ ràng là nó đang cố gắng che giấu. Cô liếc nhìn Johnny và thấy trái tim mình bắt đầu lấn át lý trí. Nó đúng là một đứa trẻ, dẫu nó ăn nói có khó nghe đi nữa. Cô đã không nghĩ là nó mới chín tuổi. Rachel thở dài, biết rằng mình sẽ không gọi cảnh sát. “Để tôi nói chuyện với nó một phút. Tên nó là gì?” Ben nhún vai. “Thằng nhãi chẳng nói với chúng tôi nhiều đến thế đâu.” “Jeremy Watkins. Tôi biết mẹ nó.” Câu trả lời của Johnny đột ngột vang lên. “Ồ?” Rachel nhìn nó, lông mày nhướng lên. “Nhớ Glenda, cô phục vụ ở Clock không? “Ồ.” Có rất nhiều ý nghĩa trong tiếng ồ đó. Vậy ra đó là lý do tại sao Johnny bảo vệ cho thằng bé – vì mẹ nó. Chẳng hiểu sao điều này không vừa tai Rachel tí nào. Cả cái điều cô mới nhận ra là Johnny rõ ràng đã đáp lại lời mời đến chơi nhà của cô phục vụ. Đột nhiên cô nhớ lại giọng lè nhè: “Mười năm nay, bây giờ em mới có hân hạnh được đi cùng xe với một người đàn bà. Có lẽ cô đang lo lắng vì em hơi hứng tình một chút. “ Hình như hắn đã tìm ra cách để bù đắp cho sự thiếu hụt của mình. “Bố mẹ nó đang chuẩn bị ly dị. Điều đó rất khó khăn với thằng bé. Tha cho nó đi, được không?” “Tất nhiên là cậu sẽ tha thứ cho bọn tội phạm rồi, Harris. Phải chi có ai đó dằn lòng mà trừng phạt cậu từ hồi còn bé, thì cậu đã không phải vào tù rồi.” Lời thì thào của Ben không hề che giấu vẻ ác ý. “Và nếu có người sắp xếp lại mặt mũi cho ông khi ông còn nhỏ thì bây giờ ông đã không làm một thằng đầu đất ra vẻ mộ đạo rồi. Nhưng chúng ta không bao giờ biết được, đúng không?” “Sao, mày...” Hai nắm đấm của Ben siết chặt, mặt ông ta tím lại vì tức giận. “Thử đi, Zeigler. Lúc nào đây cũng sẵn sàng.” Johnny lại mỉm cười, thật khó chịu, mắt hắn sáng lên. Rachel nhận ra rằng hắn chỉ chực đánh nhau, và Ben cũng chẳng khác gì. Cô đoán rằng Ben chưa động thủ chỉ vì không dám chắc mình có hạ được gã đàn ông trẻ hơn, cao hơn và khỏe hơn kia không. “Khỉ thật, thế là đủ lắm rồi!” Rachel rất hiếm khi chửi thề. Việc họ lôi kéo cô vào chuyện này khiến cô điên tiết. “Tôi sẽ không nghe một lời nào về cuộc trao đổi này nữa. Ben, ông vui lòng quay lại cửa hàng được không? Tôi chắc là Olivia cần được giúp đỡ đấy. Còn về cậu,” - mắt cô liếc sang Johnny, gương mặt hắn không báo trước điều gì tốt đẹp - “Một lát nữa tôi sẽ nói chuyện với cậu. Trước hết tôi cần phải giải quyết thằng bé này đã.” “Cô mà không kiện thằng ranh con đó, tôi nghỉ việc.” Giọng Ben run lên vì giận dữ. “Tốt.” Từ đó là đỉnh điểm của sự chế giễu, nhưng hình như Ben không nghe thấy. Trong một thoáng, Rachel chỉ có thể phản ứng lại lời nói của Johnny bằng cái liếc xéo, vì cô còn phải cố gắng hết mình để xoa dịu người quản lý cửa hàng. “Ông buồn cười quá đấy, Ben ạ. Ông đã làm việc ở đây sáu năm rồi, và tôi không để ông nghỉ việc đâu. Nhưng tôi có quyền không gọi cảnh sát nếu tôi không cảm thấy cần thiết. Ông cũng hiểu rõ như tôi rằng chính sách nào cũng có ngoại lệ mà.” “Nếu cô không gọi cảnh sát, tôi nghỉ việc,” Ben hung hãn nhắc lại. Quay người, ông ta đi thẳng ra khỏi văn phòng.
Mùa Hè Định Mệnh Mùa Hè Định Mệnh - - Karen Robards Mùa Hè Định Mệnh