Worrying does not empty tomorrow of its troubles. It empties today of its strength.

Corrie Ten Boom

 
 
 
 
 
Tác giả: Kazuo Ishiguro
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 5930 / 605
Cập nhật: 2016-05-05 19:46:01 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 6
hắc hẳn tôi sẽ thấy dễ chịu hơn về những gì đã xảy ra nếu như Ruth tỏ ra cáu giận với tôi thẳng thừng một chút. Nhưng đây là một trường hợp mà cô chịu thua. Như thể cô quá xấu hổ về chuyện đó – bị đè bẹp vì chuyện đó – đến nỗi không còn sức giận tôi hay muốn trả đũa tôi nữa. Những lần đầu tiên tôi gặp cô sau cuộc nói chuyện dưới mái hiên, tôi đã sẵn sàng đón nhận ít ra là một chút dằn dỗi ở cô, nhưng không, cô hoàn toàn lịch thiệp, dẫu có hơi bình lặng. Tôi chợt hiểu rằng cô sợ tôi sẽ lật tẩy cô – hiển nhiên là cái bao đựng bút chì đã biến hẳn không còn thấy đâu nữa – và tôi muốn cho cô biết rằng không việc gì phải sợ tôi. Nhưng cái khó là, bởi chuyện này chưa một lần nào được nhắc tới công khai, nên tôi chẳng tìm được cách nào để nói rõ một lần mọi chuyện với Ruth.
Tuy vậy, tôi cố tận dụng mọi cơ hội để nói bóng gió với Ruth rằng cô có một vị trí đặc biệt trong lòng cô Geraldine. Chẳng hạn như có lần, khi một đám chúng tôi thèm được ra ngoài chơi bóng trong giờ nghỉ bởi có một nhóm ở lớp trên thách đấu chúng tôi. Cái kẹt của chúng tôi là trời đang mưa, nên hẳn sẽ không ai cho chúng tôi ra ngoài cả. Tuy nhiên, tôi để ý thấy cô Geraldine là một trong các giám thị đang trực, thế nên tôi nói:
"Nếu Ruth đi xin phép cô Geraldine thì có khi mình cũng được ra đấy."
Theo như tôi nhớ thì đề nghị của tôi không được hưởng ứng; có lẽ vì hầu như chẳng ai nghe thấy, bởi nhiều người trong bọn chúng tôi đang nói cùng một lúc. Nhưng quan trọng là khi nói vậy tôi đang đứng ngay sau lưng Ruth, và tôi có thể thấy cô rất vui lòng.
Rồi một lần khác, vài đứa chúng tôi đang ra khỏi một phòng học cùng với cô Geraldine thì tình cờ sao tôi lại dợm bước ra khỏi cửa ngay sau lưng cô Geraldine. Việc tôi đã làm là chậm bước lại, sao cho Ruth đang từ phía sau tiến tới có thể thay tôi mà sánh vai cô Geraldine đi qua cửa. Tôi làm vậy hoàn toàn chẳng có ý gì to tát, chỉ như thể đó là một việc tự nhiên và đáng phải làm, cũng là điều mà cô Geraldine sẽ thích – nếu như tôi tình cờ đi giữa hai người bạn thân nhất của mình thì tôi cũng làm vậy mà thôi. Lần đó, theo như tôi nhớ, Ruth tỏ vẻ bối rối và ngạc nhiên trong một thoáng, rồi gật đầu nhanh với tôi và đi ngang qua.
Những chuyện nhỏ nhặt như vậy hẳn có thể làm vui lòng Ruth, nhưng chúng còn xa mới sánh được những gì thực sự đã xảy ra giữa chúng tôi dưới mái hiên vào cái ngày mù sương đó, và cái cảm giác tôi sẽ chẳng bao giờ làm rõ được mọi chuyện cứ ngày một lớn dần. Đặc biệt là ký ức về một buổi chiều nọ tôi ngồi một mình trên một ghế băng bên ngoài ngôi đình tạ, cứ suy nghĩ miên man xem làm cách nào thoát khỏi tình trạng này, trong khi một cảm giác nặng nề trộn lẫn ân hận và thất vọng khiến tôi chực khóc. Nếu mọi chuyện vẫn tiếp diễn như thế thì tôi không biết điều gì còn xảy ra nữa. Có thể rốt cuộc rồi mọi chuyện cũng sẽ được lãng quên; mà cũng có thể tình bạn giữa Ruth và tôi sẽ hết. Thế rồi, đùng một cái, tôi lại có cơ hội để sửa chữa mọi điều.
Chúng tôi đang ở giữa một tiết học vẽ của thầy Roger, có điều vì lý do nào đó mà thầy bỏ đi đâu đấy. Thế là cả bọn chúng tôi cứ la cà giữa các khung vẽ, vừa tán chuyện vừa nhìn tranh của nhau. Thế rồi đến một lúc nào đó đứa con gái tên là Midge A. bước lại chỗ bọn chúng tôi, nói với Ruth bằng giọng hết sức thân mật:
"Cái bao đựng bút chì của cậu đâu rồi? Ngon lành quá ấy chứ."
Ruth căng thẳng liếc nhanh tứ phía để xem những ai đang có mặt. Chỉ là nhóm bạn thường ngày của chúng tôi, có chăng là đôi ba người ngoài lảng vảng gần đó. Tôi chưa hề cho ai hay chút gì về chuyện Sổ mua bán hàng, nhưng tôi cho rằng chuyện đó Ruth không biết. Giọng cô nhẹ nhàng hơn bình thường khi cô trả lời Midge:
"Mình không mang theo đây. Mình cất trong rương đồ sưu tập rồi."
"Đẹp quá chừng. Cậu kiếm đâu ra vậy?"
Giờ thì ai cũng thấy rõ, Midge gặng hỏi hoàn toàn hồn nhiên, chẳng có ý gì. Nhưng hầu như tất cả những ai trong bọn tôi từng có mặt ở Phòng 5 khi Ruth phô cái bao đựng bút chì ra lần đầu tiên thì đều có mặt ở đây, đang chăm chú nhìn, và tôi thấy Ruth ngần ngừ. Chỉ mãi sau này, khi hồi tưởng lại, tôi mới hiểu được đó là một cơ hội đã hình thành hoàn hảo đến nhường nào cho tôi. Nhưng lúc ấy tôi không thực sự nghĩ gì. Tôi chỉ xen vào trước khi Midge hay ai khác kịp nhận thấy Ruth đang trong tình trạng khó xử một cách kỳ quặc.
"Ta không thể biết nó từ đâu ra đâu."
Ruth, Midge, những người khác trong nhóm, thảy đều nhìn tôi, có lẽ hơi ngạc nhiên đôi chút. Nhưng tôi vẫn giữ bình thản mà nói tiếp, chỉ với Midge thôi:
"Có vài lý do rất chính đáng để bọn mình k hông thể cho cậu biết nó ở đâu ra."
Midge nhún vai. "Vậy thì đó là một bí ẩn."
"Một bí ẩn lớn," tôi nói, rồi mỉm cười với Midge để tỏ ra rằng tôi không có ý cáu kỉnh với cô.
Những người khác gật đầu ủng hộ tôi, mặc dù chính Ruth thì có vẻ lơ đãng, như thể cô đột nhiên đắm mình vào một cái gì đó hoàn toàn khác. Midge lại nhún vai, và theo tôi nhớ thì mọi chuyện đến đó là kết thúc. Hoặc là Midge bỏ đi, hoặc cô bắt đầu nói sang chuyện khác.
Nay thì, cũng chính vì những lý do khiến tôi không thể nói thẳng thắn với Ruth về việc tôi đã làm cho cô quanh chuyện Sổ mua bán hàng, dĩ nhiên cô cũng không thể cảm ơn tôi về cách tôi đã can thiệp trước những câu hỏi của Midge. Nhưng qua thái độ của Ruth đối với tôi, không chỉ trong mấy ngày mà cả nhiều tuần sau đó, có thể thấy rõ cô rất vui lòng với tôi. Và bởi mới đây thôi tôi cũng đã lâm vào vị thế ấy, tôi chẳng khó gì nhận ra những dấu hiệu chứng tỏ cô cứ ngóng chờ một cơ hội nào đó để làm một cái gì đó tử tế, một cái gì đó thật sự đặc biệt dành cho tôi. Đó là một cảm giác dễ chịu, và tôi nhớ rằng thậm chí đã có một, hai lần tôi nghĩ nếu như cô mãi một thời gian dài vẫn không tìm được cơ hội nào cả thì sẽ tốt hơn nhiều, bởi nếu vậy thì cảm giác dễ chịu kia sẽ cứ kéo dài mãi. Nhưng rồi, một cơ hội đã đến cho Ruth, khoảng chừng một tháng sau vụ Midge, lúc tôi đánh mất băng nhạc mà tôi ưa thích.
o O o
Tôi vẫn còn một bản sao của cuốn băng đó và mãi gần đây tôi mới tình cờ nghe lại nó trong khi lái xe ngoài đồng trống vào một ngày mưa phùn. Nhưng dạo này cái máy nghe nhạc trong xe tôi đâm ra hay dở chứng đến nỗi máy nghe nhạc trong xe tôi đâm ra hay dở chứng đến nỗi tôi không dám dùng nó nữa. Còn đến khi về lại căn hộ thuê thì hầu như chẳng bao giờ tôi có thời gian nghe nhạc cả. Dù vậy đi nữa cuốn băng vẫn là một trong những vật sở hữu quý giá nhất của tôi. Có thể đến cuối năm nay, khi không còn làm người chăm sóc nữa, tôi sẽ có thể nghe nó thường xuyên hơn.
Cuốn album đó có tựa đề Những bài hát sau lúc hoàng hôn của Judy Bridgewater. Cuốn mà tôi có hiện nay không phải là cuốn tôi từng có hồi ở Hailsham, cuốn mà tôi đánh mất. Đó là cuốn băng mà Tommy và tôi đã tìm được ở Norfolk nhiều năm sau đó – nhưng đó là một chuyện khác, sẽ kể sau. Cái tôi muốn nói bây giờ là cuốn băng đầu tiên, cuốn băng đã biến mất dạo đó.
Tôi sẽ giải thích trước khi kể tiếp về toàn bộ câu chuyện của chúng tôi hồi đó ở Norfolk. Chúng tôi đã duy trì chuyện đó hết năm này qua năm khác – nó trở thành một thứ chuyện đùa của riêng nhóm chúng tôi, tôi cho là vậy –, và mọi chuyện đã khởi đầu từ một bài học cụ thể của chúng tôi hồi chúng tôi còn khá nhỏ.
Chính cô Emily đã dạy chúng tôi về các hạt của nước Anh. Cô ghim một tấm bản đồ to lên bảng rồi đặt một cái giá vẽ bên cạnh. Thế rồi, nếu đang nói về hạt Oxfordshire chẳng hạn, cô lại đặt lên giá vẽ một cuốn lịch to có ảnh chụp của hạt đó. Cô có cả một bộ sưu tập ra trò những bức ảnh như vậy, và bằng cách đó chúng tôi rong ruổi qua hầu hết các hạt của nước Anh. Mỗi khi lấy thước trỏ vào một điểm trên bản đồ, cô lại quay sang cái giá vẽ, lật một bức ảnh khác ra. Có những ngôi làng nhỏ có dòng suối chảy, có những tượng đài màu trắng trên sườn đồi, nhà thờ cổ bên những cánh đồng; nếu đang kể với chúng tôi về một nơi bên bờ biển thì lại có các bãi biển đông nghịt người, những vách đá với bầy mòng biển. Tôi cho rằng cô muốn chúng tôi thấu hiểu có những gì xung quanh chúng tôi, và thật lạ rằng mãi đến bây giờ, sau khi tôi đã băng qua ngần ấy dặm đường với tư cách người chăm sóc, ý niệm của tôi về những hạt kia vẫn cứ nằm trong khuôn khổ được sắp đặt sẵn bởi những bức ảnh của cô Emily bày lên giá vẽ thuở trước. Chẳng hạn, trong khi dong xe qua hạt Derbyshire và bắt gặp mình đang tìm một ngôi làng cụ thể màu xanh với một quán rượu mô phỏng kiến trúc Tudor và một đài tưởng niệm chiến tranh, tôi mới nhận ra đó chính là hình ảnh mà cô Emily đã cho chúng tôi xem khi lần đầu tiên tôi nghe nói tới hạt Derbyshire này.
Dù sao đi nữa, vấn đề ở chỗ vần có một chỗ khuyết trong bộ sưu tập lịch của cô Emily: chẳng cuốn nào có dù chỉ một bức ảnh về Norfolk. Chúng tôi đã nghe trong cùng một bài giảng đó lặp đi lặp lại mấy lần, lần nào tôi cũng tự hỏi lần này cô có tìm được bức ảnh nào về Norfolk không, nhưng lúc nào cũng y như vậy. Cô chỉ khua thước nhỏ trên bản đồ mà nói như thể mãi mới nghĩ được để thêm vào: "Còn ở đây là Norfolk. Ở đó đẹp lắm."
Thế rồi, vào đúng lần ấy, tôi nhớ cô đã ngừng lại mà đắm mình suy nghĩ, có lẽ vì cô chưa lên kế hoạch điều gì sẽ diễn ra sau đó nếu không có ảnh. Cuối cùng cô ra khỏi giấc mơ và lại gõ gõ lên bản đồ.
"Các em thấy đó, bởi Norfolk nhô ra ở bờ phía Đông, trên cái gò nhô ra biển này, thành thử nó không nằm trên đường đi đến đâu cả. Thiên hạ vào Nam ra Bắc," cô dịch cái thước trỏ lên xuống, "thì kiểu gì cũng đi vòng qua nó. Vì vậy mà nó là một góc yên bình của nước Anh, khá đẹp. Nhưng đó cũng có phần là một góc xa xôi, góc khuất 1."
Một góc khuất. Cô gọi Norfolk như vậy, và chuyện đã khởi đầu như vậy. Bởi vì ở Hailsham, chúng tôi có một "Góc thất lạc" trên lầu ba nơi giữ những món đồ thất lạc; hễ đánh mất hay tìm được cái gì, ta lại đi lên đó. Có ai đó – tôi không nhớ là ai – sau buổi học đã nói rằng khi cô Emily nói Norfolk là "góc khuất", ấy là cô bảo Norfolk là "góc khuất" của nước Anh, nơi tất cả những món đồ bị thất lạc trong cả nước mà tìm lại được đều tập trung về. Bằng cách nào đó cái ý tưởng này được mọi người ưa chuộng và chẳng mấy chốc đã trở thành sự thực được thừa nhận hầu như trong suốt năm học của chúng tôi.
Cách đây chưa lâu, khi Tommy và tôi hồi tưởng lại, anh ấy cho rằng hồi đó chúng tôi chưa bao giờ thực sự tin vào chuyện đó, rằng ngay từ đầu đó chỉ là một trò đùa thôi. Nhưng tôi khá tin chắc rằng về điểm này thì anh lầm. Không có gì phải nghi ngờ rằng khi chúng tôi lên mười hai, mười ba tuổi, toàn bộ câu chuyện Norfolkđã thực sự chuyển thành một trò đùa. Nhưng trong ký ức của tôi về chuyện đó – và ngay cả Ruth cũng nhớ y như vậy – thì lúc đầu chúng tôi tin vào chuyện Norfolk một cách hết sức thành thực; rằng cũng như các xe tải chở thực phẩm và các thứ khác đến Hailsham để bày bán tại những cuộc Bán hàng, cũng có một hoạt động nào đó tương tự đang diễn ra, chỉ có điều ở quy mô lớn hơn, với những chiếc xe rong ruổi khắp nước Anh, chở tất cả những gì người ta bỏ quên trên những cánh đồng, và các đoàn tàu hỏa đến cái nơi gọi là Norfolk đó. Việc chúng tôi chưa bao giờ thấy một bức ảnh nào về Norfolk càng làm tăng thêm sự bí ẩn nơi này.
Nghe thì có vẻ hơi ngớ ngẩn, song bạn cần phải nhớ rằng đối với chúng tôi ở giai đoạn đó của cuộc đời, bất cứ nơi nào bên ngoài Hailsham đều như một vùng đất trong truyện thần kỳ; chúng tôi chỉ có ý niệm hết sức mơ hồ về thế giới bên ngoài và những gì có thể hoặc không thể xảy ra ở đó. Ngoài ra, chúng tôi chẳng hề bận tâm đến việc kiểm chứng bất kỳ chi tiết nào trong cái lý thuyết của mình về Norfolk. Điều quan trọng với chúng tôi, như Ruth đã nói vào một buổi chiều chúng tôi ngồi trong căn phòng lát gạch ở Dover, vừa nói vừa nhìn hoàng hôn, ấy là "khi ta đánh mất một cái gì đó quý báu rồi cứ tìm hoài tìm mãi mà không thấy, ta cũng không cần phải quá đau khổ. Ta vẫn còn chút an ủi cuối cùng kia, khi nghĩ rằng một ngày nào đó, khi ta lớn lên và có thể tự do đi khắp nước, ta sẽ luôn luôn có thể đi tìm lại nó ở Norfolk."
Tôi tin chắc Ruth có lý về điều này. Norfolk đã trở thành một nguồn an ủi thực sự cho chúng tôi, có lẽ còn hơn nhiều so với chúng tôi thừa nhận vào hồi đó, và chính vì vậy chúng tôi vẫn nói mãi về nó – dù chỉ như một thứ chuyện đùa – ngay cả khi đã lớn hơn nhiều. Và vì vậy mà, nhiều năm sau, cái ngày Tommy và tôi tìm thấy một bản khác của cuốn băng mà tôi đánh mất ở một thị trấn ven biển hạt Norfolk, chúng tôi không chỉ thấy chuyện ấy ngồ ngộ; cả hai chúng tôi đều cảm thấy một cảm xúc mạnh mẽ sâu trong tâm khảm, một ước ao xưa cũ muốn lại tin vào một điều đã có thời thân thiết với trái tim chúng tôi.
o O o
Nhưng tôi muốn kể về cuốn băng của tôi. Những bài hát sau lúc hoàng hôn của Judy Bridgewater. Tôi nghĩ thoạt tiên nó là loại đĩa nhạc 33 vòng 1/3 – thu vào năm 1956 – nhưng cuốn mà tôi có là băng cát-xét thu lại, và hình bìa chắc hẳn là phiên bản thu nhỏ của cái bìa đĩa gốc. Judy Bridgewater mặc áo váy bằng vải xa tanh màu tía, một trong những bộ áo váo hở vai thông dụng vào thời đó, và ta chỉ thấy thân hình bà từ thắt lưng trở lên bởi bà đang ngồi bên quầy rượu. Hình như hồi đó tôi cứ nghĩ đấy là Nam Mỹ, vì sau lưng bà có những cây cọ và những anh bồi da ngăm đen mặc áo tuxedo màu trắng. Ta nhìn Judy từ chính nơi người pha chế rượu hẳn đã đứng khi mang rượu cho bà. Bà đang quay đầu lại một cách thân ái, không quá gợi cảm, như thể bà hẳn đang đùa một tí, nhưng ta là một ai đó mà bà đã biết từ lâu lắm. Cái bìa ấy còn một điều, đó là Judy chống cùi chỏ lên bàn và có một điếu thuốc đang cháy dở trong tay bà. Và chính vì điếu thuốc này mà tôi đâm giữ kín đế vậy về cuốn băng đó, ngay từ lúc tôi tìm thấy nó ở cuộc Bán hàng.
Tôi không biết hồi ở trường các bạn thì sao, chứ ở Hailsham các giám thị rất khắt khe về chuyện hút thuốc. Tôi tin chắc giá như chúng tôi không bao giờ phát hiện rằng trên đời này có cái gọi là hút thuốc thì họ sẽ thích lắm; song bởi điều đó là không thể nên hễ mỗi khi có ai nhắc tới chuyện hút thuốc thì họ lại cẩn thận giảng cho chúng tôi một hồi. Thậm chí mỗi khi chúng tôi được cho xem ảnh một nhà văn nổi tiếng hoặc một chính khách nước ngoài nào đó mà tình cờ trên tay họ lại có điếu thuốc thì toàn bộ buổi học sẽ chững lại. Thậm chí còn có lời đồn rằng một vài cuốn sách kinh điển – kiểu Sherlock Holmes chẳng hạn – không có trong thư viện của chúng tôi vì các nhân vật chính hút thuốc quá nhiều, và mỗi khi ta bắt gặp một trang sách bị xé ra khỏi cuốn sách tranh hay tạp chí nào đó, ấy là bởi trên trang đó có tranh hay ảnh một người đang hút thuốc. Rồi lại có những bài học hẳn hoi, ở đó người ta cho chúng tôi xem những bức ảnh kinh khiếp để thấy việc hút thuốc có hại thế nào đến nội tạng mình. Chính vì vậy mà khi Marge K. hỏi cô Lucy câu hỏi đó, ấy quả là một cú sốc lớn.
Chúng tôi đang ngồi trên bãi cỏ sau một trận bóng và cô Lucy đang giảng cho chúng tôi về chuyện hút thuốc như mọi khi thì Marge K. đột nhiên hỏi bản thân cô Lucy đã bao giờ hút thuốc chưa. Cô Lucy lặng thinh mất mấy giây. Đoạn cô nói:
"Giá như cô có thể nói là không. Nhưng, nói thật, cô đã từng hút chút đỉnh. Trong vòng khoảng hai năm, hồi cô còn trẻ."
Bạn có thể hình dung điều đó gây sốc đến nhường nào. Trước khi cô Lucy trả lời, tất cả chúng tôi đều dán mắt vào Marge, thực sự phẫn nộ so nó dám hỏi một câu hỗn hào đến vậy – đối với chúng tôi, hỏi thế chả khác nào hỏi liệu cô Lucy đã bao giờ cầm rìu tấn công ai đó chưa. Và tôi nhớ suốt nhiều ngày sau đó chúng tôi đã làm tình làm tội Marge đủ điều; thực tế là, sự kiện mà tôi đã nhắc tới trước đây, cái đêm chúng tôi buộc Marge phải trông ra ngoài cửa sổ phòng ngủ mà nhìn khu rừng, đó chỉ là một phần cuả những gì xảy ra sau vụ đó. Nhưng đồng thời, khi cô Lucy đáp rằng cô đã từng hút thuốc, tất cả chúng tôi bối rối đến nỗi không thể nghĩ gì hơn về Marge. Hẳn là tất cả chúng tôi đều khiếp đảm nhìn cô Lucy trân trối, chờ xem cô sẽ nói thêm gì nữa.
Khi lại lên tiếng, cô Lucy dường như cẩn thận cân nhắc từng từ một. "Chuyện cô từng hút thuốc thật không hay. Không hay thành thử cô mới thôi không hút nữa Nhưng các em cần phải hiểu rằng đối với các em, tất cả các em, hút thuốc sẽ có hại hơn rất nhiều so với cô."
Rồi cô ngừng lời và đâm lặng thinh. Về sau có người nói cô lại mơ màng nghĩ đến chuyện gì đó, nhưng tôi tin khá chắc, cũng như Ruth, rằng cô đang nghĩ rất lung xem sau đó phải nói gì. Cuối cùng cô nói:
"Các em đã được cho biết điều đó rồi. Các em là học sinh. Các em… đặc biệt. Cho nên giữ mình thật tốt, giữ cho bản thân mình thật khỏe mạnh ở bên trong, việc đó đối với mỗi đứa các em là quan trọng hơn nhiều so với cô."
Cô lại ngừng lời, nhìn chúng tôi một cách kỳ lạ. Về sau, khi bàn lại về chuyện đó, vài người trong bọn tôi tin chắc cô đang ngong ngóng đợi ai đó trong chúng tôi hỏi: "Tại sao? Tại sao lại có hại hơn nhiều đối với chúng em?" Nhưng không ai hỏi. Tôi thường nghĩ về cái ngày ấy, và giờ đây, dưới ánh sáng những gì xảy ra sau đó, tôi tin chắc rằng chỉ cần chúng tôi hỏi vậy là cô Lucy sẽ kể với chúng tôi tất cả mọi điều. Chỉ cần hỏi thêm một câu về chuyện hút thuốc mà thôi.
Vậy thì tại sao chúng tôi đã im lặng ngày hôm ấy? Có lẽ là vì ở tuổi đó – khi đó chúng tôi lên chín hay mười tuổi – chúng tôi chỉ biết vừa đủ để cảnh giác về toàn bộ đề tài này. Nay thì thật khó mà nhớ được hồi đó chúng tôi biết đến ngần nào. Nhất định là chúng tôi biết – mặc dù chẳng lấy gì làm sâu sắc cho cam – rằng chúng tôi khác với các giám thị của chúng tôi, và cũng khác những người thường ở bên ngoài nữa; có lẽ chúng tôi đã biết rằng về lâu dài chúng tôi sẽ đi đến chỗ hiến tạng mà thôi. Nhưng chúng tôi vẫn không thực sự biết điều đó có nghĩa là gì. Chúng tôi ghét cái kiểu các giám thị, hơn bất kỳ chuyện nào khác, luôn trở nên lúng túng bất cứ khi nào chúng tôi mon men đến gần lĩnh vực này. Thực sự là chúng tôi mất tự tin khi thấy họ thay đổi như thế. Tôi nghĩ chính vì vậy chúng tôi chẳng bao giờ hỏi thêm câu kia, và bởi vậy chúng tôi mới trừng phạt Marge K. tàn nhẫn đến thế, vì tội đã khơi chuyện ấy ra vào hôm đó sau trận bóng.
o O o
Dù sao đi nữa, chính vì vậy tôi mới đâm kín tiếng đến thế về cuốn băng. Thậm chí tôi còn quay mặt trong bìa cuốn băng ra ngoài để chi khi nào mở cái hộp nhựa ra người ta mới thấy Judy và điếu thuốc của bà ta. Nhưng lý do khiến cuốn băng có ý nghĩa nhiều với tôi đến thế chẳng có liên quan gì đến điếu thuốc, thậm chí cũng chẳng liên quan gì đến lối hát của Judy Bridgewater – bà là một ca sĩ ở thời của bà, kiểu ca sĩ quán rượu, không phải loại mà bọn chúng tôi ở Hailsham ưa thích. Điều khiến cuốn băng trở nên đặc biệt đến thế với tôi là một bài cụ thể trong đó, bài số ba, "Mãi đừng xa mẹ".
Bài đó chậm, về đêm và là bài của Mỹ, và có một đoạn cứ trở đi trở lại khi Judy hát: "Mãi mãi đừng xa mẹ nhé… Ôi con yêu, mãi mãi đừng xa mẹ nhé…" Hồi đó tôi mười một tuổi và chưa nghe nhiều nhạc lắm, nhưng riêng bài này, nó thực sự đi vào lòng tôi. Tôi luôn luôn cố giữ sao cho cuốn băng quay đến đúng chỗ đó, để bất cứ khi nào có dịp là có thể nghe bài đó ngay.
Những cơ hội tôi không có nhiều, bạn nhớ cho, hồi ấy là vài năm trước khi những chiếc máy Walkman bắt đầu xuất hiện ở các cuộc Bán hàng. Có một chiếc máy nghe nhạc to trong phòng bi-a, nhưng tôi hiếm khi nghe cuốn băng ở đó bởi phòng bi-a luôn luôn đông nghẹt người. Phòng vẽ cũng có một chiếc máy nghe băng, nhưng chỗ đó cũng thường ồn ào chẳng kém. Chỗ duy nhất tôi có thể nghe cho ra nghe là trong phòng ngủ.
Hồi đó chúng tôi đã được phân thành từng phòng ngủ gồm sáu giường trong những căn riêng, và ở phòng chúng tôi có một chiếc máy cát-xét xách tay đặt ở giá phía trên lò sưởi. Vì vậy đó là nơi tôi thường tới, những hôm không có ai khác ở xung quanh, để nghe bài hát của tôi, nghe đi nghe lại.
Bài hát đó có gì đặc biệt đến vậy? Thật ra thì tôi thường không chú ý nghe lời bài hát lắm; tôi chỉ đợi đến chỗ có cái câu kia: "Con ơi, con, mãi mãi đừng xa mẹ nhé…" Khi đó tôi thường hình dung một người phụ nữ vừa được người ta cho hay cô không thể có con, mà cô thì suốt đời tha thiết muốn có con. Thế rồi có một thứ phép màu xảy ra và cô có một đứa con, và cô ôm chặt đứa bé vào lòng, vừa đi tới đi lui vừa hát: "Con ơi, mãi mãi đừng xa mẹ nhé…" một phần bởi cô quá đỗi hạnh phúc, nhưng cũng vì cô quá sợ rằng một chuyện gì đó sẽ xảy ra, khiến đứa bé sẽ đau ốm hoặc bị mang đi khỏi cô. Thậm chí ngay hồi đó tôi cũng đã nhận ra rằng điều đó chẳng thể đúng được, rằng cách diễn giải này không khớp với phần còn lại của lời hát. Nhưng điều đó không thành vấn đề đối với tôi. Bài hát chính là nói về những gì tôi đã nói, và tôi thường nghe nó, nghe đi nghe lại mãi, chỉ một mình, bất cứ khi nào có dịp.
Có một sự kiện kỳ lạ xảy ra trong khoảng thời gian này, tôi sẽ kể cho các bạn ở đây. Nó làm tôi thực sự hoang mang, và mặc dù mãi nhiều năm sau tôi vẫn không sao tìm ra được ý nghĩa đích thực của nó, song có lẽ ngay từ hồi đó tôi đã cảm nhận được nó có một tầm quan trọng sâu xa hơn.
Đó là một buổi chiều rợp nắng, tôi đang đi về phòng ngủ để lấy cái gì đó. Tôi nhớ lúc đó trời sáng rõ đến thế nào bởi các bức rèm trong phòng chúng tôi không được kéo lại cho đúng cách nên ta vẫn thấy mặt trời rọi từng tia lớn vào phòng, thấy được cả những hạt bụi trong không khí. Tôi không định nghe cuốn băng đó, nhưng vì tôi đang chỉ một mình nên có một thôi thúc khiến tôi lấy cuốn băng ra khỏi bộ sưu tập băng rồi đặt vào máy.
Có lẽ ai đó dùng máy lần cuối đã vặn âm lượng lên, tôi không biết. Nhưng bài hát nghe to hơn nhiều so với tôi thường nghe và có lẽ vì vậy mà tôi mãi không nghe thấy tiếng bà ta. Hoặc cũng có thể khi đó tôi quá mê mải với chính mình. Dù sao đi nữa, lúc ấy tôi đang đung đưa chầm chậm theo nhịp bài hát, tay ôm chặt một đứa bé tưởng tượng vào ngực. Thật ra, chuyện chỉ càng thêm khó xử vì lúc đó, cũng như vài lần khác, tôi lấy một cái gối để thay cho đứa bé, cứ thế mà chầm chậm múa, mắt nhắm lại, hát khẽ theo mỗi khi lại đến cái câu kia:
"Ôi, con ơi, mãi mãi đừng xa mẹ nhé…"
Bài hát đã gần như kết thúc thì mới có cái gì đó khiến tôi nhận ra rằng mình không chỉ có một mình. Mở mắt ra, tôi thấy mình đang nhìn thẳng vào Madame lúc đó đang đứng ngay ở khung cửa.
Tôi đờ người ra vì sốc. Thế rồi trong khoảng một hay hai giây gì đó tôi bắt đầu cảm thấy một nỗi lo sợ mới, bởi tôi nhận thấy có cái gì đó kỳ lạ trong tình huống này. Cửa hầu như mở một nửa – có một thứ gần như thành quy tắc là chúng tôi không được đóng kín cửa phòng ngủ ngoại trừ khi đã ngủ – nhưng Madame hầu như vẫn chưa bước hẳn vào ngưỡng cửa. Bà ta vẫn còn ở ngoài hành lang, đứng rất im, đầu nghiêng sang một bên để xem tôi đang làm gì trong phòng. Và điều lạ là bà ta khóc. Thậm chí có lẽ chính một trong những tiếng nấc của bà ta đã xuyên qua bài hát mà giật tôi ra khỏi giấc mơ.
Khi nghĩ lại chuyện đó lúc này, tôi cảm thấy hình như, dẫu không phải là giám thị nhưng bà ta là người lớn, đáng lẽ bà ta nên nói hoặc làm gì đó, dù là bảo tôi thôi đi. Được vậy thì tôi đã biết phải ứng xử thế nào. Nhưng bà ta vẫn cứ đứng đó, vừa nức nở không thôi vừa nhìn tôi đăm đăm qua khung cửa bằng chính cái nhìn mà bà ta vẫn luôn nhìn chúng tôi, như thể bà ta đang thấy một cái gì đó khiến bà sởn gai ốc. Chỉ có điều lần này còn có một cái gì khác, một cái gì khác nữa trong cái nhìn ấy mà tôi không thể hiểu.
Tôi không biết phải làm gì hoặc nói gì, cũng chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra sau đó. Có lẽ bà ta sẽ bước hẳn vào phòng, nạt nộ tôi, có khi còn đánh tôi nữa, chịu không biết được. Thế nhưng bà ta chỉ quay đi, và khoảnh khắc sau tôi đã nghe tiếng bước chân bà ta ra khỏi căn nhà. Tôi nhận ra rằng cuốn băng đã chuyển sang bài kế tiếp, tôi liền tắt máy rồi ngồi xuống chiếc giường gần nhất. Khi ngồi xuống, tôi nhìn thấy qua khung cửa sổ trước mặt bóng dáng bà ta tất tả đi về phía nhà chính. Bà ta không ngoái lại, nhưng nhìn tấm lưng bà khom xuống thì tôi biết bà vẫn khóc.
Khi quay lại chỗ đám bạn sau đó ít phút, tôi chẳng nói gì với chúng về chuyện đã xảy ra. Có người nhận thấy tôi không được ổn và nói gì đó, nhưng tôi chỉ nhún vai rồi vẫn im lặng. Không hẳn là xấu hổ, nhưng cảm giác của tôi hơi giống với cảm giác lần trước, khi cả bọn chúng tôi rình sẵn Madame trong sân khi bà ta ra khỏi xe. Điều tôi mong mỏi hơn hết là sao cho chuyện đã đã chẳng bao giờ xảy ra, và tôi nghĩ rằng bằng cách không nhắc tới nó, tôi đang làm cho chính mình và cho mọi người khác một ân huệ.
Tuy nhiên, khoảng hai năm sau tôi có kể cho Tommy về chuyện đó. Đó là khoảng mấy hôm sau lần chúng tôi nói chuyện bên bờ ao khi cậu ấy lần đầu tiên thú nhận với tôi về cô Lucy; đó là những ngày mà – theo tôi hiểu – chúng tôi bắt đầu thổ lộ với nhau về tất cả những băn khoăn và câu hỏi tự đặt ra về bản thân mình, việc mà hai chúng tôi vẫn duy trì trong suốt những năm qua. Khi tôi kể với Tommy về chuyện xảy ra với Madame trong phòng ngủ, cậu đưa ra một cách giải thích khá đơn giản. Cho tới khi đó, dĩ nhiên tất cả chúng tôi đã biết đôi điều mà hồi ấy tôi không biết, đó là không ai trong chúng tôi có thể có con. Cũng có thể bằng cách nào đó mà ngay từ nhỏ tôi đã manh nha biết điều này nhưng không hoàn toàn ý thức được, chính vì vậy mà khi nghe bài hát ấy tôi mới cảm nhận như thế. Nhưng hồi ấy thì tôi không thể biết rạch ròi như vậy. Như tôi đã nói, cho đến khi Tommy và tôi bàn chuyện đó thì tất cả chúng tôi đã được người ta cho biết khá tỏ tường. Nhân thể nói thêm, không ai trong chúng tôi đặc biệt băn khoăn về điều đó; sự thực là, theo tôi nhớ có vài người tỏ ra hài lòng rằng chúng tôi vẫn có thể sinh hoạt tình dục mà không bận tâm gì đến chuyện con cái nọ kia – mặc dù tình dục cho đúng nghĩa vẫn còn là một cái gì xa xôi đối với hầu hết chúng tôi ở giai đoạn đó. Dù sao đi nữa, khi tôi kể với Tommy về chuyện đã xảy ra, cậu ấy nói:
"Có lẽ Madame không phải là người xấu, cho dù bà ta rất tởm. Cho nên khi bà ta thấy cậu ôm đứa bé mà múa như vậy, bà ta nghĩ cảnh này thật bi thảm, bởi cậu không thể có con được. Chính vì vậy mà bà ta khóc."
"Nhưng Tommy à, làm sao bà ta biết bài hát đó liên quan đến chuyện người ta có con kia chứ?" tôi chỉ ra. "Làm sao bà ta biết cái gối mà mình đang ôm là để thay cho một đứa bé? Cái đó chỉ nằm trong đầu mình thôi mà."
Tommy nghĩ một chút, rồi nói với vẻ nửa đùa nửa thật: "Có thể Madame đọc được tâm tư người khác. Bà ta lạ lắm. Có thể bà ta nhìn thấu tâm can cậu. Nếu có chuyện ấy mình chẳng lấy làm lạ đâu."
Nghĩ vậy cả hai chúng tôi rùng mình một chút, và mặc dù cười khúc khích nhưng chúng tôi chẳng nói gì thêm về chuyện đó.
o O o
°
Cuốn băng biến mất chừng hai tháng sau vụ với Madame. Hồi đó tôi không hề nghĩ rằng hai chuyện đó có liên hệ với nhau, nhưng nay thì tôi có lý do để nghĩ vậy. Có một đêm tôi ở trong phòng ngủ, ngay trước giờ tắt đèn, đang lục lọi rương đồ sưu tập của mình để giết thì giờ cho đến khi những người khác đi tắm về. Cũng lạ, nhưng khi vừa mới nhận ra cuốn băng không còn đó nữa, ý nghĩ đầu tiên của tôi là không được để lộ ra mình hoảng hốt đến thế nào. Tôi nhớ thậm chí mình còn cố tình ngâm nga nho nhỏ một cách lơ đãng trong khi tìm kiếm cuốn băng. Tôi đã nghĩ về chuyện này khá nhiều nhưng cho mãi đến giờ vẫn không biết giải thích ra sao cả: trong phòng đó có những người bạn thân nhất của tôi, thế nhưng tôi không muốn họ biết tôi hoang mang đến nhường nào vì chuyện cuốn băng thất lạc.
Tôi cho rằng điều đó hẳn liên quan đến chuyện nó là một bí mật, vì nó có quá nhiều ý nghĩa với tôi. Có lẽ tất cả bọn chúng tôi ở Hailsham đều có những bí mật nho nhỏ như vậy – những góc riêng nho nhỏ được tạo ra từ không khí, nơi chúng tôi có thể rút về một mình với những nỗi sợ và niềm khao khát. Nhưng bản thân việc có những nhu cầu như vậy thì hồi đó chúng tôi lại thấy là sai trái – như thể mình đang bỏ rơi bè bạn.
Dù sao thì, khi đã tin chắc cuốn băng không còn nữa, tôi hỏi từng người khác ở chung phòng, với vẻ rất ngẫu nhiên thôi, xem họ có thấy nó đâu không. Tôi vẫn chưa hoàn toàn quẫn trí vì vẫn có khả năng tôi đã bỏ quên nó trong phòng bi-a; không thì tôi hy vọng có ai đó mượn cuốn băng, đến sáng là sẽ trả.
Thế nhưng sang ngày hôm sau cuốn băng không xuất hiện và tôi vẫn chưa hiểu điều gì đã xảy ra cho nó. Thực ra thì tôi cho rằng ở Hailsham tình trạng ăn cắp vặt khá là nghiêm trọng nhưng chúng tôi – hay các giám thị – không muốn thừa nhận là nghiêm trọng. Nhưng lý do để tôi nhắc tới chuyện này là để giải thích về Ruth và cách phản ứng của cô. Bạn cần nhớ rằng tôi bị mất cuốn băng chưa đầy một tháng sau cái lần Midge gặng hỏi Ruth ở Phòng Vẽ về cái bao đựng bút chì và tôi đã xuất hiện để cứu nguy. Từ đó trở đi, như tôi đã kể, Ruth luôn ngong ngóng làm một cửa chỉ đẹp gì đó đáp lại tôi, và việc cuốn băng biến mất là cả một cơ hội tốt cho cô. Thậm chí bạn có thể nói rằng cho mãi đến khi cuốn băng của tôi thất lạc, mọi chuyện mới trở lại bình thường giữa chúng tôi – có lẽ lần đầu tiên kể từ buổi sáng trời ưa khi tôi nhắc đến cuốn Sổ mua bán hàng với cô dưới mái hiên ngôi nhà chính.
Vào cái đêm đầu phát hiện cuốn băng đã thất lạc, tôi đã hỏi tất cả mọi người về nó, và trong số đó dĩ nhiên có Ruth. Giờ nhớ lại, tôi có thấy rằng ngay lúc đó, ngay ở đó, cô đã hiểu được đích xác việc mất cuốn băng có ý nghĩa thế nào đối với cô, đồng thời cũng hiểu điều quan trọng với tôi là làm sao chuyện này đừng trở thành một vụ om sòm. Thế nên đêm đó cô chỉ trả lời bằng một cái nhún vai lơ đãng rồi lại làm tiếp việc đang làm. Thế sáng hôm sau, khi đi tắm về, tôi nghe tiếng cô – bằng một giọng bình thường, như thể điều đó chẳng có gì ghê gớm lắm – đang hỏi Hannah xem có chắc là nó không nhìn thấy cuốn băng của tôi không.
Thế rồi có lẽ sau đó hai tuần, khi từ lâu tôi đã cố quen với chuyện đã thực sự mất cuốn băng, Ruth lại đến gặp tôi trong giờ nghỉ ăn trưa. Hôm ấy là một trong những ngày đầu tiên thực sự đẹp trời mùa xuân năm đó, và tôi đang ngồi trên bãi cỏ trò chuyện với đôi ba bạn gái lớn tuổi hơn. Khi Ruth lại gần hỏi tôi có muốn đi dạo một chút không, rõ ràng cô đang có một ý gì đó cụ thể trong đầu. Thế là tôi để mấy bạn lớn kia lại mà theo Ruth đi ra rìa Sân chơi phía Bắc, sau đó đi lên ngọn đồi phía Bắc, cho tới khi đứng bên hàng rào gỗ mà nhìn xuống dải cây cối màu xanh điểm lỗ đỗ những nhóm học sinh ở dưới kia. Trên đỉnh đồi đang có gió mạnh, và tôi nhớ lúc đó mình lấy làm lạ lắm bởi khi ngồi trên bãi cỏ thì tôi không cảm thấy gió. Chúng tôi đứng đó nhìn xuống mặt đất một hồi lâu, rồi cô đưa cho tôi một cái túi con. Khi cầm lấy, tôi có thể nói ngay rằng bên trong có một cuộn băng cát-xét và tim tôi đập rộn lên. Nhưng Ruth đã nói ngay:
"Kathy à, đây không phải cuốn băng của cậu đâu. Cuốn mà cậu làm mất ấy. Mình đã cố tìm cho cậu, nhưng thực sự là nó đi rồi."
"Ừ. Nó đi về Norfolk," tôi nói.
Cả hai chúng tôi phá lên cười. Đoạn tôi lấy cuốn băng từ trong cái túi ra với vẻ thất vọng, và tôi không chắc trong khi xem xét cuốn băng thì liệu sự thất vọng ấy có không còn trên mặt tôi không.
Tôi đang cầm trên tay một cái gọi là Hai mươi điệu nhảy cổ điển. Khi nghe nó về sau, tôi phát hiện rằng nó toàn các bản hòa tấu nhạc khiêu vũ. Dĩ nhiên, vào thời điểm Ruth đưa nó cho tôi, tôi không biết nó là loại nhạc nào, nhưng tôi đã biết nó hoàn toàn chẳng có gì giống Judy Bridgewater. Thế rồi, một lần nữa, hầu như ngay lập tức, tôi nhận ra rằng Ruth không thể biết điều ấy được – rằng với Ruth, kẻ hoàn toàn chẳng biết mô tê gì về nhạc, cuốn băng này ắt sẽ dễ dàng bù đắp cho cuốn băng tôi đã mất. Và đột nhiên tôi cảm thấy nỗi thất vọng vơi đi, được thay bằng một niềm hạnh phúc thực sự. Chúng tôi không hay làm những chuyện như ôm nhau ở Hailsham. Nhưng tôi đã siết chặt một bàn tay của Ruth trong cả hai tay mình mà nói cám ơn cổ. Ruth nói: "Mình tìm được nó ở cuộc Bán hàng vừa rồi. Mình chỉ nghĩ loại này chắc cậu sẽ thích." Và tôi nói, phải, đây chính là loại mà tôi thích.
Đến giờ tôi vẫn giữ cuốn băng đó. Tôi không hay nghe nó bởi thứ nhạc đó chẳng liên quan đến bất cứ cái gì. Nó là một món đồ, cũng như cái trâm hay cái nhẫn, và nhất là giờ đây khi Ruth đã ra đi, nó trở thành một trong những vật sở hữu quý giá nhất của tôi.
Chú thích
1.Góc khuất: Ở đây có sự chơi chữ không dịch được: "lost corner" trong nguyên bản vừa có nghĩa là một góc/ một nơi xa xôi, khuất nẻo, vừa có nghĩa là góc (hay phòng) nơi người ta thu thập các món đồ bị thất lạc và có thể đến tìm lại những gì mình đánh mất – ND.
Mãi Đừng Xa Tôi Mãi Đừng Xa Tôi - Kazuo Ishiguro Mãi Đừng Xa Tôi