People sacrifice the present for the future. But life is available only in the present. That is why we should walk in such a way that every step can bring us to the here and the now.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Kazuo Ishiguro
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 5930 / 605
Cập nhật: 2016-05-05 19:46:01 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2
huyện này xảy ra đã lâu nên tôi có thể nhớ sai đôi chút; nhưng theo trí nhớ của tôi thì việc tôi lại gần Tommy chiều hôm đó nằm trong một giai đoạn tôi đang trải qua vào thời kỳ ấy, hồi tôi hay tự đặt ra cho chính mình những thử thách, và khi Tommy ngăn bước tôi lại vài hôm sau thì tôi đã ít nhiều quên chuyện đó rồi.
Tôi không biết hồi xưa ở chỗ các bạn thì sao, nhưng ở Hailsham mỗi tuần chúng tôi lại phải khám sức khỏe một lần, thường là ở Phòng 18 ngay trên cùng ngôi nhà, với cô y tá nghiêm khắc tên là Trisha hay Mặt Quạ theo cách gọi của chúng tôi. Buổi sáng rợp nắng hôm đó, một đám chúng tôi đang đi lên cầu thang trung tâm để cô ấy khám trong khi một đám khác vừa được khám xong đang đi xuống. Vậy nên cầu thang đầy những tiếng ồn vang vọng, và trong khi tôi đang bước trên bậc thang, đầu cúi, bám theo sát gót người đi trước, thì một giọng nói gần tôi vang lên: "Kath!"
Tommy đang theo dòng người đi xuống thì đứng lại ngay giữa cầu thang với một nụ cười toe toét khiến tôi lập tức nổi cáu. Nếu là trước đó vài năm, khi tình cờ gặp một người mà ta thích gặp thì có thể chúng tôi đã có kiểu nhìn đó. Nhưng lúc này chúng tôi đã mười ba tuổi, và đây là một cậu trai tình cờ gặp một cô gái ngay giữa chốn đông người. Tôi những muốn nói: "Tommy, tại sao cậu không thành người lớn nổi vậy?" Nhưng tôi tự ngăn mình lại mà chỉ đáp: "Tommy, cậu đang cản đường mọi người kìa. Cả mình nữa."
Cậu nhìn lên, quả thật là dòng người đi lên bị ngáng đường nên đã dồn cục cả lại. Cậu tỏ vẻ hoảng hốt trong một giây, sau đó cậu nép sát vào tường bên cạnh tôi, vừa đủ để mọi người len qua. Rồi cậu nói:
"Kath, mình cứ tìm cậu mãi. Mình chỉ muốn xin lỗi, mình rất ân hận, ân hận lắm. Hôm đó mình thực sự không có ý đánh cậu đâu. Mình chẳng bao giờ mơ đến chuyện đánh con gái, mà dù có đánh mình cũng không bao giờ muốn đánh cậu. Mình ân hận lắm."
"Thôi được. Tai nạn, vậy thôi." Tôi gật đầu với cậu rồi dợm bước đi. Nhưng Tommy nói với vẻ rạng rỡ:
"Cái áo giờ ổn rồi. Giặt sạch hết rồi."
"Thế thì tốt."
"Không đau phải không? Khi mình đánh cậu ấy mà?"
"Đau chứ còn sao nữa. Nứt sọ. Chấn thương não, còn nữa ấy chứ. Ngay cả Mặt Quạ chắc cũng nhận thấy. Ấy là nếu mình lên trên kia được."
"Nói nghiêm chỉnh nào, Kath. Không đau lắm chứ? Mình ân hận vô cùng, thật đấy."
Cuối cùng tôi mỉm cười với cậu và nói không chút mỉa mai: "Kìa, Tommy, chỉ là tai nạn mà, giờ thì mình quên một trăm phần trăm rồi. Mình không hề oán cậu chút nào hết."
Cậu vẫn có vẻ chưa yên tâm, nhưng giờ thì một số học sinh lớp lớn đang thúc sau lưng cậu, bảo cậu đi. Cậu mỉm cười nhanh với tôi và vỗ vai tôi như vỗ vai một thằng nhóc bé hơn rồi len mình hòa vào dòng người. Thế rồi, trong khi bắt đầu lên cầu thang, tôi nghe tiếng cậu la lên từ phía dưới: "Hẹn gặp sau nhé, Kath!"
Toàn bộ chuyện này làm tôi thấy lúng túng, nhưng rồi không thấy mọi người lấy đó để đùa cợt hay bàn ra tán vào gì; và tôi phải thừa nhận rằng giá như không có cuộc gặp bất ngờ trên cầu thang kia thì có lẽ tôi đã không quan tâm đến những vấn đề của Tommy trong suốt mấy tuần kế đó.
Một vài sự cố tôi tự mình nhìn thấy. Song hầu hết là tôi chỉ nghe kể, và mỗi khi nghe ai đó kể lại, tôi đều hỏi gặng kỳ đến khi người ta chịu thuật lại đầy đủ dù ít dù nhiều. Lại có thêm nhiều cơn thịnh nộ nữa, như cái lần mà theo người ta kể Tommy đã lật tung hai chiếc bàn ở Phòng 14 làm mọi thứ rơi tung tóe xuống sàn nhà, trong khi mọi người khác trong lớp chạy túa ra chỗ đầu cầu thang, chèn cửa lại không cho Tommy ra khỏi phòng. Có lần thầy Christopher phải bảo mọi người ghì chặt hai tay Tommy ra sau lưng để ngăn cậu ấy tấn công Reggie D. trong giờ tập đá bóng. Ai cũng thấy rằng khi đám con trai lớp Cao 2 chia cặp để chạy quanh sân, Tommy là người duy nhất không có bạn chạy cùng. Cậu vốn chạy rất cừ, chỉ một nhoáng là đã bỏ xa những người còn lại đến mười, mười lăm mét, có lẽ cậu nghĩ điều đó sẽ che giấu cái sự thật là chẳng ai muốn chạy với cậu cả. Rồi lời đồn về những trò mà hầu như ngày nào mọi người cũng bày ra để chơi khăm cậu. Phần lớn là các trò đùa thường gặp như bỏ những thứ kỳ quái vào giường cậu, thả sâu vào bát ngũ cốc của cậu, nhưng một vài trò trong số đó lại tai ác một cách vô lối: tỉ như khi có ai đó lấy bàn chải đánh răng của Tommy mà cọ toa-lét để đến khi cậu cằm lấy thì răng bàn chải đã bê bết cứt. Vóc người và sức khỏe của Tommy – và tôi đồ là cả tính khí cậu nữa – khiến cho không ai dám thực sự dùng sức mà bắt nạt cậu, song theo tôi nhớ, trong khoảng ít nhất là hai tháng những chuyện như vậy cứ xảy ra mãi. Tôi cứ nghĩ sớm muộn gì cũng phải có ai đó lên tiếng, rằng như thế này là quá đà rồi, nhưng chuyện vẫn cứ tiếp diễn mà chẳng ai nói gì.
Đã có lần, tôi thử tự mình nêu chuyện đó ra trong phòng ngủ khi đèn đã tắt hết. Ở lớp Cao, chúng tôi được chia làm sáu đứa một phòng, vừa vặn thành cái nhóm nhỏ bọn tôi, và chúng tôi thường nói những chuyện tâm tình sâu kín nhất vào lúc nằm trong bóng tối trước khi thiếp ngủ. Ta có thể nói về những chuyện mà ta thậm chí không dám nghĩ là sẽ nói được ở bất cứ nơi nào khác, kể cả trong căn đình tạ. Thế là một đêm nọ tôi nêu chuyện Tommy. Tôi không nói nhiều; chỉ tóm lược những gì đang xảy ra với cậu ấy và nói rằng điều đó không thực sự công bằng. Khi tôi nói xong, mọi người đợi phản ứng của Ruth – bọn tôi vẫn thường như vậy mỗi khi xảy ra chuyện gì đó hơi khó xử. Tôi đợi, thế rồi tôi nghe một tiếng thở dài từ phía giường Ruth, và cô nói:
"Cậu nói đúng, Kathy ạ. Thế là không đẹp. Nhưng nếu muốn chuyện ấy thôi đi thì chính cậu ấy cần phải thay đổi cách cư xử. Cậu ấy chẳng bao giờ có gì cho cuộc Trao đổi Mùa xuân cả. Và liệu cậu ấy sẽ có cái gì cho tháng sau không? Mình cá là không."
Tôi cần phải giải thích đôi chút ở đây về những cuộc Trao đổi của chúng tôi tại Hailsham. Mỗi năm bốn lần – xuân, hạ, thu, đông – chúng tôi lại có một cuộc kiểu như là triển lãm đồng thời bán tất cả những gì chúng tôi đã làm được trong ba tháng kể từ lần Trao đổi trước. Tranh vẽ, đồ gốm; đủ thứ "tượng điêu khắc" mà chúng tôi làm tù bất cứ thứ gì đang là mốt – có thể là những vỏ hộp đập bẹp, hay những nắp chai nhồi vào hộp các-tông. Cứ mỗi thứ góp vào, ta lại được trả những đồng Tiền Trao đổi – các giám thị là người quyết định cái kiệt tác của ta trị giá bao nhiêu –, thế rồi vào ngày Trao đổi ta mang các đồng tiền đó đi xem các thứ trưng bày và "mua" những gì ta thích. Quy tắc là ta chỉ có thể mua những gì do các học sinh cùng niên khóa với mình làm ra, nhưng dù thế chúng tôi cũng đã có đủ thứ để chọn, bởi hầu hết chúng tôi có thể làm ra nhiều thứ trong thời gian ba tháng kia.
Giờ đây nhìn lại, tôi có thể hiểu vì sao các cuộc Trao đổi trở nên quan trọng với chúng tôi đến thế. Trước hết, ngoài các buổi Bán hàng ra – Bán hàng là một chuyện khác tôi sẽ nhắc đến sau – thì đó là cách duy nhất để chúng tôi có thể xây dựng một bộ sưu tập những món sở hữu cá nhân của riêng mình. Nếu như ta muốn trang trí các bức tường quanh giường mình chẳng hạn, hoặc muốn có một cái gì để mang trong túi xách và đặt lên bàn học từ phòng này sang phòng khác, thì ta có thể tìm thấy ở cuộc Trao đổi. Bây giờ tôi cũng hiểu được các cuộc Trao đổi còn có một tác động tinh tế hơn thế đối với tất cả chúng tôi. Cứ nghĩ mà xem, nhờ nhau mà ta mới có được những thứ có thể trở thành báu vật của riêng mình – điều đó còn có tác động đến những mối quan hệ của ta nữa. Trường hợp Tommy là tiêu biểu. Rất thường khi, thái độ của người khác ở Hailsham đối với ta thế nào, ta được yêu mến và tôn trọng đến đâu, thảy đều có liên quan đến chuyện chúng ta "sáng tạo" cừ đến mức nào.
Vài năm trước Ruth và tôi thường bắt gặp mình nhớ lại những điều đó, khi tôi còn đang chăm sóc cho cô ở trung tâm phục hồi tại Dover.
"Chính một phần nhờ vậy mà Hailsham mới trở nên đặc biệt đến thế," có lần Ruth nói. "Người ta vẫn khuyến khích chúng mình biết đánh giá đúng công trình của người khác."
"Đúng vậy," tôi nói. "Nhưng đôi lúc, mỗi khi nhớ lại các cuộc Trao đổi, mình lại thấy ở đó nhiều điều dường như hơi kỳ cục. Thơ chẳng hạn. Mình nhớ bọn mình được phép nộp các bài thơ thay vì tranh vẽ. Lạ là chúng mình đều thấy thế là hay, chúng mình nghĩ thế là hợp lý."
"Sao lại không? Thơ quan trọng chứ."
"Nhưng cái thơ mình đang nói đây là thơ hồi chúng mình mới chín tuổi cơ mà, những dòng thơ nho nhỏ buồn cười, sai chính tả be bét viết trong vở bài tập ấy. Chúng mình tiêu phí những đồng tiền quý giá để mua những cuốn vở bài tập chép đầy thứ ấy, chứ không mua một cái gì hay hay để trang trí quanh giường. Nếu đã thích thơ của ai đó đến vậy thì sao chúng mình không mượn rồi chiều chiều tự tay chép lại? Nhưng cậu nhớ hồi đó ra sao mà. Cuộc Trao đổi diễn ra, thế là chúng mình lại đứng đực ra tần ngần chẳng biết nên mua mấy bài thơ của Susie K. hay mấy con hươu cao cổ mà Jackie hay làm."
"Mấy con hươu cao cổ của Jackie," Ruth cười phá lên, nói. "Đẹp quá chừng. Mình cũng từng có một con."
Chúng tôi đang ngồi trò chuyện trên cái ban công nhỏ trước phòng hồi sức của Ruth vào một tối mùa hè đẹp trời. Đó là vài tháng sau khi cô hiến tạng lần đầu, lúc này cô đã vượt qua thời khắc nguy nan nhất, và tôi luôn bố trí các buổi thăm bệnh vào buổi chiều sao cho hai chúng tôi có thể dành khoảng nửa tiếng đồng hồ ngồi ngoài ban công ngắm mặt trời lặn xuống những mái nhà. Ta có thể thấy nhiều ăng ten và đĩa vệ tinh, đôi khi thấy cả một đường thẳng lấp lánh đằng xa, đó là biển. Tôi thường mang theo nước và bánh quy, rồi hai chúng tôi ngồi đó trò chuyện về bất cứ chuyện gì chợt đến trong đầu. Trung tâm phục hồi nơi Ruth đang an dưỡng là một trong những trung tâm ưa thích nhất của tôi, và tôi sẽ hoàn toàn không than phiền gì nếu cuối cùng chính tôi cũng đã ở đây. Các phòng hồi sức khá nhỏ, nhưng thiết kế tốt và tiện nghi. Mọi thứ – những bức tường, sàn nhà – đều được lát gạch trắng loang loáng, được trung tâm giữ sạch đến nỗi lần đầu bước vào ta ngỡ đâu mình bước vào một đại sảnh toàn là kính. Dĩ nhiên không hẳn lúc nào ta cũng thấy hình mình phản chiếu trên đó, nhưng hầu như ta cứ nghĩ mình thấy thế. Mỗi khi ta nhấc tay lên, hay khi ai đó đang nằm trên giường ngồi dậy, ta có thể nhận thấy lờ mờ cái cử động đó trên những viên gạch lát khắp quanh ta. Dù thế nào đi nữa, phòng của Ruth ở trung tâm này cũng có những khung cửa trượt lớn bằng kính nên dù đang nằm trên giường Ruth vẫn có thể dễ dàng nhìn thấy được phần lớn bầu trời, và nếu trời đủ ấm, cô chỉ cần bước ra ban công là đã có thể tha hồ hít thở không khí trong lành. Tôi thích đến thăm Ruth ở căn phòng này, thích những cuộc trò chuyện trên trời dưới biển với cô, từ hè cho đến đầu thu, ngồi trên ban công đó mà nói về Hailsham, về Nhà Tranh, về bất cứ điều gì chợt đến trong ý nghĩ của chúng tôi.
"Điều mình muốn nói là hồi tuổi đó, khi mới mười một chẳng hạn, chúng mình thực ra đâu có quan tâm tí gì đến những bài thơ của người khác," tôi nói tiếp. "Nhưng cậu có nhớ ai như Christy không? Christy được tiếng hay thơ, thành thử tất cả bọn mình ngưỡng một nó. Ngay cả cậu, Ruth ạ, cậu cũng chẳng hề dám sai phái Christy một tiếng nữa là. Tất cả là vì chúng mình cứ nghĩ nó giỏi thơ lắm. Nhưng chúng mình thì biết quái gì về thơ với thẩn. Chúng mình chả quan tâm đến thơ. Thế mới lạ."
Nhưng Ruth không hiểu ý tôi – hoặc có thể cô cố tình lảng tránh. Có lẽ cô quyết giữ nguyên hình ảnh chúng tôi ngày đó như những kẻ phức tạp tinh tế hơn là thực tế. Mà cũng có thể cô cảm nhận những gì tôi nói đang dẫn đến đâu, và không muốn chúng tôi tiếp tục câu chuyện theo hướng đó. Dù thế nào đi nữa, cô thở một hơi dài mà nói:
"Bọn mình ai cũng nghĩ mấy bài thơ của Christy thật hay. Nhưng mình không biết bây giờ mấy bài thơ đó sẽ như thế nào trong mắt bọn mình. Mình ước gì có vài bài ở đây, mình muốn xem chúng mình sẽ nghĩ gì." Rồi cô bật cười to mà nói: "Mình vẫn còn giữ mấy bài thơ của Peter B. Nhưng đó là mãi về sau kia, khi bọn mình lên lớp Cao 4. Hồi đó chắc mình thích cậu ta lắm. Không thì mình chẳng thấy có lý do nào khác để mua những bài thơ của cậu ấy. Mấy bài thơ ngớ ngẩn không chịu được. Tự cho mình quan trọng lắm. Nhưng Christy thì hay, mình vẫn nhớ vậy mà. Cũng buồn cười, cô nàng bỏ hẳn làm thơ khi bắt đầu chuyển sang vẽ. Mà cô nàng vẽ thì có giỏi gì cho cam."
Nhưng cho tôi quay lại chuyện Tommy. Điều Ruth nói lần đó trong phòng ngủ chúng tôi sau khi đèn đã tắt, rằng mọi phiền toái của Tommy là do cậu ta tự chuốc lấy, chắc hẳn đã tóm lược những gì hầu hết mọi người ở Hailsham nghĩ hồi đó. Nhưng chính là khi cô nói vậy, tôi mới nằm đó mà ngộ ra, cái ý kiến cho rằng Tommy cố tình không chịu sửa tính là một ý kiến từng phổ biến ngay từ hồi bọn tôi ở lớp Sơ. Và tôi chợt hiểu với hơi chút rùng mình rằng Tommy đã phải hứng chịu tất cả những gì cậu ấy đang phải chịu không phải hàng ngày, hàng tháng, mà suốt nhiều năm trời.
Tommy và tôi vừa nhắc đến chuyện đó cách đây chưa lâu, và lời Tommy kể về mọi nông nỗi của cậu đã bắt đầu như thế nào chỉ xác nhận điều tôi nghĩ đêm đó là đúng. Theo anh, mọi chuyện đã bắt đầu vào một buổi chiều trong tiết học vẽ của cô Geraldine. Cho tới trước ngày đó Tommy vẫn luôn luôn thích vẽ, anh bảo tôi vậy. Nhưng ngày hôm đó trong giờ học của cô Geraldine, Tommy đã vẽ chính bức tranh màu nước đó – một con voi đứng trong một bụi cỏ cao – và mọi chuyện đã từ đó mà ra. Anh làm vậy chỉ để đùa thôi, anh bảo. Tôi quay anh ra trò về điểm đó, tôi ngờ rằng sự thật là cái trò ấy cũng như bao nhiêu trò khác ta làm ở độ tuổi đó thôi: ta chẳng có lý do nào rõ rệt cả, làm là làm. Ta làm bởi ta cho rằng người ta sẽ phá lên cười, hoặc vì ta muốn xem liệu cái trò của mình có gây náo động không. Và nếu sau đó người ta yêu cầu giải thích tại sao ta làm vậy thì cái trò đó xem ra chẳng còn ý nghĩa gì cả. Tất cả chúng ta đều từng làm những chuyện như thế. Tommy không hẳn diễn đạt theo cách đó, nhưng tôi chắc chuyện đã xảy ra đúng như vậy.
Dù thế nào, Tommy đã vẽ con voi, chính cái loại tranh mà một đứa bé kém hơn cậu hồi đó ba tuổi thường vẽ. Cậu chỉ mất không hơn hai mươi phút và bức tranh khiến mọi người cười rộ, hẳn là thế rồi, dù không hoàn toàn là kiểu cười mà cậu chờ đợi. Nhưng dù thế đi chăng nữa, trò ấy ắt hẳn đã không dẫn đến chuyện gì – và đây là một điều mỉa mai độc địa, tôi cho là vậy – nếu như không phải là cô Geraldine đứng lớp ngày hôm ấy.
Cô Geraldine là một giám thị mà tất cả chúng tôi hồi ở tuổi đó đều yêu mến. Cô là người hiền hậu, ăn nói nhẹ nhàng, luôn luôn an ủi khi ta cần, ngay cả khi ta đã làm điều quấy hoặc bị giám thị khác đuổi ra khỏi lớp. Nếu chính cô có đuổi ta ra khỏi lớp thì suốt nhiều ngày sau cô sẽ quan tâm đặc biệt đến ta, như thể cô nợ ta gì đó vậy. Thật xui xẻo cho Tommy rằng hôm ấy cô Geraldine đứng lớp vẽ chứ không phải thầy Robert hay chính cô Emily, giám thị chính, vốn là người vẫn thường đứng lớp vẽ. Giá như là một trong hai thầy cô kia thì chắc hẳn Tommy chỉ bị tống cổ ra khỏi lớp, chắc cậu ấy đã có thể mỉm cười tự phụ, và mọi người tệ lắm thì cũng chỉ coi đó như một trò đùa kém cỏi là cùng. Thậm chí có khi cậu còn khiến một số học sinh nghĩ cậu là tay hề thứ thiệt không chừng. Nhưng cô Geraldine là cô Geraldine, chuyện không diễn ra theo cách đó. Thay vì vậy, cô cố sức nhìn bức tranh một cách ân cần và thấu hiểu. Và chắc bởi đoán Tommy sẽ bị những người khác châm chích, cô lại đi quá đà theo cách khác, cô thực sự cố tìm ra những chỗ đáng khen trong bức tranh, chỉ ra cho cả lớp thấy. Sự phẫn nộ khởi đầu từ đó.
"Sau khi bọn mình rời khỏi lớp, ấy là lần đầu tiên mình nghe chúng nó trò chuyện." Tommy nhớ lại. "Chúng nó chẳng thèm quan tâm mình có nghe thấy hay không."
Tôi đoán rằng từ trước khi vẽ con voi đó Tommy đã có một thời gian mang cảm giác mình không theo kịp chúng bạn – nhất là tranh vẽ của cậu trông cứ như của các học sinh lớp bé hơn cậu nhiều – nên cậu thường ra sức che giấu bằng cách cố tình vẽ giống như con nít. Nhưng sau bức vẽ con voi kia thì mọi thứ bị phơi ra trước thanh thiên bạch nhật, giờ thì ai ai cũng đợi xem cậu sẽ vẽ gì kế tiếp. Dường như có một thời gian cậu cũng thật sự cố gắng, nhưng hễ cậu bắt tay vẽ cái gì là y như rằng thiên hạ chung quanh thảy đều rúc rích cười nhạo. Trên thực tế, cậu càng cố gắng thì những bức tranh của cậu càng nực cười hơn. Thế là chẳng bao lâu Tommy lại quay về thế phòng thủ như trước, vẽ những bức tranh cố tình ra vẻ trẻ con, những tác phẩm chỉ nói lên rằng cậu đang cẩu thả hết mức. Từ đó trở đi, mọi chuyện càng ngày càng tệ.
Ban đầu cậu chỉ phải chịu khổ sở trong các giờ học vẽ – dù thế cũng đã là nhiều, vì hồi ở lớp Sơ chúng tôi vẽ nhiều lắm. Nhưng rồi tình hình ngày càng nghiêm trọng. Cậu bị cho ra rìa trong các môn chơi, đám con trai không chịu ngồi cạnh cậu trong giờ ăn, hoặc vờ không nghe thấy nếu cậu nói gì đó trong phòng ngủ khi đèn đã tắt hết. Thoạt tiên thì chuyện ấy cũng chẳng có gì ghê gớm. Có thể cứ diễn ra như vậy hàng tháng trời mà không có sự cố gì, và cậu cứ ngỡ mọi chuyện thế là đã qua, nhưng rồi chỉ cần cậu – hoặc một trong các kẻ thù của cậu, Arthur H. chẳng hạn – làm một chuyện gì đó, thế là mọi chuyện lại diễn ra như cũ.
Tôi không biết chắc từ khi nào Tommy bắt đầu nổi những cơn thịnh nộ. Tôi chỉ nhớ rằng Tommy luôn nổi tiếng vì tính khí của cậu ngay từ hồi lớp Ấu, nhưng cậu thì bảo cậu chỉ bắt đầu nổi cáu từ khi bị người ta trêu chọc quá đáng. Dù thế nào đi nữa, chính nhưng cơn thịnh nộ đó càng khiến người ta làm tới, và vào khoảng cái dạo tôi đang nhắc tới ở đây – mùa hè ở lớp Cao 2, hồi chúng tôi mười ba tuổi – thì tình trạng làm tình làm tội Tommy đã lên đến đỉnh điểm.
Thế rồi mọi sự chấm dứt, không phải ngày một ngày hai, nhưng cũng khá nhanh. Như tôi đã nói, hồi đó tôi theo sát tình trạng ấy, nên tôi nhìn thấy các dấu hiệu sớm hơn hầu hết những người khác. Chuyện đó bắt đầu ở một thời kỳ – có lẽ kéo dài khoảng một tháng, cũng có thể lâu hơn – khi những trò trêu chọc vẫn xảy ra khá đều đặn, nhưng Tommy không còn giận quá mất khôn nữa. Đôi khi tôi thấy cậu cũng đi gần đến chỗ đó, nhưng bằng cách nào đó cậu tự chủ được; những lúc khác thì cậu chỉ lẳng lặng nhún vai, hoặc phản ứng như thể cậu chẳng nhận thấy gì. Thoạt tiên những phản ứng của cậu khiến người ta tẽn tò, có thể người ta còn tức tối, như thể bị cậu làm cho thất vọng vậy. Thế rồi dần dần người ta đâm chán và những trò trêu chọc trở nên nửa vời, cho tới một ngày kia tôi sửng sốt nhận ra rằng suốt một tuần chẳng thấy ai trêu chọc Tommy lần nào cả.
Bản thân điều đó hẳn không có gì là quan trọng lắm, nhưng tôi còn nhận ra những thay đổi khác nữa. Nhưng chuyện nhỏ nhặt, tỉ như Alexander J. và Peter N. sánh vai cùng Tommy đi ngang qua sân trường về phía bãi chơi bóng, cả ba vừa đi vừa trò chuyện khá tự nhiên; rồi lại có một sự thay đổi tinh tế nhưng rõ rệt trong giọng của mọi người mỗi khi nhắc đến tên cậu. Thế rồi có một lần, vào khoảng cuối giờ nghỉ trưa, một nhóm chúng tôi đang ngồi trên bãi cỏ gần ngay Sân chơi phía Nam nơi đám con trai chơi bóng đá như thường lệ. Tôi đang trò chuyện cùng các bạn, nhưng vẫn để một mắt theo dõi Tommy, bởi tôi nhận thấy cậu ta đang ở ngay tâm điểm cuộc chơi. Có một lúc cậu bị vấp, nhưng rồi gượng dậy, đặt bóng xuống đất để tự mình đá. Trong khi đám con trai dàn ra đợi, tôi thấy Arthur H. – một trong những kẻ lâu nay vẫn hành hạ Tommy nhiều nhất – đang đứng sau lưng Tommy vài thước, bắt đầu bắt chước động tác của cậu, nhại lại điều ngớ ngẩn cái dáng Tommy đứng trước bóng, hai tay chống nạnh. Tôi chăm chú quan sát, nhưng không thấy ai trong số những người còn lại hùa theo Arthur. Thấy thì chắc tất cả đều thấy, bởi mọi con mắt đều dồn về phía Tommy, mà Arthur thì đứng ngay sau lưng cậu, nhưng chẳng ai quan tâm cả. Tommy tạt bóng ngang qua bãi cỏ, cuộc chơi tiếp tục, và Arthur H. không thử làm trò trêu cậu thêm lần nào nữa.
Tôi thấy vui vì mọi chuyện tiến triển như vậy, nhưng cũng thấy hoang mang. Đâu có sự thay đổi thực sự nào ở tranh của cậu – tiếng tăm về "khả năng sáng tạo" của cậu vẫn bết bát nhu mọi khi. Tôi có thể hiểu rằng được vậy phần lớn là nhờ cậu thôi không còn nổi cơn thịnh nộ nào nữa, nhưng nhân tố chính là gì thì dường như khó xác định hơn. Có cái gì đó ở bản thân Tommy – cách cư xử của cậu, cái cách cậu nhìn thẳng vào mặt mọi người mà nói chuyện với vẻ cởi mở, đôn hậu của cậu – đã đổi khác so với trước, và đến lượt mình điều đó làm thái độ của những người quanh cậu cũng đổi khác theo. Nhưng điều gì dẫn đến tất cả chuyện đó thì thật không rõ.
Tôi hoang mang, nên quyết định lần sau nếu gặp riêng thì sẽ thăm dò cậu một chút. Chẳng mấy chốc cơ hội đến, đó là khi tôi đang xếp hàng đợi lấy suất ăn trưa thì thấy cậu đang đứng trước mình vài người.
Tôi nghĩ điều này nói ra có lẽ khá kỳ quặc, nhưng ở Hailsham, xếp hàng lấy suất ăn trưa chính là một trong những cơ hội tốt để nói chuyện riêng tư. Sở dĩ như vậy hẳn là do cấu trúc âm học của Đại Sảnh: xung quanh ồn như cái chợ, trần nhà thì cao, thành thử nếu hạ giọng xuống, đứng thật gần và biết chắc rằng những người ở gần mình cũng đang bận nói chuyện riêng thì có thể yên tâm rằng không ai nghe lỏm ta được. Dù thế nào đi nữa, chúng tôi cũng chẳng có nhiều lựa chọn. Những chỗ "yên tĩnh" thường chính là những chỗ dở nhất, bởi luôn luôn có thể có ai đó đi ngang đủ gần để nghe thấy ta. Và ngay khi ta có cái vẻ đang cố tìm một góc khuất để to nhỏ chuyện riêng thì y như rằng chỉ trong vài phút là toàn bộ Hailsham dường như đã ngửi ra ngay, và sẽ chẳng còn cơ hội nào được riêng tư cả.
Thành thử khi thấy Tommy đang xếp hàng trước mình vài chỗ, tôi liền vẫy cậu đến – quy tắc là không được từ dưới chen lên phía trên khi xếp hàng, nhưng từ trên chuyển xuống dưới thì được. Cậu tiến lại với một nụ cười sung sướng, và chúng tôi đứng cạnh nhau một lát không nói gì – chẳng phải vì lúng túng, mà bởi chúng tôi đợi cho đến khi không ai tỏ ra chú ý đến việc Tommy rời chỗ xuống nữa. Rồi tôi bảo cậu:
"Hồi này thấy cậu hạnh phúc hơn nhiều đấy Tommy à. Mọi chuyện dường như đang tốt đẹp hơn cho cậu."
"Gì cậu cũng nhận thấy hết, phải không Kathy?" Cậu nói không có vẻ gì mỉa mai. "Ừ, mọi chuyện đều ổn, mình đang rất ổn."
"Thế chuyện gì đã xảy ra vậy? Cậu tìm thấy Chúa Trời hay gì gì đó à?"
"Chúa Trời á?" Tommy bối rối khoảng một giây. Rồi cậu bật cười bảo: "Ồ, mình hiểu. Cậu đang nói đến chuyện mình không còn… giận quá đáng nữa."
"Không chỉ vậy đâu Tommy à. Cậu đang làm mọi sự chung quanh trở nên tốt đẹp hơn cho cậu. Mình quan sát suốt mà. Thành thử mình mới hỏi."
Tommy nhún vai. "Chắc là mình đã lớn lên một chút. Mà có lẽ ai cũng vậy cả. Đâu thể cứ như vậy mãi được. Chán lắm."
Tôi không nói gì, chỉ nhìn thẳng vào cậu, cho đến khi cậu lại bật cười nho nhỏ mà nói: "Kathy à, cậu thính quá đi mất. Được rồi, cứ cho là quả thực đã có một cái gì đó. Một cái gì đó đã xảy ra. Nếu cậu muốn, mình sẽ cho cậu biết."
"Vậy thì nói đi."
"Mình sẽ cho cậu biết Kath à, nhưng cậu không được hở cho ai biết cả, được không nào? Khoảng hai tháng trước mình có nói chuyện với cô Lucy. Sau đó mình cảm thấy dễ chịu hơn nhiều. Khó giải thích lắm. Nhưng cô ấy có nói gì đó, thế mà mọi chuyện tự dưng thấy tốt đẹp hơn nhiều."
"Cô ấy nói gì nào?"
"Thì… Vấn đề ở chỗ, nghe thì lạ lắm. Thoạt đầu mình cảm thấy vậy. Cô ấy bảo là nếu mình không muốn tỏ ra có khả năng sáng tạo, nếu mình thật sự chẳng thích làm thế tí nào, thì cũng không sao cả. Chẳng có gì sai trái cả, cô ấy bảo thế."
"Cô ấy nói với cậu thế à?"
Tommy gật, nhưng tôi hầu như đã quay mặt đi.
"Toàn vớ vẩn, Tommy à. Nếu cậu sắp làm trò xuẩn ngốc thì mình chẳng hơi đâu mà nghe."
Thật tình tôi rất giận, bởi tôi cho rằng cậu đang nói dối tôi, mà lại ngay giữa lúc tôi xứng đáng được cậu đem lòng tin cậy. Thoáng thấy một đứa con gái mà tôi quen đang đứng đằng sau mấy chỗ, tôi đi về phía nó, bỏ mặc Tommy đứng đó. Tôi thấy cậu chưng hửng và cụt hứng, nhưng sau mấy tháng trời lo lắng cho cậu, tôi thấy mình bị phản bội, nên không thèm quan tâm cậu cảm thấy thế nào. Tôi tán gẫu với một đứa bạn – hình như là Marilda – càng tỏ ra vui vẻ càng hay, và hầu như suốt thời gian xếp hàng còn lại chẳng mấy khi tôi nhìn về phía Tommy nữa.
Nhưng trong khi tôi mang đĩa ăn của mình đi về phía các dãy bàn, Tommy lại gần sau lưng tôi và nói nhanh:
"Kath này, nếu cậu nghĩ mình nói khoác với cậu thì không phải đâu. Chuyện đúng là vậy mà. Khi nào đó cậu cho mình dù chỉ tí xíu cơ hội, mình sẽ kể cho cậu nghe."
"Đừng nói linh tinh nữa, Tommy."
"Kath à, mình sẽ kể cho cậu. Mình sẽ đến chỗ cái ao sau giờ ăn trưa. Nếu cậu đến đó, mình sẽ kể."
Tôi nhìn cậu với vẻ trách móc rồi không đáp mà đi thẳng, nhưng lúc ấy có lẽ tôi đã bắt đầu cảm thấy dễ chịu khi nghĩ, cũng có thể việc nói chuyện với cô Lucy không phải là cậu bịa ra. Và đến khi ngồi xuống cùng các bạn, tôi đã bắt đầu hình dung ăn xong thì làm cách nào chuồn được ra chỗ cái ao mà không khiến mọi người tò mò.
Mãi Đừng Xa Tôi Mãi Đừng Xa Tôi - Kazuo Ishiguro Mãi Đừng Xa Tôi