The walls of books around him, dense with the past, formed a kind of insulation against the present world and its disasters.

Ross MacDonald

 
 
 
 
 
Tác giả: Tô Hoài
Thể loại: Tùy Bút
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 19
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1778 / 36
Cập nhật: 2017-08-29 15:43:50 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Tháng Chạp Vác-Sa-Va
ÀO THÁNG NÀY, lúc thành phố còn mờ mịt sương, đi xe lửa rời Vác-sa-va xuống Gracốp, trông vào những khung tủ kính các cửa hàng hai bên phố chưa có người mua bán, chỉ mơ màng ánh điện trắng xanh và lá vàng rơi trong bóng tối, tưởng như những đốm tuyết. Nhưng không phải. Chỉ có sương sáng sớm như thế. Suốt dọc đường qua những cánh đồng. Thoáng qua luống bắp cải đỏ đương được hái, những con ngựa lực lưỡng kéo xe. Rồi màn sương khép lại, mở ra…
Những thị trấn mái ngói đỏ. Chợt nhìn cũng cảm thấy được yên vui. Cánh đồng Ma-đô-vi cũng như đồng đất các nơi ở Bắc Âu đâu cũng phẳng lặng đến chân trời.
Thủ đô cũ Gracốp trang nghiêm giữa những đài trang cung điện trên đồi Vaoen với một dãy đường cây vòng quanh, có trường đại học từ thế kỷ 13, có bức tường đá phố Pigiaka vẫn giữ được phong tục cũ, các họa sĩ nổi tiếng trong nước quanh năm mang tranh đến bầy trên bờ tường, vừa vẽ, vừa bán, bây giờ vẫn thế, có hầm bia Mikhaivích khai trương từ thế kỷ 18, trong quán treo những tranh đẹp và mỗi chiều thứ bảy, có các nhà thơ đến đọc thơ - từ hơn một trăm năm nay vẫn thế. Chân thành cổ Babican thế kỷ 15, tường gạch tròn lợp mái đỏ, nhấp nhô chòi canh. Vinh quang và truyền thống văn hóa Ba Lan, Gracốp nền nếp một trung tâm văn hóa lâu đời châu Âu.
Tôi đi dưới những tán cây bụi đại thụ như rừng quanh thành cổ. Mùa thu già ở Gracốp thật lạ. Lá rụng ủng sẫm mặt đường. Nhưng những cô gái che dù hoa, đi giày cao cổ da cừu mềm đỏ chói - mốt giày diện của năm nay. Đi khắp vùng giữa châu Âu đến đây mới gặp được những cô gái Ba Lan xinh đẹp nhỏ nhắn, bắp chân mảnh mai thoăn thoắt dưới làn mưa thu. Mưa như trời có ý vương xuống chút bụi nước cho ai đó được khoe cái ô đẹp.
Nhà văn Stô-la-rếch nói:
- Anh trông nóc nhà thờ, tháp ngói xanh cao vút trên thành phố, cung điện Vaoen tượng trưng cho nền văn hóa truyền thống Ba Lan. Nhưng anh biết không, mọi thứ quý giá trong lâu đài đã bị tên tướng phát xít Đức Han Phơrăng, mà nó đã tự xưng là “vua nước Ba Lan”, cuỗm đi hết. Khi chiến tranh kết thúc, chúng tôi phải đi lùng tìm khắp nước Đức, đem được về đủ tranh và tượng chúng lấy trộm. Công phu lắm!
Sông Vít-tuyn đã vào mùa kiệt, mặt nước cứ ngơ ngác tiêu sơ một cách dễ thương. Đàn bồ câu đứng nghiêng mắt nhìn xuống dòng nước cạn, còn để quên lại những bụi cây sậy xanh rờn ôm ngoài bờ thành.
Trên đường lên Dacôpan, một thành phố trên núi Tatri hay là Tatra ở Tiệp, nối sang triền Suđét, đường qua cổng trời Maravi, đến Tiệp Khắc phía đông dãy Cácpát. Người lũ lượt vác gậy đi chơi trượt tuyết sớm trên núi. Đường ra ngoại ô Gracốp phía ấy, mùa thu còn đậm nét hơn cả quang cảnh từ Vác-sa-va xuống.
Đồng quê từ vùng Pô-mê-đa-in, lưu vực sông Ô-đe sang sông Vít-tuyn đượm một phong vị cổ kính đến hồn nhiên. Tưởng như đất trời vẫn từ thuở nào. Cây bách tán cổ thụ sum suê giữa cánh đồng. Một chiếc xe hai ngựa thong dong qua. Người đi làm đồng trò chuyện cười nói rộn rã trên thùng xe. Mùa thu trong mưa tơi tả bâng khuâng. Những luống cải bắp đương được cắt - cải bắp tía, củ cải tía. Đôi chốc, như chợt bắt một cái lặng im đến đỗi hai con choi choi giỡn nhau trên đỉnh cây rơm mà nghe được cả tiếng chân chim ró ráy xéo lên một cọng rơm. Rồi dòng sông lại trắng như lụa bên những ruộng cải bắp đỏ. Nhà nào cũng phơi ngược trên bờ rào những cây cải mới cắt. Trẻ con tan học ríu rít qua đồi bạch dương và hàng cây cát-stan lẫn lộn trong vàng nắng, vàng lá.
Những cánh đồng cuối thu, chỗ mưa chỗ mát, trời thoáng xanh, thoáng nắng, như mở như đóng, đợi tuyết xuống - ngày nông nhàn của người và đồng đất. Thong thả, những mái nhà phòng tuyết xuống đương được trát xi măng lại, thay chỗ rêu mốc.
Giữa trưa mà còn bảng lảng trời sương. Ô-vết-kim cách Gracốp sáu mươi ki-lô-mét.
Đoàn tàu dừng lại trên sân ga thị trấn. Người lên xuống nhộn nhịp. Cũng như đường về Vác-sa-va, đường đi Đa-cô-pan mùa trượt tuyết đương tíu tít, rộn ràng.
Nhưng ở Ô-vết-kim có cái khủng khiếp mà tuổi trẻ bây giờ có lẽ ít biết. Hơn bốn triệu người châu Âu đã bị bọn phát xít Hít-le đem về giết ở đây.
Đi qua Ô-vết-kim đẹp như tranh hôm nay, khó lòng tưởng tượng về những năm 1940 u ám có bao nhiêu người khắp nơi, người già và cả trẻ con, đã bị đẩy đến đây rồi chịu chết thiêu.
Những cây phong quanh Ô-vết-kim khoác áo mùa thu vàng dịu. Chiều chủ nhật, hàng quán ven đường đã rực rỡ ánh đèn. Tiếng kèn ở một sàn nhảy nào đó nổi nhộn nhạo.
Lại một đoàn xe lửa kéo còi dừng trên sân ga. Những người đi chơi chiều thứ sáu cuối tuần, chặp tối chủ nhật mới trở lại. Họ rời thành phố, vác lều bạt, ba lô, đèn bão vào rừng cắm trại. Trên những túi du lịch lúc trở về, còn gài kỉ niệm bó hoa rừng sặc sỡ - bông hoa hiếm, phải vào đến quãng suối còn ẩm mới tìm thấy. Hớn hở và ngẩn ngơ, vừa đi khỏi nhà có hai ngày, nhưng đã đến những nơi thật rừng, thật thanh vắng, giờ về tưởng xa thành phố đã lâu lâu.
Stô-la-rếch nói:
- Ngày mùa thu thế này hay ngày rét nhất tháng giêng tháng hai quanh năm, ngày nào cũng vậy, khói lò thiêu người của Phát xít Đức ở Ô-vết-kim cũng ngùn ngụt, khói thiêu người toàn là khói đen.
Ngày ấy, có những đoàn tàu chạy suốt qua những cơn nắng dằng dặc, tới Ô-vết-kim, người bị lèn vào toa đóng kín đã hấp hơi, cửa tàu vừa mở, người chết rơi xuống chồng đống lên nhau. Nắng Ô-vết-kim đẹp thế này, anh có tin những chuyện thê thảm ấy là thật không. Kuyếc-di-ô Ma-la-pac, phóng viên chiến tranh trong quân đội phát xít Ý ngày ấy đã tả như thế trong thiên phóng sự thê thảm Tan rã.
Làm sao tưởng tượng ra được những ghê gớm nhường ấy. Tôi làm sao ngỡ thế. Những người du lịch từ châu Âu, châu Mỹ đương lũ lượt đến chơi nước Ba Lan xinh đẹp, trông mặt người đi chơi chỉ có hớn hở, làm sao biết được.
Ở những cánh ruộng ngoài thành phố, đã bắt đầu mùa làm rau. Con ngựa kéo bừa dừng lại giữa luống đất màu đen mỡ. Một chị váy áo đỏ rực dắt đứa bé bước thủng thỉnh. Màu đất ẩm mùn như đã được tra phân. Luống củ cải cà chua, dưa gang vào đất ấy chắc bỡi lên như thổi.
Em bé lững thững chơi bên luống đương làm đất.
Trước mặt tôi, những cái cột sắt đầu gắn đèn pha ngoàm xuống, chằng chịt dây thép gai, mỗi bước đi vào lại nhô lên, chạy dài trong lớp cỏ cao ngang đầu. Tôi biết tôi đương đi tới trại tập trung Ô-vết-kim, nơi đau thương nhất thế giới.
Nếu trường tiểu học Tung Sleng ở Phnôm Pênh đã được nhiều nhà báo thế giới đặt tên là lò giết người theo “phương pháp thủ công” thời Trung Cổ, có chày, kìm, bàn vả, búa, dao bàu, có khóa đuôi chuột Trung Quốc khóa tay, khóa chân người và khóa cửa cùng một lúc, thì phải kể địa ngục trần gian Ô-vết-kim là một nhà máy của kỹ nghệ công nghiệp giết người.
Trại Ô-vết-kim và trại Dêdinga, bọn phát xít Đức dựng lên từ năm 1940 ở Dasôn, ngoại ô thị trấn Ô-vết-kim. Năm 1943, thêm hai lò thiêu mới đốt được một vạn người trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ.
Tất nhiên, bọn phát xít không mất công đem người tới đây chỉ để có việc giết đi, mà cũng như các trại tập trung khác ở khắp nước Đức và châu Âu, chúng bắt người ta phải làm khổ sai đến kiệt sức, rồi được đưa đi “khám sức khỏe” để hủy đi, rồi lại lấy người mới còn khỏe khoắn tới.
Một vùng trại giam xung quanh rộng bốn mươi ki-lô-mét vuông từ bờ sông Vít-tuyn đến bờ sông Sôla, mười làng bị đuổi đi nơi khác, trên khu đất ấy, mọc lên nhà máy hóa chất Buna, nhà máy Krup đúc đạn đại bác, nhà máy xi măng… lẫn lộn, ống khói các nhà máy nọ và khói lò thiêu nhả đêm ngày.
Lúc nào trại cũng có khoảng hơn bốn mươi vạn người. Nhưng người tù không có tên, được gọi bằng những con số thích chàm trên cánh tay. Người Ba Lan, rồi người Áo, Bỉ, Tiệp, Pháp, Hy Lạp, Hà Lan, Đức, Nga, Hung… người Di-gan, người Do Thái khắp các nước được điệu tới.
Khu vực tù ở liền bên nhà máy và bên những lò thiêu mái thấp, đen sẫm, xanh sẫm trong bóng cây, vẫn những cây sau sau - nhưng ở đây, cây sau sau, cây cát-stan thoáng trông đến bây giờ ngỡ vẫn còn ám khói xám ngắt.
Có lẽ cũng là một cố ý của cơ quan bảo tồn di tích tội ác phát xít. Sự khác nhau, ngoài kia vẫn cái nắng nhạt ấy như trong này, nhưng bóng nắng trong này tạnh hẳn tiếng người. Như tội ác hiện hình, khiến cho dù người ba mươi năm sau đặt chân tới cũng không thể quên - không bao giờ có thể quên. Nhưng chắc không ai nỡ muốn trở lại đây lần nữa để lại phải nhìn lại những thê thảm ấy. Nhà văn Pháp Phrăng-xoa Mô-ri-ắc đã viết một câu về trại tập trung này: “Người ta thường chóng quên. Tính người như vậy, cũng bởi đời sống hàng ngày cứ qua đi. Nhưng những hòn đá kỉ niệm sẽ giữ mãi lại. Trại tập trung, trại tập trung Ô-vết-kim! Phải làm cho thế giới thấy được tội ác dã mãn đã biến người ta thành con vật. Làm sao mà tới thế kỷ hai mươi này hãy còn đầy rẫy đau khổ, con người đẩy dưới chân những đạo lý sơ đẳng như thế về con người!”
Cả một gian những chiếc giầy vẹt đế, há mõm còn lại của người chết ốm, người chết thiêu, người bị đánh chết, bị treo cổ. Những đống giày cao ngổn ngang. Những chiếc giày bỏ bơ vơ chẳng nói được câu gì. Chiếc giày lặng im, cũng như chiếc giày dưới chân tôi đang đi. Có những chiếc giày trẻ con, chỉ bằng một gang tay. Những người sống sót, khi được giải phóng, đã rời khỏi đây không biết có ai còn giày đi không. Nhưng chắc chắn thì còn lại những đôi giày của người chết, cả những đôi giầy của trẻ con chết. Trẻ con cũng bị giết, hay là bị thiêu, hay là bị bắn, bị treo cổ. Thiên phóng sự Tan rã của C. Malapác, người đã được mắt thấy những trại tập trung người Do Thái ở Vác-sa-va. Trẻ con trong trại hay đào lỗ dưới chân tường, trốn ra mua bánh mì ngoài phố. Bọn phát xít, cứ chập tối, thường đến ngồi góc tường, thấy đầu người lấp ló, thì giơ súng bắn, như bắn chuột. Và đấy cũng là những trò tiêu khiển buổi chiều rỗi rãi của chúng nó.
Những lò thiêu có cửa tò vò trông ù lì như cái lò nướng bánh mì. Có buồng cho người sắp chết vào cởi xống áo để lại. Những buồng trống hốc, nơi bọn đồ tể gọt tóc, cạo râu, và phòng bẻ lấy răng vàng người đã chết ngạt, trước khi đẩy xác vào lò. Những cột treo cổ còn lại vẫn đứng sừng sững. Căn buồng chứa hàng trăm người chồng nhau trên những chiếc giường tầng, quanh tường đen nhẫy vệt mồ hôi. Cạnh đó, ba tòa nhà xinh xinh, nơi ở của hai trăm năm mươi con chó béc giê canh gác.
Tất cả đã vắng tanh, nhưng lại cứ như thể hiện âm thầm quằn quại những người sống người chết quanh quẩn đâu đây.
Cả một gian nhà chất đầy toàn những mắt kính, những gọng kính. Cái mắt kính đã rạn. Cái mắt kính còn lành, cái kính chỉ còn bộ gọng. Gọng kính bằng dây thép, bằng thau, bằng kền đã méo mó, xám xì vì thiêu không cháy hay vì sao không biết. Chỉ biết chắc chắn những gọng kính ấy của người chết. Sao nhiều thế, nhiều quá, chỉ những gọng kính ấy mà chất lên lù lù như một đống rạ. Không bao giờ người ta lại nghĩ có khi trông thấy một đống gọng kính lăn lóc ngay cạnh chân mình cao như gò thế.
Bất giác, tôi sờ lên cái gọng kính tôi đương đeo. Có khi tôi cũng một trạc tuổi với những ai đeo kính đã chết đi kia. Những lứa tuổi tôi trên thế giới, ở châu Âu cũng như châu Á, lúc ấy ở đâu tuổi thanh niên chúng tôi cũng phải chìm đắm, phải đương đầu với họa phát xít, họa đế quốc. Những người chết chỉ để lại có cái gọng kính. Tôi cầm gọng kính của tôi, những cái kính của những người ra đi kia cũng giống cái gọng kính của tôi thôi.
Tôi ra về. Tôi đã trở về đến chỗ đồng không - vẫn một ngày thu vàng Ô-vết-kim. Tôi không biết nghĩ thế nào. Quanh quẩn, bối rối vẫn còn trong đầu hình ảnh những người gầy ọp ẹp lẫn lộn những bộ xương đứng, bộ xương nằm thò đầu lâu, thò đầu gối ra trong lớp giường chồng sáu tầng như những ô ngăn kéo. Cả một gian nhà chứa tóc, tóc để chúng nó dệt thành vải, mỡ người để chúng nó làm xà phòng. Cột dây thép gai chằng chịt quanh hai mươi bảy dãy nhà. Những cây sau sau bây giờ thành cổ thụ đã chứng kiến ngần nào thê thảm.
Tôi trở về. Có tiếng cười ròn khanh khách trên bờ ruộng. Tiếng cười trẻ con. Phải tiếng cười của cậu bé đi theo mẹ lúc nãy. Có lẽ vẫn cậu bé ấy. Và một lũ bạn nhóc nữa trong xóm đương chạy ra.
Bây giờ trông mùn đất mặt ruộng vừa bừa để đánh luống, màu đất đen mỡ trên cánh đồng, tôi bỗng ngờ ngợ ra một màu khác; không biết hay là trong đất có còn lẫn tro người bị thiêu mà bọn phát xít đã đổ ra đấy. Trong đất này còn tro người chết chưa ngấu hết. Có thể. Tội ác của chúng vẫn nguyên, vẫn mới nguyên đây.
Tiếng còi xe lửa vào ga. Những người đi chơi về muộn. Tiếng còi rộn rã. Tiếng còi tàu chở người đi chơi về. Chợt nghĩ ngày ấy cũng một tiếng tàu thế này mà người tù nửa đêm nghe rùng mình: lại một chuyến xe lửa đưa người đến, lại một đợt tù mới. Đường xe lửa chằng chịt châu Âu nhánh ấy chỉ đến Ô-vết-kim thì cộc. Ngày ấy, xe lửa bọn phát xít chỉ đem tù đến Ô-vết-kim, tiếng còi tàu, tiếng còi tàu...
Cái gọng kính của tôi và gọng kính của người khuất cũng thế. Tội ác chúng nó vẫn thế ở Chi Lê, ở Cam-puchia...
Nhưng cuộc sống vẫn đây. Không bao giờ, không ai tiêu diệt được cuộc sống con người. Nước Ba Lan dũng cảm vẫn đấy. Sông Vít-tuyn, con đường xanh, con sông uốn vòng cung trong lòng đất nước, đầu nguồn trên núi Tatri, cửa mở ra biển Ban Tích, Vít-tuyn vươi mình qua cả năm thành phố lớn của Ba Lan. Lịch sử sông Vít-tuyn cũng là lịch sử dân tộc và đất nước. Vít-tuyn, con sông mẹ của những con sông Ba Lan. Tiếng sông thầm thì không bao giờ ngớt, tiếng của dân tộc và đất nước, tiếng ngân vào đêm thời gian, như lời thơ Stê-phan Giê-rôm-ski đã nói về dòng sông quê. Cánh đồng từ cửa sông Vít-tuyn sang các thung lũng ở Madari, bắt đầu quang cảnh những hồ nước tuyệt vời. Hồ Handa trong suốt tận đáy. Hồ Siniavi một trăm mười ki-lô-mét vuông, sóng cao ngang đầu. Một vùng trời nước hơn sáu nghìn con hồ khắp nước Ba Lan như những con mắt, như những ngôi sao.
Dòng sông, cánh đồng và vùng hồ - nơi câu cá, hái nấm và lặng yên. Mùa hạ, khách nô nức đến Vula trên bờ sông San, vào vườn nhà nhạc sĩ thiên tài Phêđêrich Chôpanh chơi đàn.
Cuộc sống vẫn đấy.
o O o
Hôm trước, qua Mát-xcơ-va, đương những ngày cuối thu hiếm hoi. Nắng vào đầy phòng chếch cửa đông sang cửa tây khách sạn nước Nga. Thủ đô Mát-xcơ-va nguy nga nhất lúc vừa dựng sáng, đèn đường đèn xe đã tắt hết, thành phố đột nhiên im lặng hiện ra trong ánh sáng ban mai. Những chiếc tàu và sà lan nối nhau từ từ qua trên dòng sông dưới tường lâu đài Kremli. Những mảng cỏ xanh, những cây thông tuyết, những tháp cổ đỏ hắt. Tít xa, trập trùng những lầu cao, những ô cửa sổ vuông lần lượt tắt đèn. Mặt trời lên đỏ ối trên thành phố mênh mang đồ sộ.
Gái đẹp Vác-sa-va khác. Vác-sa-va xinh xắn, thật dịu - như cô gái Ba Lan mảnh mai giấu một vẻ quyến rũ riêng. Mình vốn người thành phố nhỏ, đến Vác-sa-va thấy dễ chịu, chóng quen, thật đáng yêu.
Không phải chỉ vì một vẻ bề ngoài mà Vác-sa-va và Hà Nội chúng tôi có những giống nhau. Tháng Chạp ở hai nơi, nhưng mà hai nơi giống nhau.
Stô-la-rếch và tôi vừa đi một vòng sang vùng ngoại ô bên kia sông Vít-tuyn - khu phố mới xây dựng. Trở về, anh đưa chiếc xe Pôn-ki Phi-át bốn chỗ ngồi xinh xinh của anh vào bãi gửi - anh đã thuê chỗ để xe cả năm ở bãi. Rồi chúng tôi lững thững tản bộ vào trung tâm thành phố.
Chúng tôi tìm một quán uống chè. Phong tục Hà Nội và thói quen Vác-sa-va về uống chè có khác nhau. Chúng mình nhấp chén chè xanh, thưởng thức vị chè chát thơm. Các bạn uống cốc chè đen pha đặc thật nóng cho đường, trong cái chát bùi có vị ngọt. Nhưng ở Vác-sa-va cũng như ở Hà Nội, uống chè là một cái thú. Ở Vác-sa-va, đầu phố cuối phố nào cũng có quán chè và bánh ngọt. Người uống chè đông ních, nhất lúc chiều chiều.
Chúng tôi ngồi ở khu chợ Cũ trông ra khoảng rộng quảng trường trước mặt. Những thành phố cổ còn đến bây giờ thường hay khoe mình đã giữ gìn được những nét xưa như thế này. Tân Đê-li và Đê-li cũ, Sài Gòn chợ Bến Thành và Sài Gòn Chợ Cũ... Tbilitxi cách thành phố cổ hai ki-lô-mét. Vác-sa-va cổ ở ngay giữa lòng thành phố hiện đại, tựa như hồ Hoàn Kiếm với Hàng Ngang, Hàng Đào.
Ở khu chợ cũ Vác-sa-va trong lúc thành phố tấp nập nhất, ban đêm trên đại lộ bên kia, những làn đèn đỏ đuôi ô tô hoa lên như dải sao ngân hà lấp lánh trôi, thì ở vùng này vẫn đầm mình vào tĩnh mạc.
Những viên gạch lá nem đỏ mơ hồ một chút rêu xanh. Những chân tường đá tảng lồi lõm tự nhiên. Một bà cụ ném ruột bánh mì cho những đàn bồ câu xúm xít. Bà cụ ngần ngừ chọn phía rắc bánh cho những con chim đến sau.
Đằng kia, một dẫy bồn hoa hồng đỏ, hồng vàng, hồng bạch. Những đóa hoa cúc vàng, cúc tím dài bằng cả luống hoa đất. Bồn hoa đặt đấy lại có thể đẩy đi mọi nơi, trông như những bó hoa lớn bọc băng trắng. Ở Vác-sa-va, trong công viên có luống hoa, và trên đường phố lại có những bồn hoa nhẹ nhàng đặt trang trí khắp nơi, gây cho người đi đường những hứng thú thình lình. Khách từ ngõ phố Thánh Giăng khúc khuỷu đường đá gồ ghề, hai bên tường cao sát vai, vừa ló ra, chợt gặp một bồn hoa hồng vàng ở chỗ mà không ai ngờ. Người và hoa, chỉ nghiêng mình, cánh hoa và mùi hương đã lướt trên má.
Hai cỗ xe song mã đậu trước cửa nhà thờ, bên cột đá chống dịch tả [1] với hai con ngựa thắng yên cương hoa đỏ. Người xà ích đánh xe mũ ngù ngất ngưởng, áo nẹp điều, ngồi cao lêu đêu phía trước. Những thứ ấy để chiều khách muốn dạo chơi phố cũ, nghe tiếng vó ngựa cóc cách mặt đường đá của phố xá thế kỷ trước. Hay là xin mời bạn đến trước xe, chụp “bô” ảnh kỉ niệm, sau lưng nổi bóng hai mái nhà thờ lớn, đúng hình ảnh Vác-sa-va xa xưa.
Một sân khấu ngoài trời đương được lắp đóng giữa quảng trường. Lại sắp có cuộc vui nào đây. Quảng trường này chỉ dành cho những tụ hội đặc biệt và cổ truyền của thành phố. Như ngày hội tháng sáu, hàng năm cứ đến hai ngày 23 và 24 - mà đã từ bao đời, người ta cho là trong một năm chỉ có hai ngày hai đêm tháng sáu ấy dài bằng nhau. Cả thành phố ra quảng trường giữa chợ vui hát nhảy múa mừng ngày và đêm sóng đôi đẹp nhất trong năm.
Trong yên tĩnh, hơi chè ngọt tỏa ấm gian phòng đông người. Nhưng ai nấy đều lặng lẽ. Ngoài kia, Vác-sa-va yêu kiều, và duyên dáng như thế. Tôi có cảm tưởng thành phố này rất ý thức vẻ đẹp kiêu kỳ của mình.
Stô-la-rếch nói, như trả lời cho tôi, bằng câu chuyện mỗi lúc một làm tôi ngạc nhiên:
- Vác-sa-va của chúng tôi thế nào? Một thành phố huy hoàng bậc nhất giữa châu Âu. Vác-sa-va của ba mươi triệu người Ba Lan trên đất nước, của trên mười hai triệu kiều dân Ba Lan ở Chi-ca-gô, ở Đê-troa, Pa-ri. Anh biết không, tất cả những gì anh đương trông thấy: tòa nhà thờ cổ, ngõ phố Hầm Bia, phố Thánh Giăng u ẩn từ thế kỷ trước để lại vẫn như xưa, vẫn thế...
Những tường thành mái cỏ, gạch đỏ. Đêm sáng hửng như trăng suông. Phố chợ ở trung tâm có những hàng quán mua bán theo thói quen cũ. Hầm rượu và cao lâu Ba-si-lích có món ăn dân tộc tên là “cá sấu”. Phiđen Cátstrô thăm Ba Lan đã tới ăn quán ấy. Phiđen đã gửi tặng quán một con cá sấu Cu Ba nhồi treo đồ sộ gần kín mặt tường phòng ăn.
Đứng ngoài hiên ngắm ra sông Vít-tuyn, những đàn bồ câu thơ thẩn quanh chân khách...
Stô-la-rếch cười:
- Những thứ ấy và cả đến từng viên gạch đỏ lát quảng trường mà anh tưởng là gạch từ thời trước, là ngày xưa, nhưng không phải. Không còn cái gì thời trước đâu. Đây là Vác-sa-va thứ hai. Vác-sa-va sống lại của chúng tôi.
Ngày 1 tháng chín 1939, quả bom phát xít Đức đầu tiên ném xuống Vác-sa-va, thành phố một triệu hai mươi vạn người.
Ngày 7 tháng giêng 1945, sáu năm sau, khi hồng quân Liên Xô và quân đội Ba Lan vượt cầu phao sông Vít-tuyn sang giải phóng trung tâm Vác-sa-va, cả thủ đô chỉ còn có mười lăm người sống sót chui từ các đống gạch ra đón những chiến sĩ đến cứu mình.
- Trước mặt chúng ta là đại lộ tám làn ô tô đạt đường tiêu chuẩn châu Âu thông luôn từ Ma-drít lên Pa-ri qua Béc-lin đến đây. Một thế kỷ nay, bốn lần nước Ba Lan bị xóa tên trong chiến tranh. Cả bốn lần, bốn thứ quân xâm lược, từ đế quốc Đức đến phát xít Đức kéo quân qua đại lộ trước mặt kia.
Một thế kỷ, đất nước bị tàn phá tới bốn lần, làm sao đối với mỗi người, những tiếng như Tổ quốc, đất quê và chuông nhà thờ trong cánh đồng còn đáng được những tiếng trong lành nước Ba Lan chết đã lâu rồi.
Nhưng Ba Lan vẫn sống, mãnh liệt sống. Và Ba Lan ngày nay đương là một đất nước hấp dẫn du lịch nhất thế giới. Người ta nói: Đến xem sự lạ Ba Lan.
Vâng, sự lạ Ba Lan.
Kể ra châu Âu đã được chứng kiến sự lạ Ba Lan từ lâu, cùng với quang cảnh mỗi lần Ba Lan bị xâm lược. Ở nhiều thủ đô các nước có người Ba Lan cư trú, người Ba Lan ở đâu cũng lập nên các tổ chức cứu quốc “Chúng tôi vì nền tự do của các bạn và của chúng tôi”. Người Ba Lan đã chiến đấu vì sự nghiệp của nơi mình đương ở, và vì sự nghiệp của Ba Lan. Trong quân đội Na-pô-lê-ông, tham gia công xã Pa-ri, theo Garibanđi, theo Abraham Lincôn, chiến sĩ bảo vệ thành Viên, hoạt động ở Ca-na-da hay ở nước Mỹ... Nhất là trên khắp các mặt trận châu Âu trong chiến tranh thế giới vừa qua. Với người Ba Lan, dù ở đâu cũng là đương đi con đường trở lại Vác-sa-va.
Một dân tộc phải trải bốn cuộc chiến tranh trong vòng một thế kỷ, cả bốn lần, nước Ba Lan bị xé nát, nhưng Ba Lan vẫn như ngày nay, Ba Lan đương như ngày nay. Trên mười hai triệu người Ba Lan tha hương khắp nơi trên thế giới, những người phải ra đi từ bao đời, vì đói kém triền miên ở Giam-mút, ở Si-lê-si, ở Ma-đô-vi, vì là nạn nhân các triều đại vua chúa tranh chấp nhau, lại vì mỗi lần mất nước... Nhưng dù ở đâu, Tổ quốc Ba Lan vẫn canh cánh bên lòng.
Phát xít Đức chiếm Ba Lan. Nhiều người yêu nước phải chạy ra nước ngoài, chiến đấu trên các mặt trận, tham gia giải phóng tất cả các nước châu Âu bị phát xít Đức chiếm đóng, cuối cùng tiến về giải phóng nước nhà.
Vài con số những trận tiêu biểu:
NA UY - Phát xít Đức đánh Na Uy tháng tư 1940, tấn công cảng Nácuých do quân đội Na Uy, Anh, Pháp, Ba Lan phòng thủ. Sư đoàn Ba Lan Pôhan đông bằng một phần ba quân số quân Đồng minh. Đức không chiếm được cảng.
ANH - Nhiều đơn vị Ba Lan đã bảo vệ bờ biển nước Anh từ mùa hè 1940. 50 phi công Ba Lan gia nhập không quân hoàng gia Anh. 139 phi công trong các phi đội độc lập của Ba Lan. Bốn phi đội máy bay Ba Lan: 2 đội khu trục 302 Pôhan, 303 Kôtsinhkô, 2 đội ném bom 300 Masôvi, 301 Pômêrami. Kết thúc chiến tranh, riêng trên mặt trận nước Anh, phi công Ba Lan hạ 214 máy bay phát xít Đức - mười hai phần trăm tổng số máy bay địch bị hạ trên đất Anh. Ngày 15 tháng chín 1940, trận không chiến lớn nhất của phát xít Đức đánh Luân Đôn, 250 máy bay Anh, trong đó có 50 máy bay phi công Ba Lan lái, bảo vệ trời Luân Đôn, 56 phi cơ phát xít rơi - phi công Ba Lan hạ 26 chiếc.
Ý - Trên đường đánh giải phóng La Mã, quân đội Ba Lan hi sinh 924 người, bị thương 2.923 người.
HÀ LAN - Quân đội Ba Lan tham dự trận tấn công cuối cùng trên đất tây Âu ở Ácnhem, trước khi tiến vào đất Đức.
LY BI - Ở cảng Tôbrúc, quân Ba Lan cùng liên quân Anh, Tiệp chiến đấu chống quân của tướng phát xít Rômmen.
ĐỨC - Ngày 16 tháng tư 1945, 40 vạn quân Ba Lan phối hợp với Hồng quân Liên Xô tấn công Béc-lin. Quân Ba Lan đánh chiếm nhà Quốc hội, tổng hành dinh Hít-le, cắm cờ Ba Lan trên cửa thành Brenđenbua.
Thủy quân Ba Lan đánh 665 trận trên các đại dương.
Ở trong nước Ba Lan, 15 vạn du kích có vũ khí. Người Ba Lan đã có mặt trong hàng ngũ du kích ở các nước Pháp, Hà Lan, Bỉ, Đan Mạch, Na Uy, Liên Xô...
Khi kết thúc chiến tranh, Ba Lan đã phát triển tới 50 vạn bộ binh chính quy, 1.000 chiến xa, 554 máy bay - lực lượng quân sự Ba Lan đứng thứ tư ngay sau Liên Xô, Mỹ, Anh.
Sự lạ Ba Lan! Sự lạ Ba Lan! Quốc ca Ba Lan đã hình thành từ tinh thần Ba Lan khắp nơi trên thế giới vọng về, như thế:
Không, nước Ba Lan không thể chết
Bởi vì chúng tôi vẫn sống
Đúng vậy, nước Ba Lan bị xóa tên trên bản đồ thế giới. Nước Ba Lan phải chịu tang sáu triệu người bị thảm sát trong các trại tập trung, hơn nửa triệu người hi sinh trong chiến đấu. Nước Ba Lan đã bị chia thành những tỉnh mới của nước Đại Đức.
Nhưng thủ đô Vác-sa-va, trung tâm và linh hồn người Ba Lan hướng về, vẫn sống. Tháng tư, tháng năm 1943, các khu tập trung người Do Thái Ba Lan giữa thành phố nổi dậy. Tháng tám 1944, cả Vác-sa-va đứng lên trong 22 ngày đêm chiến đấu, 30 vạn người đã hi sinh và cả thành phố bị hủy diệt. Vác-sa-va, thành phố kháng chiến quyết liệt nhất châu Âu.
Stô-la-rếch nói:
- Tôi đã ở lại công tác bí mật trong thành phố suốt cả sáu năm.
Những nét nhăn trên khuôn mặt gò má cao của Stô-la-rếch như vạc thêm, trầm xuống. Con người ấy trong lúc vui, dù anh có mỉm cười, vẻ đăm đắm khắc khổ những ngày qua vẫn hằn lại nguyên đấy.
Khi thành phố đã hoàn toàn bị phát xít chiếm đóng, cuộc chiến đấu bí mật bắt đầu. Hai anh em Stô-la-rếch vừa viết báo vừa in báo bí mật ngay trong thành phố.
Ngày 1 tháng tám 1944, cả Vác-sa-va vùng lên. Hít-le ra lệnh: Hủy diệt Vác-sa-va! Treo cổ Vác-sa-va! Xóa tên Vác-sa-va!
Không quân phát xít ném bom triệt hạ từng khu nhà. Xe tăng địch húc đổ từng bức tường.
- Trận đánh gần chợ, cách chỗ chúng ta ngồi một góc, ngay chỗ ngõ hẻm Hầm Bia ra, tôi bị một mảnh đạn vào bụng. Đội cứu thương cáng tôi ra ngoại ô. Anh tôi có ra thăm tôi một lần. Lần ấy cũng là lần cuối. Tôi được đưa sang chữa vết thương ở Liên Xô. Anh tôi trở vào thành phố, hi sinh trong trận đánh xe tăng ở khu Chợ.
Thành phố không còn một ngôi nhà. Xe tăng phát xít Đức nghiền nát tất cả mặt đá, mặt gạch các quảng trường. Cả thành phố là một đống gạch.
Trong khoảnh khắc, rõ ràng tôi thấy được Vác-sa-va càng lạ lùng, kỳ diệu, không phải chỉ một vẻ mảnh mai yểu điệu đáng yêu hôm nay. Thành phố đã được xây dựng lại bằng trí nhớ của những người Vác-sa-va còn sống, bằng hồ sơ tài liệu Vác-sa-va các thư viện trên thế giới, bằng ảnh trong những tập ảnh gia đình nào còn giữ được. Mỗi nhà, mỗi người cố nhớ... Mỗi người nói lại với các nhà chuyên môn. Phố này ngày trước thế nào, chỗ ấy đường lát đá hay lát gạch, gạch gì...
Trước nhất, Vác-sa-va được xây lại khu Vác-sa-va cũ. Khu chợ với dãy phố cổ kính, đúng từng nét. Phải tìm thêm trong các tài liệu nghệ thuật kiến trúc Ý ba thế kỷ trước. Quảng trường này xưa kiến trúc rất Ý, bao quanh là dãy nhà ba tầng, hai tầng, mái và cửa sổ gần nhau như những con mắt và cặp lông mày tinh nghịch của những người đứng cao thấp, nghé nghiêng, nhòm ngó. Người Vác-sa-va ước ao làm lại cái cũ vì một niềm thương yêu hơn cả sự cần dùng hôm nay. Họ muốn ở đây, nhà cửa vẫn nền nếp cổ sơ như thế. Vẫn màu tường xám quen thuộc, có những cửa hàng mặt kính chi chít ánh đèn. Tượng đá nhà thông thái Côpêních ngồi nhìn sang tượng Giêsu đứng trước cửa chính. Trong nhà thờ, trái tim Phêđêrích Chôpanh đựng trong hộp đá.
Người ta muốn tất cả lại như thế. Trong năm năm, các nhà kiến trúc đã dựng lại được Vác-sa-va, Vác-sa-va nguyên vẹn, Vác-sa-va tất cả lại như thế.
Khi những ngọn đèn điện đầu tiên trở lại với thành phố, các cụ già sung sướng đến chảy nước mắt. Rồi rạp hát số 1, rồi chuyến xe điện thứ nhất...
o O o
Nhà bạn Stô-la-rếch gần bức tường thành đỏ hắt cao khác thường, giữa khu trung tâm. Bây giờ, Vác-sa-va chỉ còn giữ lại một đoạn tường để giúp cho khách qua đường, nếu là người hay chú ý đến những cửa sau của Vác-sa-va có thể có được một ý niệm về Vác-sa-va ngày trước. Đây là bức tường khu người Do Thái bị tập trung.
Vác-sa-va đương vào những ngày sửa soạn Nô-en. Thành phố thật rộn ràng. Đây là một phong tục lâu đời của người các xứ lạnh phương bắc, lễ này là một dịp tụ hội đầm ấm trước khi có ngày lễ Giáng sinh của đạo Cơ đốc. Người ta ăn uống và cúng lễ cơn rét mướt băng giá đại hàn đương tới.
Những cành thông lớn được cắm trên những khoảng đất trống. Mỗi người đều mang về nhà mình một nhành thông xanh óng. Hoa cúc vàng, cúc trắng bày bán trên các dọc phố. Nến xanh, nến hồng, nến vàng được đựng vào những chiếc bát nhỏ - người ta đốt bát nến, những bát nến xinh xinh.
Vừa chặp tối, trông ra đường phố đã ánh lên những bát nến lung linh. Trong thành phố Vác-sa-va, tất cả những nơi đã xảy ra trận đánh, những nơi có người bị chết treo, chết bắn khi Vác-sa-va bị chiếm đều được thắp nến trong những dịp kỉ niệm. Tất cả những người đã khuất, những người đem lại sự sống cho thành phố hôm nay, đều được nhớ ơn. Mỗi bát nến ở chân tường đã cắt nghĩa điều thiêng liêng đó. Người ta đánh dấu lại tất cả. Vác-sa-va, thành phố của kỉ niệm. Kỉ niệm lòng quả cảm của con người đã làm sống lại đất nước và dân tộc.
Một chân tường, một bát nến. Người nào đã đem đến đặt bát nến nữa. Nến của những ai, không biết. Chập tối, có những người xách cả túi nến ra đường, đi đặt nến vào những nơi kỉ niệm. Ở Vác-sa-va những nơi kỉ niệm không phải chỉ là nghĩa trang, không phải chỉ có tượng đài liệt sĩ và công viên. Nơi ấy là chỗ chân tường, có người chiến sĩ đã nằm xuống. Một miếng đồng nhỏ ghi sự tích trận đánh. Để ghi nhớ, chiếc mũ sắt được chôn chìm một nửa vào trong tường. Như còn thấy người chiến sĩ đương bước vào chiến lũy, chiếc mũ sắt nhấp nhô, cạnh cửa chợ, gắn một quãng mắt xích xe tăng ghi lại trận đánh ấy, xe tăng phát xít xông vào từng khu chợ, đánh nhau với du kích. Tòa nhà thờ đầu chỗ chợ cũ. Xe tăng phát xít đã đánh nhau với du kích cả trong nhà thờ, cày nát nền sân gạch, húc đổ bốn mặt tường. Tài liệu của địch còn ghi trong hồ sơ trận hủy diệt: hơn một vạn phát đại bác bắn vào nhà thờ. Không còn một cái cột, một bức phù điêu tượng thánh. Bây giờ nhà thờ đã được dựng lại như cổ. Vào những ngày này, xung quanh nhà thờ, hoa và nến chồng chất tưởng niệm các chiến sĩ đã hi sinh.
Chân tường chỗ này... Chân tường chỗ này... khắp các mặt đường Vác-sa-va đầy ánh nến của kỉ niệm và ghi nhớ công ơn...
Ánh nến trắng như ánh trăng. Thành phố tràn ngập một ý nghĩa thiêng liêng sâu thẳm. Cả Vác-sa-va đi nghĩa trang trong hoa cúc trắng, những cành thông và những bát nến. Người trên đường phố đặt hoa và thắp nến. Người đi nghĩa trang, đi suốt đêm, tất cả các thứ tàu xe ở Vác-sa-va đã được tập trung cho ngày hôm nay cho các nghĩa trang.
Bốn chiếc cầu đông nghịt người song sóng qua sông Vít-tuyn. Mùa đông về chậm. Những đàn bồ nông chưa đi tránh rét, bay lượn trên cầu Pô-ni-a-tốp-suy yểu điệu, như còn lưu luyến dòng sông.
Chúng tôi vào nghĩa trang các liệt sĩ. Stô-la-rếch đưa tôi đi thăm mộ anh của anh ấy. Ở mỗi lối đi vào, đội thiếu niên quàng khăn đỏ đứng nghiêm. Các cháu, các em canh gác cho giấc ngủ chiến sĩ ngày kỉ niệm trang nghiêm.
Hoa và nến đặt trên mộ người thân, trên cả những nấm mộ không quen biết. Các em thiếu niên đứng gác. Các em cầm kéo, cầm chổi đi sửa cây, quét các nấm cỏ và ghế ngồi quanh mộ. Nến sáng trong lá như bao nhiêu trăng sao cùng mọc lên giữa vườn cây.
Trên nấm mộ anh của Stô-la-rếch đặt phiến đá trắng. Trước mặt kê đứng hai chiếc ghế để nguyên cả thân cây bạch dương làm ghế ngồi. Tấm ảnh in vào phiến đá, anh ấy thật giống mặt Stô-la-rếch khi còn trẻ.
Stô-la-rếch để hai bát nến vàng xuống bên bó hoa cúc trắng của tôi. Ai đã đặt những nhánh hoa cúc vàng, hoa cúc trắng và những bát nến hồng đương leo lét cháy?
- Có người nhà đã đến viếng anh ấy trước chúng ta
- Không, anh em tôi không có ai thân thích ở đây. Và anh ấy hi sinh từ khi chưa yêu ai. Hoa và nến này của người Vác-sa-va. Phong lục Vác-sa-va là ngày và đêm Nô-en dành cho các chiến sĩ.
Ánh nến lung linh như sáng trăng trên khoảng cách những dãy mộ hai bên.
Tôi hỏi:
- Anh có nhớ Khâm Thiên của Hà Nội?
- Nhớ. Cũng tháng chạp này.
Stô-la-rếch đã đến thăm Hà Nội. Năm trước, chúng tôi đã cùng đi thắp hương đài tưởng nhớ ở Khâm Thiên.
1980
[1] Thời trước ở châu Âu bệnh dịch tả còn là một tai nạn khủng khiếp, trước cửa nhà thờ thường chôn một cột đá. Người mê tín cho là cột đá có phép lạ cản được bệnh dịch.
Ký Ức Phiên Lãng Ký Ức Phiên Lãng - Tô Hoài Ký Ức Phiên Lãng