Bạn chỉ có thể thắng nếu bạn dám đương đầu với thất bại.

Rocky Aoki

 
 
 
 
 
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: The Monogram Murders (2014)
Dịch giả: Tuấn Việt
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 257 / 35
Cập nhật: 2020-04-04 20:28:24 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 1 - Jennie Trốn Chạy
óm lại, tôi không ưa cô ta,” cô phục vụ có mái tóc bay bay thì thào nói.
Đó là một tiếng thì thào lớn vì mọi khách trong quán cà phê Pleasant đều nghe thấy. Ông tự hỏi, trong trường hợp này, cô ta là một cô phục vụ nào khác hay là một khách thường xuyên giống như ông.
“Mắc gì tôi phải ưa cô ta, đúng không nào? Cô nghĩ khác thì tùy cô.”
“Tôi nghĩ cô ta cũng tốt mà,” cô phục vụ mặt tròn, thấp bé hơn cất tiếng, có vẻ kém tự tin hơn so với ít phút trước.
“Khi lên cơn ngạo mạn thì cô ta mới thế. Lúc cái mặt vênh lên thì lưỡi cô ta mới nhỏ độc. Chẳng hay ho chút nào. Tôi biết hàng tá người kiểu đó – chớ bao giờ tin họ.”
“Chị nói chẳng hay ho chút nào là ý sao?” cô mặt tròn hỏi.
Hercule Poirot, người duy nhất đang dùng bữa trong quán cà phê vào lúc 7 giờ 30 phút tối ngày thứ năm, tháng 2, biết rõ cô phục vụ tóc bay bay muốn ngụ ý gì. Ông mỉm cười một mình. Đây không phải lần đầu cô đưa ra một quan sát sắc bén.
“Nếu vô tình thốt ra lời gì đó gay gắt thì còn tha thứ được. Tôi không ngại thú nhận, chính tôi cũng thường thế. Nhưng tôi mà vui thì tôi muốn mọi người cùng vui. Thế mới phải chứ. Nhưng có những kẻ như cô ta, chuyện chẳng có gì mà cứ trầm trọng hóa lên. Đó chính là loại người cần phải tránh thật xa.”
Bien vu, Hercule Poirot nghĩ. De la vrai sagessepopulaire.
Cửa quán chợt mở tung, bật cả vào bờ tường. Đứng ở lối vào là một phụ nữ trong bộ áo khoác nâu nhạt đội chiếc nón cũng màu nâu nhưng sậm hơn. Cô có mái tóc vàng hoe. Poirot không thấy khuôn mặt cô. Đầu cô đang ngoái ra sau như chờ ai đó theo vào.
Vài giây cửa ngỏ cũng là đủ lâu để cái lạnh đêm hôm tước đi hết sự ấm áp của căn phòng nhỏ. Bình thường, việc đó sẽ khiến Poirot nổi cáu, nhưng ông đang quan tâm sự xuất hiện kịch tính của kẻ mới đến nên chẳng mấy để ý tác động mà cô ta gây ra.
Ông ấp bàn tay lên tách cà phê, hy vọng giữ lại chút hơi ấm cho món uống của mình. Ngôi nhà nhỏ hẹp, tường xiêu vẹo tại khu vực Gregory’s Alley này của London dù chẳng phải sang trọng gì nhưng lại có món cà phê ngon nhất thế giới. Ông không hay uống cà phê trước và sau bữa tối – thật ra, một viễn cảnh như thế luôn khiến ông thấy gơm gớm trong hoành cảnh bình thường – nhưng vào mỗi thứ năm, khi đến Pleasant chính xác lúc 7 giờ 30 tối, ông đều ban cho mình một ngoại lệ. Giờ thì ông xem cái ngoại lệ hàng tuần này là một thứ truyền thống nho nhỏ.
Những nề nếp khác của quán thì ông chẳng ưa mấy: cứ mỗi khi đến quán, ông lại thấy dao nĩa, khăn ăn và ly nước bày lung tung trên bàn và phải sắp chúng lại cho đúng vị trí. Rõ ràng các cô phục vụ luôn cho rằng các món đồ này nằm đâu đó – bất cứ đâu – cũng được. Poirot không chịu và luôn đòi hỏi tái lập lại trật tự mỗi khi ông đến.
“Xin lỗi, cô làm ơn đóng cửa sau khi vào được không ạ?” Tóc Bay Bay gọi với ra người phụ nữ áo-nâu-nón-nâu đang nắm chặt khung cửa, mặt vẫn hướng ra đường. “Hoặc giả cô không vào cũng chẳng sao. Chúng tôi ở trong này không muốn bị lạnh cóng đâu ạ.”
Người phụ nữ bước vào. Cô ta khép cửa lại, không hề tạ lỗi vì đã để ngỏ cửa quá lâu. Từ cuối phòng cũng nghe được hơi thở gấp của cô. Cô chừng như chẳng để ý sự hiện diện của mọi người. Poirot đón cô bằng một câu Chào cô nhỏ nhẹ. Cô khẽ xoay sang ông, nhưng không đáp lễ. Mắt cô mở lớn trong nỗi lo lắng bất thường, một nỗi lo đủ rõ ràng để người lạ có thể nắm bắt được như một thứ vật chất.
Poirot không còn thấy tĩnh tại và hài lòng như mọi khi. Sự thanh bình của ông đã vỡ tan.
Người phụ nữ lao vội đến cửa sổ, săm soi nhìn ra ngoài. Cô ta sẽ không thấy thứ muốn tìm, Poirot nghĩ. Nhìn vào màn đêm từ một căn phòng chiếu sáng tốt thì chẳng thể thấy gì nhiều khi mà kính cửa chỉ phản chiếu hình ảnh ở bên trong căn phòng. Thế mà cô ta vẫn đăm đăm nhìn ra ngoài hồi lâu, cứ như quyết chí muốn canh gác cả con đường.
“Ồ, hóa ra là,” cô Tóc Bay Bay nói với một thoáng bực bội. “Có chuyện gì vậy? Cô gặp chuyện gì sao?”
Người phụ nữ áo-khoác-nâu-mũ-nâu quay đầu lại. “Không, tôi…” Lời thốt ra như một tiếng thổn thức. Nhưng cô ta nén lại được. “Không. Tôi lấy chiếc bàn ở góc có được không?” Cô trỏ vào chiếc bàn ở xa cánh cửa nhất.
“Trừ chỗ quý ông kia đang ngồi, cô muốn chọn đâu cũng được ạ. Các bàn đều trống cả.” Sực nhớ đến Poirot, Tóc Bay Bay vội bảo ông, “Bữa tối của ông đang được nấu, ngon lắm đấy ạ.”
Poirot rất thích nghe câu này. Thức ăn ở Pleasant ngon chẳng kém cà phê. Thật ra, xét cả hai khoản này, Poirot thấy khó tin vào điều mà ông được biết: các đầu bếp ở đây đều là người Anh. Incroyable.
Tóc Bay Bay quay sang người phụ nữ đang lo lắng. “Cô chắc là không sao chứ, Jennie? Trông cô cứ như vừa gặp phải ma quỷ ấy.”
“Tôi không sao, cảm ơn. Tôi chỉ xin một tách trà nóng thật đặc, làm ơn nhé.”
Jennie bước vội đến chiếc bàn ở góc xa, ngang qua Poirot mà không hề nhìn ông. Ông khẽ xoay ghế để có thể quan sát cô. Chắc chắn cô ta đang gặp chuyện, một chuyện mà cô rõ ràng không muốn nói với các cô phục vụ. Không cởi áo, cởi nón, cô ngồi xuống chiếc ghế trông ra đường, đấu lưng với cánh cửa. Chỉ xong đâu đấy cô mới ngoái lại, nhìn ra sau.
Có cơ hội quan sát chi li hơn khuôn mặt cô, Poirot đoán cô trạc bốn mươi tuổi. Đôi mắt to xanh luôn mở lớn và không bao giờ chớp. Poirot nghĩ, đôi mắt ấy như đang nhìn một cảnh tượng gây sốc. Gặp phải ma quỷ, Tóc Bay Bay đã nhận xét như thế. Nhưng Poirot chẳng thấy cảnh tượng nào kinh khủng với Jennie cả, chỉ có căn phòng vuông vức với bàn ghế, chiếc tủ gỗ treo áo khoác và nón, cùng những chiếc kệ cong vênh, đỡ trọng lượng của rất nhiều ấm tách với màu sắc, hoa văn và kích cỡ khác nhau.
Các kệ này chỉ nhìn thấy thôi là cũng đủ rùng mình! Poirot chẳng hiểu sao một chiếc kệ cong oằn lại không được thay ngay bằng một chiếc kệ phẳng phiu. Ông cũng không thể hiểu nổi vì sao người ta xếp nĩa lên chiếc bàn vuông mà lại không chịu đặt nó song song với cạnh bàn. Tuy vậy, không phải ai cũng suy nghĩ như Hercule Poirot và từ lâu ông đã chấp nhận điều đó, cả mặt thuận lợi lẫn bất lợi mà nó gây ra.
Ngồi nhấp nhổm trên ghế, người phụ nữ – Jennie – đăm đăm nhìn ra cửa như chờ đợi ai đó xông vào bất cứ lúc nào. Cô đang run rẩy, chắc một phần vì lạnh.
Không – Poirot đổi ý – hoàn toàn không vì lạnh. Quán đã ấm lại rồi. Do muốn canh chừng cánh cửa, Jennie ngồi quay mặt về phía đó, giữ khoảng cách tối đa, dấy là kết luận hợp lý duy nhất.
Nâng tách cà phê lên, Poirot rời bàn mình, tiến về phía cô. Cô không đeo nhẫn cưới, ông nhận xét. “Cho phép tôi ngồi cùng cô một lát nhé?” Ông ước gì có thể sắp xếp lại dao nĩa, khăn ăn và ly nước trên bàn cô như đã làm ở bàn ông, nhưng ông nén lại được.
“Xin lỗi? À vâng, được ạ.” Giọng cô cho thấy cô chẳng mấy quan tâm. Cô chỉ quan tâm đến cánh cửa. Cô vẫn đang ráo riết canh chừng nó, vẫn nhấp nhổm trên ghế.
“Cho phép tôi tự giới thiệu. Tên tôi là… à…” Poirot bỏ lửng. Nếu ông cho cô ta biết tên, Tóc Bay Bay và cô phục vụ kia sẽ nghe thấy, và với họ ông sẽ chẳng còn là một quý ông nước ngoài vô danh, một cảnh sát hưu trí từ Lục địa nữa. Cái tên Hercule Poirot có tác dụng rất mạnh đối với một số người. Suốt vài tuần qua, kể từ khi bước vào tình trạng ẩn cư cực kỳ thú vị, lần đầu tiên Poirot cảm nhận sự thanh thản của việc chẳng là ai cụ thể.
Chẳng có dấu hiệu nào cho thấy Jennie quan tâm đến tên tuổi hay sự hiện diện của ông. Một giọt lệ tuôn ra từ khóe mắt, lăn dài trên má cô.
“Thưa cô Jennie,” Poirot nói, hy vọng việc gọi bằng tên thánh sẽ đem lại chút cơ may thu hút sự chú ý của cô. “Tôi từng là cảnh sát. Nay tôi đã nghỉ hưu, nhưng trước lúc nghỉ, trong công việc, tôi đã từng gặp gỡ rất nhiều người ở trạng thái bồn chồn giống như cô hiện nay. Tôi không ngụ ý những người bất hạnh, dù có rất nhiều người như thế ở bất cứ nước nào. Không đâu, tôi đang nói đến những người tin rằng mình đang gặp nguy.”
Cuối cùng, ông đã gây được ấn tượng. Đôi mắt mở lớn và sợ hãi của Jennie dán lên ông. “Là một… một cảnh sát?”
“Oui. Tôi đã nghỉ hưu nhiều năm rồi, nhưng…”
“Vậy ở London thì ông không thể làm gì được, phải không ạ? Ông không thể… Ý tôi là ông không có thẩm quyền ở đây? Để bắt tội phạm hay những việc tương tự?”
“Đúng vậy.” Poirot mỉm cười với cô. “Ở London tôi là một ông già đang hưởng những ngày hưu trí.”
Đã gần mười giây cô không nhìn ra cửa.
“Tôi nói có đúng không, cô nhỉ? Cô tin mình đang gặp nguy, đúng không? Cô nhìn ra sau phải chăng vì cô nghi có kẻ nào đó đáng sợ đang theo chân cô đến đây và sẽ xông qua cửa bất cứ lúc nào?”
“Ồ, tôi đang gặp nguy, đúng thế!” Cô có vẻ muốn nói thêm. “Có thật là ông không còn dính líu gì đến cảnh sát nữa chứ?”
“Không dính líu gì cả,” Poirot trấn an. Không muốn cô nghĩ ông hoàn toàn hết thời, ông bổ sung, “Nếu như cô muốn cảnh sát giúp thì tôi có một người bạn là thám tử ở Scotland Yard. Anh ta còn trẻ lắm – chỉ nhỉnh hơn ba mươi một chút thôi – nhưng anh ta sẽ tiến xa trong ngành cảnh sát, tôi nghĩ thế. Chắc chắn anh ta sẽ rất vui nếu được tiếp kiến cô. Về phần tôi, tôi có thể…” Poirot khựng lại khi thấy cô phục vụ mặt tròn tiến đến, bưng theo một tách trà.
Mời trà Jennie xong, cô ta lui vào bếp. Tóc Bay Bay cũng đã vào lại đó. Biết cô này thích suy diễn về hành vi của các vị khách quen, Poirot đoán sớm muộn gì cô ta cũng sẽ dựng ra một câu chuyện sống động về Quý ông Nước ngoài và cuộc viếng bàn của Jennie đầy bất ngờ. Với mọi khách của Pleasant, Poirot hiếm khi nói câu nào dài hơn mức cần thiết. Chỉ trừ một lần khi ông dùng bữa tại đây cùng Edward Catchpool – thám tử của Scotland Yard mà ông tạm thời ở cùng nhà trọ – là ông có trao đổi qua lại, trên tinh thần l’hibernation.
Poirot chẳng thích việc buôn dưa lê của các cô phục vụ. Ông rất mừng vì sự vắng mặt của họ có lợi cho ông. Ông hy vọng điều đó sẽ làm tăng cơ hội Jennie chịu thổ lộ.
“Tôi sẽ rất vui nếu được tư vấn cho cô, thưa cô,” ông nói.
“Ông tốt lắm, nhưng không ai giúp được tôi đâu.” Jennie quệt mắt. “Tôi mong được giúp lắm chớ… mong ghê gớm! Nhưng muộn rồi. Tôi đã chết, ông thấy đấy, hay cũng chẳng mấy chốc nữa thôi. Tôi không thể cứ lẩn trốn mãi được.”
Đã chết… Lời cô ta đưa một cơn lạnh mới vào căn phòng.
“Cho nên, chẳng còn ai giúp được gì đâu,” cô nói tiếp, “mà có còn đi nữa thì tôi cũng không xứng đáng… Nhưng… có ông ngồi cùng bàn, tôi cảm thấy thư thả hơn đôi chút.” Cô khoanh tay lại, hoặc giả để thoải mái hơn, hoặc giả để ngăn cơ thể run lên. Cô chưa uống một ngụm trà nào. “Xin ông cứ ngồi lại đây. Khi trò chuyện cùng ông thì tôi sẽ không bị sao cả. Ít ra đó cũng là chút an ủi.”
“Thưa cô, điều này rất hệ trọng. Hiện cô vẫn đang sống, và chúng ta phải làm mọi việc cần thiết để giữ cho cô sống. Hãy cho tôi biết…”
“Không!” Cô co rúm lại trong ghế, mắt mở lớn. “Không, ông không được! Không được làm bất cứ việc gì để ngăn chặn. Không thể nào. Không thể tránh khỏi. Tôi chết đi thì công lý rốt cuộc mới được thực thi.” Cô lại ngoái nhìn cánh cửa.
Poirot chau mày. Jennie có thể đã khá hơn đôi chút kể từ khi ông ngồi vào bàn cô, còn ông thì chắc chắn cảm thấy tồi tệ hơn. “Tôi hiểu cô có đúng không vậy? Có phải cô ngụ ý ai đó đang săn đuổi và muốn giết cô?”
Jennie nhìn xoáy vào ông bằng đôi mắt xanh đẫm lệ. “Nếu tôi tự nguyện để bị giết thì đó có thể xem là giết người không? Tôi chán ngán lắm rồi, cứ phải trốn chạy và sống trong hãi hùng. Nếu như nó phải xảy ra thì tôi mong nó chóng kết thúc đi, mà nó sẽ xảy ra thôi vì phải là như thế. Đó là cách duy nhất để mọi thứ ổn thỏa. Đó là điều tôi đáng phải hứng chịu.”
“Không thể vậy được,” Poirot nói. “Tuy không biết cụ thể về những dự cảm của cô, tôi vẫn không đồng ý với cô. Giết người không bao giờ là đúng cả. Anh bạn cảnh sát của tôi… cô phải để anh ấy giúp cô.”
“Không! Ông không được nói một lời nào với ông ta hay bất cứ ai. Hãy hứa với tôi đi!”
Hercule Poirot không có thói quen hứa hẹn mà không giữ lời.
“Cô đã làm gì để đến nỗi phải chịu sự trừng phạt bằng cái chết? Phải chăng chính cô đã giết ai đó?”
“Tôi có giết người hay không thì có khác gì đâu? Ông biết đấy, đâu phải chỉ có giết người mới là không thể dung thứ. Chắc ông chưa từng làm việc gì thực sự không thể dung thứ, phải không ông?”
“Còn cô thì đã làm ư? Và cô tin rằng cô phải trả giá bằng mạng sống của mình? Non. Vậy không ổn. Giá như tôi thuyết phục được cô theo tôi về nhà trọ của tôi – cũng ở gần đây thôi. Người bạn ở Scotland Yard của tôi, ông Catchpool…”
“Không!” Jennie bật dậy khỏi ghế.
“Xin cô hãy ngồi xuống cho, thưa cô.”
“Không. Ồ, tôi đã nói quá nhiều! Tôi thật là ngu ngốc! Tôi thổ lộ với ông chỉ vì ông có vẻ tử tế và tôi nghĩ ông không thể làm gì. Nếu ông không nói ông đã nghỉ hưu và từ nước khác đến, tôi sẽ chẳng thốt ra nửa lời! Xin hãy hứa với tôi điều này: nếu người ta tìm thấy tôi đã chết, xin ông bảo người bạn cảnh sát của ông đừng truy lùng hung thủ.” Cô nhắm nghiền mắt lại, hai tay chắp vào nhau. “Ôi, mong đừng ai mở miệng! Vụ án đó không bao giờ nên phá. Hãy hứa với tôi ông sẽ bảo người bạn cảnh sát của ông rằng tôi đã đồng ý để bị giết. Nếu ông còn quan tâm đến công lý thì xin hãy làm theo yêu cầu của tôi.”
Cô ta lao ra cửa. Poirot đứng dậy để đi theo. Nhưng rồi, nhận ra cái khoảng cách mà cô đã băng qua trong khoảng thời gian ông nhấc mình lên khỏi ghế, ông ngồi xuống trở lại, buột ra tiếng thở dài. Vô ích, Jennie đã ra đi, đi vào màn đêm. Ông sẽ chẳng bao giờ bắt kịp cô.
Cửa nhà bếp mở ra và Tóc Bay Bay xuất hiện cùng bữa tối của Poirot. Mùi thơm của nó làm bao tử ông khó chịu. Ông đã mất sạch mọi hứng thú ăn uống.
“Jennie đâu rồi ạ?” Tóc Bay Bay hỏi như thể ông có trách nhiệm nào đó về sự biến mất của Jennie. Mà thật ra ông cũng cảm thấy có trách nhiệm. Giá như ông di chuyển nhanh hơn, giá như ông lựa lời cẩn thận hơn…
“Thật là quá đáng!” Tóc Bay Bay đặt mạnh bữa ăn của Poirot xuống bàn rồi nặng bước quay trở về cửa bếp. Khi đẩy nó mở ra, cô nói lớn, “Ả Jennie đó đã bỏ đi mà không thanh toán!”
“Nhưng cô ta phải thanh toán khoản gì cơ chứ?” Hercule Poirot thì thào với chính mình.
Sau một phút nỗ lực bất thành tự buộc mình quan tâm đến khoanh thịt bò cùng chỗ mì sợi rán, Poirot đến gõ cửa nhà bếp. Tóc Bay Bay mở hé cửa để không làm lộ ra cái khung cảnh phía sau thân hình mảnh mai của cô.
“Bữa ăn của ông có vấn đề gì không ạ?”
“Xin cho phép tôi thanh toán khoản tiền trà mà cô Jennie quên chưa trả,” Poirot đề nghị. “Đổi lại, xin cô cho tôi hỏi vài ba câu được không ạ?”
“Ông quen Jennie sao? Tôi chưa từng thấy ông cùng đến với cô ta trước đây.”
“Non. Tôi không quen cô ta. Cho nên tôi mới phải hỏi cô.”
“Không quen, sao ông lại đến ngồi với cô ta?”
“Cô ta đang sợ hãi, đang rất hoang mang. Tôi thấy bồn chồn về điều đó. Tôi hy vọng có thể giúp gì được cô ta.”
“Loại người như Jennie, ông không giúp được đâu,” Tóc Bay Bay nói. “Được thôi, tôi sẽ trả lời các câu hỏi của ông, nhưng tôi xin hỏi ông trước một câu nhé: ông từng làm cảnh sát ở đâu?”
Poirot không thèm chỉ ra rằng cô đã hỏi ông đến bốn câu. Câu này là câu thứ tư.
Cô soi mói nhìn ông qua cặp mắt ti hí. “Ở nơi nào đó người ta nói tiếng Pháp, nhưng không phải nước Pháp, đúng không ạ?” cô nói. “Tôi đã thấy khuôn mặt ông trông ra sao khi các cô gái kia nói ‘gã người Pháp’.”
Poirot mỉm cười. Có lẽ để cho cô biết tên cũng chẳng hại gì. “Tôi là Hercule Poirot, thưa cô. Đến từ nước Bỉ. Rất hân hạnh được quen biết cô.” Ông chìa tay ra.
Cô bắt tay ông. “Fee Spring. Tên thật là Euphemia, nhưng mọi người đều gọi tôi là Fee. Nếu gọi nguyên tên của tôi thì người ta sẽ không nhớ nổi mình định nói gì tiếp, phải không ạ? Không phải vì tôi xấu xa gì đâu đấy.”
“Cô có biết nguyên tên của cô Jennie không?”
Fee hất đầu về hướng chiếc bàn của Poirot, nơi bữa ăn ứ hự của ông vẫn còn đang tỏa khói. “Xin ông hãy dùng bữa. Chỉ một chốc nữa là tôi ra ngay.” Cô đột ngột rút vào trong, sập cửa ngay trước mặt ông.
Poirot lui về chỗ. Có lẽ ông phải làm theo lời khuyên của Fee Spring, nỗ lực hơn với khoanh thịt bò. Thật phấn khích khi nói chuyện với ai đó có khả năng quan sát chi tiết. Poirot không gặp quá nhiều người như thế.
Fee nhanh chóng xuất hiện lại với chiếc tách trên tay, không đĩa lót. Cô uống một ngụm rồi ngồi xuống chiếc ghế mà Jennie bỏ lại. Poirot cố không nhăn mặt trước âm thanh uống nước mà cô tạo ra.
“Tôi không biết gì nhiều về Jennie,” cô nói. “Chỉ là những thứ nhặt nhạnh được qua những lời chướng tai mà cô ta nói ra. Cô ta là người giúp việc trong một ngôi nhà lớn. Sống ở đấy. Đó là lý do vì sao cô ta thường đến đây. Để làm cái việc của gia nhân ấy mà: mua cà phê và bánh trái đem về phục vụ những bữa tiệc tùng linh đình. Băng qua cả cái thành phố này – có lần cô ta đã nói thế. Khối gì khách quen của chúng tôi cũng đi xa như vậy. Jennie bao giờ cũng lưu lại, uống nước. ‘Làm ơn cho món cũ’, lần nào đến cô ta cũng nói thế, cứ như cô ta là tiểu thư thứ thiệt vậy. Cái giọng điệu ra vẻ kiêu sa đó, tôi chẳng coi ra gì. Đó đâu phải là giọng bẩm sinh của cô ta. Cô ta không nói nhiều chẳng qua vì biết rõ sẽ không giữ mãi được chất giọng kiêu sa đó.”
“Xin lỗi,” Poirot nói, “nhưng làm sao cô biết cô Jennie không phải lúc nào cũng nói năng theo cách đó?”
“Ông có bao giờ nghe một gia nhân lúc nào cũng nói năng như thế chưa? Tôi thì chưa đâu.”
“Oui mais… Vậy ra đó chỉ là đồn đoán?”
Fee Spring bất đắc dĩ thừa nhận cô ta không biết chắc. Suốt bấy lâu cô ta biết Jennie, Jennie vẫn luôn ăn nói như một tiểu thư thứ thiệt.
“Tôi dám nói thế này về Jennie: cô ta là một cô hầu trà, cho nên ít ra trong đầu cô ta cũng có chút hiểu biết.”
“Cô hầu trà?”
“Đúng vậy.” Fee hít vào mùi cà phê tỏa ra từ chiếc tách của Poirot. “Nếu ông đã hỏi thì xin thưa, dân nghiện trà mà đi uống cà phê thì chỉ nhìn thoáng qua là biết ngay ấy mà.”
“Cô có biết họ của quý bà mà Jennie phục vụ không, hay địa chỉ ngôi nhà lớn đó?” Poirot hỏi.
“Không. Thậm chí họ của Jennie tôi còn chưa biết nữa là. Tôi chỉ biết cô ta đã trải qua nhiều năm buồn khổ. Có lần cô ta đã nói thế.”
“Buồn khổ? Cô ta có nói là kiểu buồn khổ nào không?”
“Còn kiểu nào nữa?” Fee quả quyết. “Kiểu làm trái tim thổn thức ấy.”
“Ý tôi là có rất nhiều nguyên do gây buồn khổ: tình yêu không được hồi đáp, mất đi người yêu thương một cách bi thảm ở độ tuổi trẻ trung…”
“Ờ, chúng tôi chẳng hề biết đó là chuyện gì.” Fee nói với một thoáng cay cú trong chất giọng. “Và sẽ không bao giờ biết. Cô ta chỉ hé lộ mỗi một từ, buồn khổ, chỉ vậy thôi. Ông thấy đấy, vấn đề của Jennie là cô ta không chịu nói. Khi cô ta ngồi ở chiếc ghế này đây, ông chẳng giúp gì được cô ta đâu. Cô ta bỏ đi ông cũng chẳng làm gì được. Jennie tự bưng bít hoàn toàn, đó là rắc rối của cô ta. Cô ta thích trầm mình vào đó, cho dù nó là gì.”
Tự bưng bít hoàn toàn… Những lời này khơi dậy nơi Poirot ký ức về một tối thứ năm ở Pleasant nhiều tuần trước, khi Fee nói về một vị khách.
Ông nói, “Cô ta không hỏi han gì cả, n’est-ce pas? Cô ta không quan tâm đến giao tiếp xã hội hay trò chuyện? Cô ta không quan tâm tìm hiểu những tin tức mới nhất trong cuộc sống người khác, đúng không nhỉ?”
“Quá đúng!” Fee có vẻ ấn tượng. “Cô ta chẳng có chút tò mò nào cả. Tôi chưa từng thấy ai như thế, chỉ thu mình vào những mối quan tâm riêng. Cô ta không thấy cả thế giới lẫn những người chúng ta. Cô ta không bao giờ hỏi han người khác sống thế nào hay công việc ra sao.” Fee chợt nghiêng đầu. “Ông nắm bắt cũng nhanh thật nhỉ?”
“Tôi chỉ biết từ những gì nghe lỏm được cô nói với các cô phục vụ khác thôi mà, thưa cô.”
Khuôn mặt Fee chợt đỏ dừ. “Tôi thấy ngạc nhiên là ông đã cất công nghe chúng tôi tán gẫu.”
Poirot không muốn làm cô bối rối thêm, vì vậy ông không cho cô biết ông đang rất trông đợi vào các mô tả của cô về những cá nhân đã được ông liệt vào hàng ‘Những nhân vật của quán cà phê’. Ông Không Hẳn chẳng hạn. Mỗi lần đến đây, ông ta đều kêu món ăn, rồi lập tức hủy món vì cho rằng món đó không hẳn là món ông ta thích.
Bây giờ không phải là lúc thích hợp để truy vấn xem Fee có đặt cái tên nào cho Hercule Poirot – giống như ông đã đặt tên cho Ông Không Hẳn – và dùng nó mỗi khi ông vắng mặt hay không? Hẳn sẽ là một cái tên nào đó gắn với bộ ria mép điệu đàng của ông.
“Vậy ra cô Jennie không muốn biết chuyện của người khác,” Poirot đăm chiêu nói, “nhưng cô ta cũng không giống những người chẳng quan tâm đến cuộc sống và suy nghĩ của những người xung quanh, mà chỉ kể lể dài dòng về chính bản thân mình. Cô ta không như thế, đúng không nhỉ?”
Fee nhướn mày. “Ông có trí nhớ tốt thật đấy. Lại chính xác nữa chứ. Không, Jennie không phải là loại người thích nói về mình. Hỏi thì cô ta đáp, nhưng không nấn ná lại. Cô ta không muốn giữ quá lâu thứ gì ở trong đầu, cho dù đó là gì đi nữa. Báu vật của cô ta – dù nó không làm cho cô ta hạnh phúc – chính là những gì mà cô ta khắc khoải. Từ lâu tôi đã thôi không tìm hiểu cô ta nữa.”
“Cô ta đang khắc khoải với nỗi buồn khổ,” Poirot hạ giọng. “Và sự hiểm nguy.”
“Cô ta nói mình gặp nguy ư?”
“Oui, mademoiselle. Tôi tiếc là đã không kịp ngăn cô ta bỏ đi. Nếu có chuyện gì xảy đến với cô ta…” Poirot lắc đầu, ước gì ra khỏi cái cảm xúc mà ông đã rơi vào. Ông dùng lòng bàn tay vỗ mặt bàn khi đi đến quyết định. “Demain matin, tôi sẽ quay lại đây. Cô nói cô ta thường đến đây, n’est-ce pas? Tôi sẽ tìm ra cô ta trước khi mối nguy đến. Lần này Hercule Poirot sẽ nhanh hơn!”
“Nhanh hay chậm cũng thế cả thôi,” Fee nói. “Không ai tìm ra Jennie đâu, cho dù cô ta có ở ngay trước mũi, và cũng không ai giúp được cô ta đâu.” Cô đứng dậy, nhặt đĩa thức ăn của Poirot. “Để cho thức ăn ngon nguội lạnh hết thật không phải chút nào,” cô kết luận.
Kỳ Án Dòng Chữ Tắt Kỳ Án Dòng Chữ Tắt - Agatha Christie Kỳ Án Dòng Chữ Tắt