A truly good book teaches me better than to read it. I must soon lay it down, and commence living on its hint.... What I began by reading, I must finish by acting.

Henry David Thoreau

 
 
 
 
 
Tác giả: Donato Carrisi
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 44
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2366 / 88
Cập nhật: 2015-08-03 14:45:08 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 10
ừ khóa được gõ nhiều nhất trong các trang tìm kiếm là “sex”. Thứ hai là “God”. Cứ mỗi khi nghĩ đến chuyện đó, Goran lại thắc mắc vì sao người ta tìm kiếm Chúa ở trên mạng. Ở vị trí thứ ba đồng hạng, là hai từ khóa: “Britney Spears” và “death” - cái chết.
Sex, God, Death và Britney Spears.
Ngược lại, lần đầu tiên Goran nhập tên vợ vào một trang tìm kiếm là ba tháng trước đó. Ông không hiểu tại sao mình lại làm thế. Ông cứ thế đánh, như thể bị bản năng xúi giục. Ông không nghĩ sẽ tìm thấy bà, và quả thật ông đã không tìm thấy. Nhưng đó chính thức là nơi tìm kiếm cuối cùng mà ông nghĩ đến. Có lẽ nào ông biết về vợ mình ít đến thế? Khi đó, một thứ gì đấy trong ông đã thay đổi.
Ông đã hiểu ra tại sao ông theo dõi bà.
Thực tế là, ông không muốn biết nơi bà đang ở. Trong thâm tâm, ông mặc kệ chuyện đó. Ông chỉ muốn biết liệu bà có hạnh phúc không. Bởi xét cho cùng, chính điều đó đã làm ông sôi máu: bà đã rũ bỏ ông và Tommy để đi tìm hạnh phúc ở nơi khác. Sao người ta có thể làm tổn thương ai đó sâu sắc đến thế chỉ để thỏa mãn khát khao hạnh phúc đầy ích kỷ? Rõ ràng câu trả lời là có. Vợ ông đã làm như thế, và tệ hơn, bà đã không hề quay lại để chữa lành vết thương lòng, khâu lại vết rách đang nằm trong da thịt của người đàn ông mà chính bà đã chọn để chia sẻ cuộc sống và trong chính da thịt của bà. Bởi người ta có thể quay lại, và buộc phải quay lại.
Luôn có một thời điểm mà, do chỉ nhìn về phía trước, ta nhận thấy một thứ gì đó gợi nhắc quá khứ, và ta quay lại trong chốc lát để xem phía sau có còn nguyên vẹn như xưa, hay là có gì đó đã thay đổi ở những người ta bỏ lại sau lưng cũng như trong chính bản thân chúng ta. Ai rồi cũng gặp khoảnh khắc đó. Tại sao với bà thì không? Tại sao bà thậm chí không cố thử? Không có một cú điện thoại nửa đêm yên ắng nào. Không một tấm bưu thiếp trắng nào. Đã bao nhiêu lần Goran đứng quan sát gần trường của Tommy với hi vọng bắt gặp bà bí mật rình xem cậu con trai. Nhưng chẳng có gì. Bà đã không đến đó, thậm chí không buồn đến để bảo đảm là con mình khỏe mạnh. Do vậy Goran bắt đầu tự hỏi: ai là người đàn bà mà ông nghĩ có thể giữ bên mình suốt cuộc đời đây?
Và thật ra, điều gì làm ông khác Veronica Bermann đến như thế?
Người phụ nữ ấy cũng đã bị lừa dối. Chồng cô ta đã lợi dụng vợ mình để tạo nên một lớp vỏ bọc hoàn hảo, để cho cô ta chăm lo cho những gì hắn sở hữu: cái họ của hắn, căn nhà của hắn, gia tài của hắn, tất cả. Bởi dù sao thì điều hắn muốn cũng nằm ở nơi khác. Nhưng khác với Goran, người phụ nữ ấy đã linh tính thấy vực thẳm đang mở ra bên dưới cuộc sống hoàn hảo của mình, cô ta đã thoáng ngửi thấy mùi thối rữa. Và cô ta đã im lặng, đồng thuận với sự lừa dối dù không tham gia vào đó. Cô ta là kẻ đồng lõa câm lặng, đóng vai người bạn đời mẫu mực, người vợ hiền dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Goran chưa bao giờ nghi ngờ vợ ông có ý định chia tay. Không có một dấu hiệu hay manh mối nào, không có chút trục trặc cảnh báo nào để ông có thể ngẫm lại rồi tự nhủ sao nó quá hiển nhiên và ông ngu ngốc đến độ không nhận ra. Bởi ông đã chỉ muốn ngộ ra mình là một người chồng rất tệ, để có thể tự buộc tội mình, trách móc sự thờ ơ và thiếu ân cần của mình. Ông ước gì có thể tìm kiếm lý do ở phía mình, như vậy ít ra ông cũng có lý do nào đó. Nhưng không, chẳng có gì ngoài sự chết lặng. Và ngờ vực. Đối với những người khác, ông đưa ra phiên bản trần trụi nhất của sự việc: vợ ông đã ra đi, thế thôi. Vì Goran biết dẫu sao mỗi người đều sẽ nhìn nhận sự việc đó theo cách họ muốn. Ai là ông chồng tội nghiệp. Ai là người đàn ông đã làm điều gì đó để bà ấy phải trốn chạy. Ông nhận ngay những vai diễn đó chính là mình và chuyển từ vai này sang vai kia không chút khó khăn. Bởi mọi nỗi đau đều có bài tụng ca của nó và cần phải được tôn trọng.
Còn vợ ông? Đã bao nhiêu lần bà phải đóng kịch? Ý đồ đó đã chín muồi trong lòng bà từ bao lâu rồi? Mất bao nhiêu thời gian để bà thai nghén ý đồ đó bằng những khao khát không nói ra, những suy nghĩ giấu vào trong gối mỗi đêm khi nằm cạnh chồng, trong khi vẫn trộn lẫn nó với những công việc thường ngày của một người mẹ, người vợ? Cho đến khi biến khao khát đó thành kế hoạch, thành mưu đồ. Khi nào bà cảm thấy bị thuyết phục, hay nói cách khác, khi nào bà hiểu ra những gì mà bà mơ đến là có thể thực hiện? Cô búp bê che giấu trong mình sự biến đổi bí mật ấy, trong lúc vẫn tiếp tục sống bên cạnh ông và Tommy. Và âm thầm chuẩn bị thay đổi.
Giờ thì bà ở đâu? Vợ ông vẫn tiếp tục sống, nhưng ở một nơi khác, trong một vũ trụ song song, được tạo thành từ những người đàn ông đàn bà như Goran gặp gỡ hàng ngày, từ những ngôi nhà cần được gìn giữ, những người chồng cần phải chịu đựng, và những đứa trẻ cần sự chăm sóc. Một thế giới bình đẳng và tầm thường, nhưng cách xa ông và Tommy, với những màu sắc mới, những người bạn mới, những khuôn mặt mới và những cái tên mới. Bà tìm kiếm điều gì trong cái thế giới ấy? Đâu là thứ mà bà đã cần đến thế nhưng lại không thể tìm thấy ở đây?Suy cho cùng, tất cả chúng ta đều đi tìm câu trả lời trong một thế giới song song, Goran nghĩ bụng. Giống như người ta đi tìm trên mạng những Sex, God, Death và Britney Spears.
Còn Alexander Bermann, hắn đi lùng tìm những đứa trẻ trên mạng.
Mọi thứ nhanh chóng được làm sáng tỏ. Từ khi mở trang web của con bướm Priscilla trên máy tính Bermann cho đến khi xác định chiếc máy chủ quốc tế quản lý toàn bộ hệ thống đó, tất cả đã trở nên rõ ràng.
Đó là một đường dây lạm dụng tình dục trẻ em, với các chi nhánh ở nhiều quốc gia.
Mila đã có lý: trong mạng lưới đó có cả tay thầy giáo dạy nhạc “của cô”.
Đơn vị đặc nhiệm chuyên phụ trách an ninh mạng đã xác định được gần một trăm người đăng ký. Các vụ bắt bớ đầu tiên đã diễn ra và còn tiếp tục trong những giờ sắp tới. Một số lượng nhỏ và có chọn lọc. Tất cả họ đều không có gì khả nghi, có cuộc sống thoải mái, làm những công việc tự do, và sẵn sàng bỏ ra các khoản tiền lớn để che giấu tên tuổi.
Trong số đó có Alexander Bermann.
Tối hôm đó khi về đến nhà, Goran nghĩ đến người đàn ông dịu dàng, luôn tươi cười và đạo đức vẹn toàn theo như mô tả của bạn bè và người quen của Bermann.
Một chiếc mặt nạ hoàn hảo. Tại sao ông lại có sự đối chiếu giữa Bermann và vợ mình? Có thể ông biết lý do, nhưng không muốn chấp nhận. Dù sao thì, khi đã ở trong nhà, ông gạt qua một bên tất cả những suy nghĩ đó và dành toàn tâm toàn ý cho Tommy, như đã hứa trên điện thoại khi báo với nó là ông về nhà sớm. Thằng bé đón nhận tin tức một cách hào hứng và hỏi liệu ông có thể gọi một chiếc pizza hay không. Ông chấp nhận ngay không để nó phải nài nỉ, vì ông biết sự nhượng bộ nhỏ bé ấy là đủ để làm thằng bé hài lòng. Bọn trẻ có thể tìm thấy niềm hạnh phúc ở bất cứ nơi nào nó hiện diện.
Thế là Goran gọi một chiếc pizza ớt chuông cho mình và một chiếc nhiều phô mai gấp đôi cho Tommy. Hai bố con cùng nhau gọi bánh bằng điện thoại, vì theo thông lệ việc chọn pizza phải được thực hiện cùng nhau. Tommy bấm số rồi để cho bố nói chuyện. Sau đó hai bố con đem đĩa ăn ra bày. Tommy uống nước trái cây, còn Goran thì tự cho phép mình uống một cốc bia. Trước khi mang nước và bia ra bàn, hai bố con đặt hai chiếc cốc vào trong tủ đá, cho đến khi chúng mờ đi vì sương đọng và đủ lạnh để rót thức uống.
Nhưng Goran không cảm thấy bình yên. Những suy nghĩ của ông vẫn còn luẩn quẩn với mạng lưới hoàn hảo kia. Các cảnh sát thuộc đơn vị an ninh mạng đã phát hiện ra một cơ sở dữ liệu với hơn ba triệu cái tên trẻ em có kèm theo địa chỉ và hình ảnh của chúng. Mạng lưới sử dụng những tên miền giả đối với trẻ em để dụ chúng vào bẫy. Bướm Priscilla. Những con thú, các trò chơi đầy màu sắc, âm nhạc vui tươi sẽ làm nốt phần còn lại... Chúng quá giống với những bộ phim hoạt hình mà Goran và Tommy cùng nhau ngồi xem sau bữa tối trên truyền hình vệ tinh. Con cọp xanh và sư tử trắng. Ông quan sát cậu con trai nằm cuộn tròn người, hoàn toàn tập trung vào chuyến phiêu lưu của hai con thú trong rừng.
Ông tự nhủ mình phải bảo vệ thằng bé.
Ông nghĩ đến điều đó với một chút sợ hãi trong lồng ngực, một nút thắt tối tăm và nhớp nháp. Nỗi sợ không làm đủ và không sống đủ. Bởi một ông bố đơn thần thì không thể đủ được. Ngay cả khi về cơ bản, hai bố con ông vẫn tự xoay xở được. Điều gì sẽ xảy ra nếu như phía sau màn hình máy tính đen ngòm của Bermann không phải là một đứa bé xa lạ, mà là Tommy của ông? Liệu ông có nhận ra được nếu như có kẻ nào đó cố gắng thâm nhập vào đầu óc và cuộc sống của con trai ông?
Trong khi Tommy làm nốt bài tập, Goran đã rút về phòng làm việc. Lúc đó còn chưa đến bảy giờ, nên ông lại giở hồ sơ của Bermann ra xem, thử tìm những ý tưởng mới có thể hữu ích cho cuộc điều tra.
Trước hết, cái ghế xa lông bằng da trong căn hộ tầng lửng mà trên đó Krepp không tìm thấy một dấu vân tay nào.
Có dấu vân tay trên tất cả những thứ khác, nhưng trên cái ghế đó lại không có dấu nào... Tại sao?
Ông chắc chắn phải có một lý do. Nhưng mỗi khi tưởng như đã nắm bắt được một ý tưởng, tâm trí ông lại trôi đi nơi khác, trôi về phía những mối nguy hiểm đang rình rập xung quanh cuộc sống của con trai ông.
Goran là người nghiên cứu tội phạm, ông biết bản chất cái ác là như thế nào. Nhưng ông luôn quan sát nó từ phía xa, với tư cách là một nhà nghiên cứu. Ông không bao giờ để cho mình bị lung lạc với ý nghĩ rằng cái ác ấy có thể vươn bàn tay xương xẩu của nó ra đủ dài để chạm đến ông. Tuy vậy hôm nay, ông lại nghĩ đến điều đó.
Khi nào con người ta trở thành một “con quái vật”?
Cái từ mà ông đã chính thức cấm dùng ấy giờ lại len lỏi vào trong sâu thẳm tâm hồn ông. Bởi vì ông muốn biết điều đó diễn ra như thế nào. Khi nào thì người ta nhận ra mình đã vượt qua giới hạn đó.
Bermann là thành viên của một tổ chức có cơ cấu cực kỳ chặt chẽ, có thứ bậc và cương vị rạch ròi. Hắn đã tham gia vào tổ chức này từ hồi học đại học. Thời đó, Internet còn chưa được khai phá, và người ta khó có thể giấu mình đi mà không gây nghi ngờ. Chính vì lý do này mà các thành viên trong tổ chức được khuyến cáo nên tạo dựng một cuộc sống kiểu mẫu và an toàn nhằm che đậy bản chất thật và kiểm soát các xung năng của bản thân. Ngụy trang, hòa trộn và biến đi, đó là những nguyên tắc cơ bản của chiến thuật đó.
Sau khi tốt nghiệp, Bermann đã xác định rõ ràng trong đầu điều hắn sẽ làm. Đầu tiên, hắn nối lại quan hệ với một cô bạn cũ đã nhiều năm không gặp. Cô nàng Veronica, người chưa bao giờ có đủ hấp dẫn để bọn đàn ông, kể cả hắn, phải để mắt đến. Hắn đã làm cho Veronica tin rằng, hắn yêu thầm cô ta từ lâu, nhưng lại giấu giếm tình cảm vì nhát gan. Và cô, như dự tính, đã ngay lập tức nhận lời lấy hắn làm chồng. Những năm đầu hôn nhân trôi qua với nhiều thăng trầm, giống như bao cặp vợ chồng son khác. Hắn hay vắng nhà vì công việc. Trên thực tế, hắn thường lợi dụng những chuyến công tác để gặp những kẻ giống mình, hoặc để dụ dỗ những con mồi nhỏ tuổi.
Cùng với sự xuất hiện của Internet, mọi thứ trở nên dễ dàng hơn. Những tên ấu dâm[2] lập tức nắm bắt lấy mạng liên kết kì diệu đó. Nó cho phép chúng không chỉ hoạt động trong sự vô danh, mà còn lường gạt các nạn nhân thông qua những cái bẫy tài tình.
[2] Một loại bệnh lệch lạc tình dục, đàn ông mắc bệnh này thích quan hệ tình dục với trẻ nhỏ chưa hoặc mới dậy thì.
Nhưng Alexander Bermann chưa thể hoàn tất kế hoạch ngụy trang hoàn hảo của mình, vì Veronica không thể sinh con nối dõi cho hắn. Đó là thứ còn thiếu, là chi tiết khiến cho hắn không thể bị nghi ngờ, vì một ông bố của gia đình sẽ không nhòm ngó con cái của người khác.
Giáo sư Goran xua đi sự phẫn nộ đang dâng lên tận cổ họng và khép lại tập hồ sơ đã dày lên đáng kể trong những giờ vừa qua. Ông không muốn đọc nó nữa. Ông muốn đi ngủ, muốn được trốn mình vào trong giấc mộng.
Ai có thể là Albert, nếu không phải Bermann? Mặc dù còn cần phải gắn hắn với nghĩa địa cánh tay và vụ bắt cóc sáu cô bé, rồi tìm ra những thi thể còn thiếu, không ai khác ngoài hắn xứng đáng khoác lên người chiếc áo của tên đao phủ.
Nhưng càng nghĩ, ông càng thấy có gì đó chưa thuyết phục.
Đúng tám giờ tối, Roche sẽ chính thức thông báo về vụ bắt giữ thủ phạm trong một cuộc họp báo lớn. Goran nhận ra sự băn khoăn của ông đã luẩn quẩn trong đầu ngay từ sau khi phát hiện ra bí mật của Bermann. Suốt cả buổi chiều, nó giống như một màn sương mờ ảo, chập chờn ở một góc nhỏ trong đầu ông. Nhưng dù nấp kín trong cái góc tối ấy, nó vẫn tiếp tục phát xung động để cho ông biết là nó vẫn luôn hiện hữu ở đó. Chỉ đến bây giờ, trong không khí tĩnh lặng của căn hộ, Goran mới dành cho nó một sự suy nghĩ thấu đáo.
Có gì đó không ăn khớp trong vụ án này... Ngươi nghĩ Berman không phải là thủ phạm ư? Ồ, tất nhiên là có chứ, hắn chính là thủ phạm: hắn là một tên ấu dâm. Nhưng hắn không phải là kẻ đã giết sáu đứa trẻ. Hắn chẳng có gì dính líu hết... Mà làm thế nào ngươi dám chắc về điều đó?
Bởi vì nếu Alexander Bermann thực sự là gã Albert của chúng ta, thì ta đã tìm thấy cô bé cuối cùng trong cốp xe của hắn - nạn nhân số sáu - chứ không phải là Debby Gordon, nạn nhân đầu tiên. Lẽ ra hắn phải phi tang xác cô bé đầu tiên từ lâu rồi mới phải...
Đúng lúc rút ra kết luận này, nhà tội phạm học nhìn đồng hồ: cuộc họp báo lúc tám giờ sẽ diễn ra trong vài phút nữa.
Cần phải ngăn Roche lại.
Viên chánh thanh tra đã triệu tập các tờ báo lớn ngay khi các thông tin về diễn tiến của vụ Bermann bắt đầu lan rộng. Nguyên cớ chính thức là ông không muốn các phóng viên sử dụng thông tin nghe ngóng được từ những lỗ rò rỉ của các nguồn chính thức. Còn lý do thực sự là ông lo rằng vụ việc có thể rò rỉ theo các hướng khác nhau, và như thế ông sẽ không trở thành trung tâm chú ý của dư luận.
Tiếng ồn ào trong phòng họp báo bên cạnh văn phòng thanh tra Roche khiến ông thích thú, nó như nguồn năng lượng nuôi dưỡng cái tôi của ông ta. Trong khi chờ đến buổi họp báo, ông ngồi yên, gác đôi chân lên chiếc bàn làm việc được thừa hưởng từ người tiền nhiệm mà ông đã phò tá trong suốt một thời gian dài, quá dài theo như ông nghĩ, nếu là ông, ông sẽ không ngần ngại mà hất văng đi từ hồi tám năm về trước.
Các đường dây điện thoại của ông đều nhấp nháy báo hiệu cuộc gọi đến, nhưng ông không có ý định trả lời. Ông muốn để thế cho thêm phần kịch tính.
Có tiếng gõ cửa vang lên.
- Mời vào. - Roche lên tiếng.
Ngay khi bước vào, Mila nhận thấy một nụ cười khinh khỉnh trên gương mặt viên thanh tra. Cô tự hỏi ông ta đòi gặp cô vì cái quái gì đây.
- Cảnh sát Vasquez, tôi muốn đích thân cám ơn cô vì sự đóng góp vô cùng to lớn của cô trong cuộc điều tra.
Mila chắc đã đỏ mặt nếu như cô không hiểu ngay ra đó chỉ là lời mở đầu khéo léo cho việc tống khứ cô.
- Tôi không nghĩ mình đã làm được gì nhiều.
Roche cầm lấy con dao rọc giấy và bắt đầu dùng mũi nhọn của nó để nạo móng tay. Ông lơ đãng nói:
- Không, sự hiện diện của cô là rất hữu ích.
- Chúng ta vẫn chưa xác định được danh tính của bé gái thứ sáu.
- Ta sẽ sớm tìm ra thôi, giống như những thứ khác.
- Xin ông cho phép tôi được hoàn tất công việc của mình, ít ra là một vài ngày. Tôi bảo đảm mình sẽ thu được kết quả...
Thanh tra Roche buông con dao dọc giấy xuống, nhấc chân khỏi bàn và đứng dậy tiến lại gần Mila. Với nụ cười tươi nhất có thể, ông cầm lấy bàn tay phải vẫn còn đang bị băng của cô và bắt lấy, không nhận ra ông đang làm cô đau.
- Tôi đã nói chuyện với cấp trên của cô. Trung úy Morexu bảo đảm với tôi rằng cô sẽ được khen thưởng về vụ này.
Nói xong ông dẫn cô ra cửa.
- Chúc cô trở về bình an. Thỉnh thoảng nhớ nghĩ đến chúng tôi nhé.
Mila gật đầu vì chẳng còn gì để nói. Vài giây sau cô thấy mình ở ngoài hành lang, giương mắt nhìn cánh cửa phòng làm việc của thanh tra Roche từ từ đóng lại.
Cô muốn trao đổi một chút với Goran Gavila về chuyện của mình, vì cô dám chắc ông giáo sư không hay biết gì về vụ tống tiễn cô. Nhưng ông đã về nhà. Vài giờ đồng hồ trước cô có nghe thấy ông thu xếp bữa tối qua điện thoại. Căn cứ vào giọng điệu của nhà tội phạm học, người ở đầu dây bên kia chỉ có thể là một đứa bé không quá tám chín tuổi. Hai người đã quyết định gọi pizza.
Vậy là giáo sư Goran có một cậu con trai. Mila tự hỏi liệu trong cuộc đời ông có một người phụ nữ nào không, và liệu bà ấy có chia sẻ bữa tối ấm cúng mà hai bố con đang chuẩn bị hay không. Tự nhiên Mila cảm thấy một chút ghen tỵ.
Ở cửa trụ sở cảnh sát, Mila trả lại thẻ và được đưa cho một chiếc phong bì bên trong đựng vé tàu để cô về nhà. Lần này không ai đưa cô ra ga cả. Cô sẽ phải gọi một chiếc taxi với hi vọng sở cảnh sát chủ quản của mình sẽ hoàn tiền lại, và tạt qua nhà nghỉ lấy đồ.
Tuy nhiên, khi đã ở ngoài đường, Mila bỗng nhận ra cô không vội. Cô nhìn quanh, hít một hơi dài làn không khí thanh bình và trong lành. Thành phố như thể được nhúng ngập trong một quả bóng lạnh lẽo bất thường, đe dọa thay đổi thời tiết bất cứ lúc nào. Chỉ cần hơn hoặc kém một độ là mọi thứ sẽ khác ngay. Bầu khí quyển loãng này có thể báo trước một đợt tuyết rơi. Nhưng cũng có thể mọi thứ sẽ không thay đổi và vẫn bất động như bây giờ.
Cô lấy chiếc vé trong phong bì ra. Ba giờ nữa tàu mới khởi hành. Nhưng đầu óc cô đang nghĩ đến một chuyện khác. Liệu khoảng thời gian ít ỏi này có đủ để làm điều cô đang nghĩ hay không? Suy cho cùng, nếu cô chỉ phí công vô ích thì cũng đâu có ai biết. Mà cô lại không thể yên lòng ra đi với mối nghi ngờ này.
Ba tiếng đồng hồ. Chắc là đủ.
Mila đã thuê một chiếc xe hơi và chạy được khoảng một tiếng. Những đỉnh núi chọc thẳng lên trời ở phía trước mặt cô. Những căn nhà gỗ mái dốc. Những làn khói xám thoang thoảng mùi nhựa bốc lên từ các ống khói. Gỗ chất đống trong các sân nhà. Phía sau những ô cửa sổ là thứ ánh sáng nâu vàng ấm cúng.
Từ quốc lộ 115, Mila đã rẽ vào lối ra số 25, nhằm thẳng hướng trường học của Debby Gordon. Cô muốn xem phòng ở của cô bé. Cô tin rằng mình có thể tìm thấy một thứ gì đó gắn cô bé với nạn nhân số sáu và tên của em. Ngay cả khi từ giờ việc đó hoàn toàn không cần thiết nữa, như cách nghĩ của thanh tra Roche, Mila cũng không thể bỏ lại sau lưng một danh tính chưa được làm sáng tỏ. Đó là một hành động vì tình thương. Vụ mất tích của bé gái thứ sáu chưa được loan báo, nên chưa ai có cơ hội để khóc thương em. Cô biết họ sẽ không thể làm được điều đó nếu thiếu một cái tên. Cô bé sẽ trở thành một vệt trắng trên tấm bia mộ, một dấu lặng ở cuối danh sách ngắn ngủi, một con số đơn lẻ thêm vào cuốn sổ sinh tử. Và Mila không muốn để cho chuyện đó xảy ra.
Thật ra, một ý nghĩ khác đang ám ảnh cô, vì nó mà cô đã lái xe nhiều dặm đường như thế này. Chỉ vì một thoáng lạnh gáy ấy...
Nữ cảnh sát đến nơi lúc hơn chín giờ tối một chút. Trường nội trú nằm trong một ngôi làng nhỏ ở độ cao một ngàn hai trăm mét. Vào giờ này, mọi ngả đường đã vắng ngắt. Các khối nhà của ngôi trường nằm ngay bên ngoài làng, trên một ngọn đồi, chung quanh là một khuôn viên xinh xắn, với một sân quần ngựa và các sân bóng rổ, tennis. Để đến được đó, cô phải đi theo một lối nhỏ dài, ở đó các em học sinh đang trên đường đi chơi thể thao về. Tiếng cười giòn tan của các em làm xôn xao cả một góc đường.
Mila vượt qua các em học sinh và dừng xe trên một khu đất. Sau đó cô tự giới thiệu mình với thư kí của trường, và yêu cầu được vào thăm phòng của Debby, thầm hi vọng không bị ai làm to chuyện. Sau khi trao đổi với cấp trên, người thư kí quay sang bảo rằng cô có thể đi xem phòng. May mắn là sau khi trao đổi qua điện thoại, mẹ Debby đã gọi đến trường để báo trước về cuộc thăm viếng của Mila. Người thư kí đưa cho cô cái thẻ đề “Khách thăm” rồi chỉ đường cho cô.
Mila đi theo các hành lang cho đến khu nội trú của nữ sinh. Cô không gặp chút khó khăn nào khi tìm phòng của Debby. Các bạn học đã dán đầy trên cửa phòng của em những mảnh giấy đủ màu sắc ghi rằng họ sẽ rất nhớ em, không bao giờ quên em. Trong đó đương nhiên có câu “Cậu sẽ luôn ở trong tim chúng tớ”.
Mila nghĩ đến Debby, nghĩ đến những cú điện thoại nài xin bố mẹ đưa em về nhà và nỗi cô đơn mà một cô bé nhút nhát và vụng về ở tuổi em có thể cảm thấy trong một nơi như thế này. Đó là lý do khiến cô cảm thấy những mảnh giấy kia có phần không hợp lẽ, chúng thể hiện một sự quan tâm muộn màng đầy đạo đức giả. Lẽ ra các bạn nên chú ý đến Debby khi cô bé còn ở đây. Hoặc là khi có kẻ bắt cóc cô bé ngay trước mắt các bạn.
Từ cuối hành lang vang lên tiếng ồn ào vui vẻ. Mila bước qua những ngọn nến tưởng niệm đã tắt mà ai đó đã sắp thành hàng trên ngưỡng cửa và bước vào căn phòng nội trú của Debby.
Sau khi cô đóng cửa lại, im lặng bao trùm lên căn phòng. Cô với tay bật một ngọn đèn. Căn phòng khá nhỏ. Đối diện với cánh cửa là một cửa sổ mở ra công viên. Những giá đầy sách được ốp vào tường, bên dưới chúng là chiếc bàn học rất ngăn nắp. Debby thích đọc sách. Ở phía bên phải của căn phòng là cánh cửa buồng tắm đang khép. Mila quyết định sẽ quan sát bên trong đó sau cùng. Trên giường, nhiều con thú bông đang nhìn cô bằng đôi mắt lạnh lùng vô hồn. Mila tự nhiên thấy chán ngán. Căn phòng dán đầy những tấm poster và ảnh chụp của Debby tại nhà, cùng với các bạn học ở ngôi trường cũ, bạn bè và chú chó Sting. Tất cả những thứ mà em đã phải từ bỏ để bước chân vào ngôi trường danh giá này.
Mila nhận thấy dù còn nhỏ tuổi, Debby đã mang những đường nét của một phụ nữ xinh đẹp. Các bạn học của em hẳn đã nhận ra điều đó quá trễ và sẽ hối tiếc vì đã không nhìn thấy cô thiên nga ẩn mình trong con vịt nhỏ xấu xí lạc lõng kia. Nhưng lúc này Mila cố không nghĩ đến chúng.
Cô hồi tưởng lại cuộc khám nghiệm tử thi mà mình đã tham dự, thời khắc mà bác sĩ Chang bóc lớp ni lông khỏi khuôn mặt, và chiếc kẹp mái đính bông hoa huệ tây trắng xuất hiện trên mái tóc cô bé. Kẻ sát nhân đã chải tóc cho em, và Mila lúc đó đã tự nhủ hắn làm đẹp cho em vì bọn cô.
Thực ra là không, em đẹp là vì Alexander Bermann...
Ánh mắt của cô đập vào một mảng tường trống khác thường. Cô tiến đến gần và phát hiện thấy lớp thạch cao đã bị tróc ở nhiều chỗ. Như thể có thứ gì đó từng được gắn lên tường nhưng không còn nữa. Những tấm ảnh khác chăng? Mila có cảm giác nơi này đã bị xâm phạm. Những bàn tay, những con mắt khác đã quét qua thế giới thu nhỏ của Debby, các đồ vật và những ký ức của em. Có thể bà mẹ đã lấy đi mấy tấm ảnh trên tường, cô cần phải xác minh lại điều này.
Trong khi Mila mải nghĩ đến những chuyện đó thì một tiếng động khiến cô giật nảy người. Nó vang lên từ phía bên ngoài phòng. Không phải vọng từ ngoài hành lang vào, mà từ phía sau cánh cửa phòng tắm.
Bất giác Mila đưa tay lên thắt lưng tìm khẩu súng. Khi đã nắm chắc nó trong tay, cô đánh liều đứng dậy đối diện với phòng tắm, vũ khí sẵn sàng nhả đạn. Một tiếng động nữa, lần này rõ ràng hơn. Có người đang ở trong đó. Kẻ đã không nhận thấy sự hiện diện của cô. Kẻ mà, cũng giống như cô, tin rằng đây là thời điểm thuận lợi nhất để thâm nhập vào trong phòng của Debby và lấy đi thứ gì đó... Các bằng chứng chăng? Tim Mila đập như trống trận. Cô sẽ không vào trong đó mà chỉ đứng đợi.
Cánh cửa bật mở. Mila nhúc nhích ngón tay từ trên chốt an toàn xuống cò súng. May mắn thay cô đã kịp dừng lại. Cô bé gái hốt hoảng dang tay ra, thả rơi một vật gì đó.
- Em là ai? - Mila hỏi.
- Em là bạn của Debby ạ. - Cô bé lí nhí đáp.
Nói dối. Mila hoàn toàn chắc chắn về điều đó. Cô nhét súng trở lại vào trong thắt lưng và nhìn những món đồ rơi dưới sàn. Có một lọ nước hoa nhỏ, vài chai dầu gội đầu và một cái mũ rộng vành màu đỏ.
- Em đến lấy lại những thứ đã cho Debby mượn. (Câu này nghe giống như một lời lấp liếm). Những bạn khác đã vào đây trước em...
Mila nhận ra chiếc mũ đỏ trong một bức ảnh gắn trên tường. Debby là người đội mũ. Cô hiểu ra mình đang chứng kiến vụ trộm cắp mà có lẽ đám bạn bè của Debby đã tiến hành được vài ngày. Sẽ không có gì lạ nếu như một trong số chúng dám lấy luôn cả mấy tấm ảnh treo trên tường.
- Thôi được rồi. - Cô nói cộc lốc. - Đi đi.
Con bé ngần ngừ một chút, rồi nhặt lại những thứ rơi dưới đất và bước ra cửa. Mila để mặc nó. Âu đó cũng là điều Debby muốn. Những món đồ này cũng sẽ trở nên vô nghĩa với bà mẹ của cô bé, người sẽ cảm thấy có tội suốt đời vì đã gửi con mình vào đây. Xét cho cùng, Mila thấy bà Gordon còn có một chút “may mắn”, nếu có thể gọi đó là may mắn, khi ít nhất cũng có được thi hài của con gái mình để mà khóc thương.
Mila lục tìm trong đống tập sách của Debby. Cô muốn tìm một cái tên, và cô sẽ phát hiện ra nó. Dĩ nhiên chuyện đó sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu như cô tìm ra cuốn nhật ký của Debby. Cô dám cá là cô bé có một cuốn, để trút những nỗi buồn khổ vào trong đó. Và cũng giống như mọi cô bé cùng lứa khác, Debby có lẽ đã cất nó trong một nơi bí mật, không quá xa trái tim, nơi cô có thể lấy ra ngay khi cần. Khi nào thì chúng ta cần thu mình lại với những thứ mà ta coi là thân thương nhất? Ban đêm. Mila cúi xuống chiếc giường, luồn tay vào dưới tấm nệm dò dẫm, cho đến khi chạm phải một vật.
Đó là một cái hộp thiếc có hình những chú thỏ xinh xắn được mạ bạc. Cái hộp được khóa bằng một ổ khóa nhỏ.
Mila đặt cái hộp lên giường và bắt đầu nhìn quanh, tìm xem chìa khóa có thể nằm ở nơi nào. Cô sực nhớ là đã trông thấy nó trong buổi khám nghiệm tử thi. Nó được gắn vào chiếc xuyến trên cổ tay phải của Debby.
Cô đã đưa lại chiếc xuyến cho mẹ Debby và hiện không còn thời gian để lấy lại nữa. Cô quyết định phá khóa. Dùng đầu bút bi, cô nạy tung hai khoen kim loại mà ổ khóa đang gắn vào. Sau đó cô mở nắp hộp. Ở bên trong có một túi bột thơm khô, hoa khô và gỗ thơm.
Một cái kim băng còn dính các vệt đỏ mà nhiều khả năng cô bé đã sử dụng để trích máu ăn thề. Một chiếc khăn tay thêu bằng lụa. Một con gấu nhựa có đôi tai đã bị gặm mòn. Những cây nến sinh nhật. Kho báu kỷ niệm của một thời ấu thơ. Nhưng không có cuốn nhật ký nào.
Lạ thật, Mila nghĩ bụng. Kích thước của chiếc hộp và chỗ trống còn lại cho phép nghĩ đến khả năng trong hộp còn đựng một thứ khác. Điều đó cũng sẽ lý giải việc cô bé cảm thấy cần phải bảo vệ tất cả bằng một ổ khóa. Nhưng cũng có thể là chẳng có quyển nhật ký nào.
Mila thất vọng nhìn đồng hồ: cô đã lỡ mất chuyến tàu. Càng có lý do để ở lại và tìm thứ gì đó có thể dẫn cô đến chỗ người bạn bí mật của Debby. Chỉ mới lúc nãy, khi cô điểm qua một lượt những vật kỷ niệm thân thiết của Debby, cảm giác mà cô không thể gọi tên ấy lại xuất hiện.
Một thoáng lạnh gáy.
Cô không thể ra đi trước khi hiểu rõ sự tình. Nhưng cô cần một ai đó, hoặc một thứ gì đó để có thể khôi phục lại cảm giác thoáng qua ấy. Mặc dù đã muộn, cô vẫn ra một quyết định khó khăn nhưng cần thiết.
Cô bấm số điện thoại gọi giáo sư Goran Gavila.
- Thưa giáo sư, là tôi, Mila đây…
Nhà tội phạm học khá bất ngờ. Ông mất vài giây mới đáp lại:
- Tôi có thể giúp gì cho cô đây?
Giọng điệu ông có vẻ khó chịu chăng? Không, đó chỉ là cảm tưởng của cô. Mila giải thích với Goran rằng lẽ ra cô đã lên tàu, nhưng hiện tại cô đang ở trong phòng nội trú của Debby Gordon. Cô muốn kể toàn bộ sự thật. Goran nghiêm túc lắng nghe. Khi cô kể xong, đầu dây bên kia yên lặng hồi lâu.
Mila không thể biết được, nhưng giáo sư Goran đang nhìn đăm đăm vào cái tủ bếp, trên tay là một tách cà phê bốc khói. Ông vẫn còn đang thức sau nhiều nỗ lực liên lạc với thanh tra Roche để ngăn chặn thảm họa truyền thông, nhưng bất thành.
- Có lẽ chúng ta đã hơi hấp tấp trong vụ Alexander Bermann.
Mila nhận thấy ông giáo sư đang thì thầm rất khẽ, tựa hồ như câu nói ấy phải vất vả lắm mới bật ra được khỏi miệng ông.
- Tôi cũng nghĩ thế. - Cô thú nhận. - Mà sao ông lại đi đến kết luận như vậy?
- Trong cốp xe của hắn là xác của Debby Gordon. Tại sao không phải là của nạn nhân cuối cùng?
Mila nhớ lại lời giải thích của Stern về sự việc lạ lùng đó:
- Có lẽ Bermann đã phạm sai lầm khi giấu cái xác, những tính toán sai có thể khiến hắn bị phát hiện, do đó hắn di chuyển cái xác đến một chỗ giấu tốt hơn.
Goran lắng nghe và tỏ ra bối rối. Hơi thở của ông dồn dập hơn.
- Có chuyện gì vậy? Tôi nói gì sai à?
- Không. Nhưng nghe chừng cô không hoàn toàn bị thuyết phục khi nói ra câu đó.
- Quả thực là không. - Cô nói sau khi ngẫm nghĩ.
- Còn thiếu một điều gì đó. Hay đúng hơn là có thứ gì đó không ăn rơ với những cái còn lại.
Mila biết một cảnh sát giỏi phải nhờ vào trực giác. Người ta không bao giờ đề cập đến nó trong những báo cáo chính thức: đối với chúng, chỉ những “tình tiết thực” mới có ý nghĩa. Nhưng nhân tiện khi Goran đã đề cập đến nó, Mila đánh liều kể cho ông nghe về cảm giác của mình.
- Lần đầu tiên nó xảy ra là trong khi bác sĩ pháp y báo cáo. Như một nốt nhạc lạc điệu. Nhưng tôi đã không thể nắm bắt được, tôi lập tức quên nó ngay.
Một thoáng lạnh gáy.
Mila nghe thấy tiếng ông Goran kéo ghế. Cô cũng ngồi xuống. Rồi ông lên tiếng:
- Chúng ta hãy thử loại Bermann ra...
- Đồng ý.
- Hãy tưởng tượng thủ phạm là một kẻ khác. Gã từ đâu đó xuất hiện và đặt một bé gái cụt tay vào trong cốp xe của Bermann.
- Bermann sẽ phải nói với chúng ta điều đó, để xóa đi những nghi ngờ đổ lên đầu hắn. - Mila quả quyết.
- Tôi không tin. - Goran kiên quyết phản bác. - Bermann là một tên ấu dâm. Hắn sẽ chẳng dám làm gì. Hắn biết rất rõ là mình đã bị gài bẫy. Hắn tự sát vì không còn đường thoát và để che giấu cho tổ chức mà hắn là thành viên.
Mila sực nhớ tay thầy dạy nhạc cũng đã tự tử.
- Vậy giờ ta phải làm gì?
- Ta quay lại với Albert, với hồ sơ trung tính về một kẻ thiếu tính người mà ta đã dựng lên lúc đầu.
Đây là lần đầu tiên Mila cảm thấy thực sự tham gia vào cuộc điều tra. Làm việc theo nhóm là một trải nghiệm mới mẻ đối với cô. Và cô không hề e ngại khi cộng tác với giáo sư Gavila. Dù chỉ mới biết ông, cô đã bắt đầu học được cách tin tưởng ở ông.
- Giả dụ rằng vụ bắt cóc các bé gái và nghĩa địa cánh tay là có nguyên do. Có thể phi lý, nhưng lý do đó tồn tại. Và để giải thích điều này, chúng ta cần phải biết thủ phạm. Càng biết hắn rõ, ta càng hiểu hắn dẽ dàng hơn. Càng hiểu hắn, ta càng tiến đến gần hắn hơn. Cô có rõ không?
- Có ạ... Nhưng vai trò của tôi chính xác là gì? - Cô hỏi.
Goran hạ thấp giọng và đáp một cách nhiệt tình:
- Đó là một kẻ săn mồi, đúng không? Vậy ta hãy học cách đi săn...
Mila mở tập giấy ghi chú mà cô luôn cầm theo. Ở đầu dây bên kia, giáo sư Gavila nghe thấy tiếng cô lật các trang giấy. Cô bắt đầu đọc những ghi chép về các nạn nhân của mình.
- Debby, mười hai tuổi. Mất tích tại trường. Bạn cùng lớp nhớ là còn trông thấy cô bé sau giờ học. Mọi người chỉ nhận ra cô bé đã biến mất khỏi trường vào giờ điểm danh tối.
Goran nhấp một ngụm cà phê và yêu cầu:
- Rồi, hãy kể cho tôi nghe về cô bé thứ hai.
- Anneke, mười tuổi. Lúc đầu, mọi người nghĩ em bị lạc trong rừng… Số ba tên là Sabine, nạn nhân nhỏ nhất: bảy tuổi. Chuyện xảy ra vào tối thứ Bảy khi em đi cùng bố mẹ đến hội chợ.
- Cô bé này đã bị bắt cóc trên một vòng đu quay ngựa gỗ ngay trước mắt bố mẹ. Vụ việc đã gây chấn động cả nước. Nhóm điều tra chúng tôi đã bắt tay vào cuộc, và vào lúc đó xảy ra vụ mất tích thứ tư.
- Melissa. Cô bé lớn nhất, mười ba tuổi. Bố mẹ em đã ra lệnh giới nghiêm, nhưng vào hôm sinh nhật, em đã lẻn ra ngoài đi chơi bowling với các bạn để ăn mừng.
- Các cô bạn khác đều đến nơi, ngoại trừ Melissa. - Nhà tội phạm học nhớ lại.
- Còn với Caroline, đối tượng đã lẻn vào nhà em để bắt cóc ngay tại giường... Rồi sau đó là đến cô bé số sáu.
- Cô bé này để sau. Giờ ta hãy tập trung vào các bé gái kia.
Goran thấy cực kỳ ăn ý với cô nữ cảnh sát. Đã từ lâu ông không có cảm giác điều này.
- Bây giờ, tôi cần cô suy nghĩ cùng tôi, Mila ạ. Hãy nói cho tôi biết: gã Albert của chúng ta hành động như thế nào?
- Trước nhất, gã bắt một cô bé ở xa gia đình, ít bạn bè. Như thế không ai nhận ra điều gì, nó cho hắn thời gian...
- Thời gian để làm chuyện gì?
- Đó là một phép thử: gã cần phải nắm chắc phần thắng trong việc mình định làm. Và với khoảng thời gian đó, gã hoàn toàn có thể phi tang nạn nhân rồi biến mất.
- Đối với Anneke, gã đã bớt căng thẳng hơn, nhưng vẫn quyết định ra tay trong rừng, cách xa các nhân chứng... Thế còn Sabine, gã hành động thế nào?
- Gã bắt cóc ngay trước mũi mọi người, trong hội chợ.
- Tại sao? - Giáo sư Goran hỏi dồn.
- Vì giống như nguyên nhân dẫn tới vụ bắt cóc Melissa trong khi mọi người đều tin chắc cô bé được an toàn tại nhà.
- Thế nguyên nhân đó là gì?
- Gã đã thấy mình mạnh lên. Gã có được sự tự tin.
- Tốt. - Goran nói. - Tiếp tục nhé... Cô hãy kể cho tôi nghe từ đầu câu chuyện về vụ kết nghĩa chị em.
- Đó là một việc ta làm khi còn trẻ con. Sử dụng một cái kim băng chích vào đầu ngón tay rồi áp chúng vào nhau trong lúc cùng đọc một bài vè.
- Hai cô bé nào vậy?
- Debby và số sáu.
- Tại sao Albert chọn chúng? - Goran hỏi. - Thật phi lý. Chính phủ báo động, mọi người đang tìm Debby, còn gã thì quay lại để bắt cóc người bạn thân nhất của cô bé! Tại sao gã dám làm một chuyện mạo hiểm như vậy? Tại sao?
Mila biết nhà tội phạm học đang muốn đi đến đâu, nhưng ngay cả khi cô nói ra, kỳ thực chính ông mới là người dẫn cô đến đó.
- Tôi nghĩ đó là một kiểu thử thách...
Chữ mà Mila vừa nói đã mở ra một cánh cửa đang đóng trong đầu nhà tội phạm học. Ông đứng dậy và bắt đầu đi đi lại lại trong bếp.
- Tiếp đi…
- Gã muốn chứng tỏ một điều gì đó. Rằng gã là kẻ mạnh hơn chẳng hạn.
- Là kẻ giỏi nhất. Rõ ràng đây là một kẻ tự coi mình là nhất, một kẻ bị chứng tự mắc cuồng... Nhưng ta hãy nói về số sáu.
Mila ngập ngừng.
- Ta chẳng biết gì về nạn nhân này.
- Dù gì vẫn cứ nói cho tôi nghe. Nói những gì ta đang có...
Mila đặt tập giấy ghi chú xuống. Giờ thì cô buộc phải ứng biến.
- Được rồi, xem nào... Cô bé trạc tuổi Debby, vì hai đứa là chị em kết nghĩa. Vậy là khoảng mười hai tuổi. Kết quả đo mật độ canxi xương cũng đã khẳng định điều đó.
- Đồng ý... Còn gì nữa?
- Bác sĩ pháp y nói, cô bé chết theo một cách khác.
- Nghĩa là sao? Cô nhắc lại cho tôi nghe nào?
Mila lật tìm câu trả lời trong tập giấy.
- Gã đã cắt một cánh tay của cô bé số sáu, giống như các nạn nhân khác. Nhưng trong máu và trong mô của em có vết tích của một hỗn hợp thuốc.
Goran yêu cầu cô lặp lại tên các thuốc đã được bác sĩ Chang nêu ra. Thuốc chống loạn nhịp như disopyramide, ức chế men chuyển và atenolol, một chất chẹn beta...
Chính đây là chỗ chưa thuyết phục được ông.
- Tôi thấy điểm này chưa thuyết phục. - Mila nói.
Trong một thoáng giáo sư Goran Gavila tự hỏi cô đang đọc được suy nghĩ của ông hay không.
- Trong cuộc họp, Chang đã nói Albert đã làm chậm nhịp tim bằng cách làm hạ huyết áp của cô bé. Anh ta còn cho biết thêm mục tiêu của thủ phạm là làm máu chảy chậm lại, để làm cho nạn nhân chết dần dần.
Làm máu chảy chậm lại. Khiến cô bé chết dần dần.
- Thôi được rồi, giờ thì kể tôi nghe về cha mẹ của cô bé.
- Cha mẹ nào ạ? - Mila ngơ ngác hỏi.
- Tôi không quan tâm đến việc trong mớ ghi chép của cô không có gì! Cái tôi cần là suy luận của cô!
Làm thế nào ông ta biết về vụ ghi chép nhỉ? Mila tự hỏi. Cô thấy bối rối vì phản ứng của nhà tội phạm học, nhưng vẫn tiếp tục đà suy luận.
- Cha mẹ của cô bé số sáu không có mặt như những người khác để kiểm tra ADN. Chúng ta không biết họ là ai, vì họ không báo cảnh sát về vụ mất tích.
- Tại sao họ không báo cảnh sát? Có thể là họ chưa biết chuyện?
- Có thể lắm.
Làm máu chảy chậm lại.
- Biết đâu con bé mồ côi cha mẹ! Có thể nó sống một thân một mình! Có thể mọi người không ai buồn quan tâm đến nó! - Goran bực bội nói.
- Không. Cô bé có một gia đình. Cũng giống như các nạn nhân khác, ông nhớ lại đi. Con gái độc nhất, mẹ ngoài bốn mươi, cha mẹ được thủ phạm lựa chọn vì họ chỉ có một đứa con. Gã không thay đổi, vì chính họ mới là nạn nhân đích thực: nhiều khả năng họ sẽ không bao giờ có con được nữa. Gã đã chọn các gia đình, chứ không phải các bé gái.
- Chính xác. - Goran đáp. - Thế thì sao?
Mila suy nghĩ một lúc.
- Gã muốn thách thức chúng ta. Gã đặt ra một thử thách. Như là vụ chị em kết nghĩa. Đó là một ẩn số... Gã đã đặt chúng ta vào thử thách.
Khiến cô bé chết dần dần.
- Nếu như cô bé có cha có mẹ, và họ biết chuyện, vậy tại sao họ không thông báo việc con mình mất tích? - Goran nhấn mạnh, mắt lơ đãng nhìn sàn nhà. Ông có cảm giác hai người đang ở gần một điều gì đó. Có lẽ là một câu trả lời.
- Vì họ sợ.
Câu nói của Mila đã soi sáng mọi ngóc ngách của căn phòng. Cô bỗng cảm thấy ngứa ngáy ở đằng sau cô, một thoáng lạnh gáy...
- Sợ điều gì?
Câu trả lời cũng chính là điều Mila sắp nói. Thật ra không cần phải nói ra, nhưng họ vẫn muốn ý tưởng được nói ra thành lời, để tóm lấy nó và ngăn không cho nó biến mất.
- Cha mẹ cô bé sợ Albert có thể hành hạ cô bé...
- Nhưng gã làm điều đó như thế nào được, nếu như cô bé đã chết?
Làm máu chảy chậm lại. Khiến cô bé chết dần dần.
Goran ngừng bước, gối khuỵu xuống. Còn Mila thì đứng bật dậy.
- Gã không làm máu chảy chậm lại... mà làm nó ngừng lại.
Cả hai người cùng đi đến một kết luận.
- Ôi, Chúa ơi... - Mila thốt lên.
- Đúng vậy... con bé vẫn còn sống.
Kẻ Nhắc Tuồng Kẻ Nhắc Tuồng - Donato Carrisi Kẻ Nhắc Tuồng