Thất bại thực sự duy nhất chính là không dám khởi sự.

Harold Blake Walker

 
 
 
 
 
Tác giả: Nicholas Sparks
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 22
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2404 / 97
Cập nhật: 2017-08-09 10:28:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 19
ăn bếp nhỏ của em là những gì người ta vẫn kỳ vọng ở một ngôi nhà cũ có lẽ đã được đại tu khoảng nửa tá lần trong suốt một thế kỷ: những tấm ván lót sàn cũ kỹ đã bị bong tróc một ít chỗ tiếp giáp với tường; một chiếc tủ đa chức năng màu trắng giản dị với vô vàn những mẩu giấy ghi chú – và bồn rửa bằng thép không rỉ đặt bên dưới khung cửa gỗ mục nát lẽ ra phải được thay từ vài năm trước. Mặt bàn nứt nẻ, chung vách với bức tường là một căn nhà gỗ cũng cũ kỹ như chính ngôi nhà này. Trong một nơi thế này, có thể nhìn thấy sự xâm lấn của những vật dụng từ thế giới hiện đại: một cái tủ lạnh cỡ lớn, và một cái máy rửa bát cạnh bồn rửa, một chiếc lò vi sóng được đặt nơi góc bếp gần một chai rượu vang đã vơi đi quá nửa. Trên một phương diện nào đó, nó gợi cho tôi về nơi ở của cha tôi.
Sannah mở tủ và lấy ra một cái ly. “Anh muốn một ly không?”
Tôi lắc đầu. “Anh chưa bao giờ là một tay nghiện rượu cả.”
Tôi lấy làm ngạc nhiên khi em không cất cái ly đi. Thay vào đó, em lấy cái chai vơi rót một ít vào ly; em đặt cái ly lên bàn và ngồi xuống. Chúng tôi ngồi vào bàn và Savannah nhấp một ngụm.
“Em đã thay đổi rồi,” tôi quan sát.
Em nhún vai. “Rất nhiều thứ đã thay đổi kể từ lần cuối anh gặp em. “ Em chẳng nói gì thêm mà chỉ đặt cái ly xuống. Rồi em tiếp, giọng đã dịu lại. “Em chưa từng nghĩ có ngày mình lại trở thành loại người mong đợi một ly rượu vào buổi chiều tối, nhưng giờ thì thế này đây.”
Em bắt đầu xoay xoay chiếc ly trên bàn, và tôi thắc mắc chuyện gì đã xảy ra với em.“Anh biết chuyện gì buồn cười không?” em nói. “Em thực sự không hề quan tâm vị của nó thế nào. Khi em uống ly đầu tiên, em đã không biết loại nào ngon, loại nào dở. Vậy mà giờ đây nói đến chuyện mua rượu, em còn khá kén chọn nữa là đằng khác.”
Tôi thực sự không nhận ra người phụ nữ đang ngồi đối diện tôi nữa, mà tôi cũng không chắc phải trả lời thế nào.
“Đừng hiểu sai ý em,” em tiếp. “Em vẫn còn nhớ tất cả những gì người ta dạy em, và cũng hiếm khi em uống quá một ly mỗi đêm lắm. Nhưng bởi vì chính Chúa đã biến nước thành rượu, em nghĩ đó không thể nào lại là một tội lỗi được.”
Tôi bật cười trước lý lẽ của em, nhận ra rằng thật không công bằng nếu tôi cứ cố đánh giá em bằng cái phiên bản của em thời xưa cũ. “Anh đâu có hỏi.”
“Em biết,” em nói. “Nhưng anh đang thắc mắc.”
Trong một chốc, âm thanh duy nhất trong bếp là tiếng ro ro của tủ lạnh. “Em rất tiếc về chuyện của cha anh,” em nói, tay lần theo vết nứt trên mặt bàn. “Em thật lòng đấy. Em không thể kể ra đã bao nhiêu lần em nghĩ về ông ấy trong mấy năm qua.”
“Cảm ơn em,” tôi nói.
Savannah lại xoay xoay cái ly trong tay, dường như đang đắm chìm trong dòng chất lỏng sóng sánh. “Anh có muốn nói về chuyện này không?” em hỏi.
Tôi không chắc là tôi có muốn không, nhưng khi tựa lưng vào ghế, những từ ngữ tuôn ra dễ dàng đến đáng kinh ngạc. Tôi kể với em về trận đau tim đầu tiên của cha tôi, và rồi về lần thứ hai, và những lần về phép trong mấy năm đó. Tôi kể em nghe về sự nảy nở của một tình bạn giữa hai chúng tôi, và cả về việc tôi cảm thấy thoải mái thế nào cạnh ông, những bước tiến đáng kể khi ông bắt đầu dần hồi phục và cuối cùng ông đã phải từ bỏ ra sao. Tôi điểm lại những ngày cuối cùng tôi ở với ông và sự đau đớn khi bỏ ông lại trong viện dưỡng lão. Khi tôi mô tả đám tang và bức ảnh tôi tìm thấy trong phong bì, em nắm chặt tay tôi. “Em mừng là ông đã để nó lại cho anh,” em nói, “nhưng em chẳng ngạc nhiên.”
“Anh đã rất kinh ngạc,” tôi nói, em mỉm cười. Đó là một nụ cười khiến tôi an tâm. Em siết tay tôi nhè nhẹ. “Em ước em biết sớm hơn. Lẽ ra
“Cũng chẳng nhiều nhặn gì.”
“Điều đó không cần thiết. Ông ấy là cha anh, đó mới là vấn đề.” Em ngập ngừng trước khi bỏ tay tôi ra và nhấp thêm một ngụm rượu. “Anh sẵn sàng dùng bữa chưa?” em hỏi.
“Anh không biết,” tôi nói, mặt đỏ bừng trước khi kịp nhớ lại lời bình luận ban nãy của em. Em cúi rạp người với một tràng cười khúc khích. “Vậy bây giờ em làm cho anh một món hầm được chứ?”
“Có ngon không?” tôi hỏi. “Ý anh là hồi trước anh chưa từng nghe em đề cập tới việc em biết nấu ăn.”
“Đó là công thức gia truyền của nhà em,” em nói, giả vờ cảm thấy bị xúc phạm. “Nhưng em phải thành thật thôi – mẹ em nấu đấy. Bà mang nó đến đây hôm qua.”
“Sự thật đã bại lộ,” tôi nói.
“Đó luôn là phần hay nhất,” em đáp.
“Thường là vậy.” Em đứng dậy và mở tủ lạnh ra, cúi người kiểm tra mấy cái kệ. Tôi cảm thấy băn khoăn về chiếc nhẫn trên tay em và chồng em đang ở đâu khi em lôi ra một túi Tupperware. Em đổ món hầm vào tô và đút nó vào lò vi sóng. “Anh có muốn ăn kèm với cái gì không? Bánh mỳ hoặc bơ?”
“Vậy thì thật tuyệt,” tôi tán thành.
Vài phút sau, một bữa ăn đã được dọn ra trước mặt tôi, và mùi thơm khiến tôi cảm thấy cồn cào. Thật ngạc nhiên, Savannah lại ngồi vào chỗ cũ, với tay lấy ly rượu.
“Em không ăn à?”
“Em không đói,” em nói. “Thật ra thì em cũng không ăn nhiều lắm vào giờ muộn thế này.” Em nhấp một ngụm, khi tôi cắn miếng đầu tiên và tôi để câu bình luận của em trôi tuột đi.
“Em nói đúng,” tôi xuýt xoa. “Ngon tuyệt.”
Em mỉm cười. “Mẹ là một đầu bếp tài ba. Chắc anh phải nghĩ em học nấu ăn nhiều lắm, nhưng không hề. Em luôn quá bận. Quá thứ phải học khi em còn trẻ, và rồi sau đó, quá nhiều thứ phải thực hành.” Em hất hàm về phía phòng khách. “Đây là một căn nhà cũ. Em biết nó không giống thế, nhưng tụi em đã phải tu sửa rất nhiều trong mấy năm vừa rồi.”
“Trông nó rất tuyệt.”
“Anh chỉ đang cố lịch sự thôi, nhưng em đánh giá cao điều đó,” em đáp. “Anh nên nhìn thấy nơi này lúc em chuyển đến. Nó là một trang trại, anh biết đấy? Tụi em cần một mái nhà mới, nhưng thật buồn cười – chưa ai từng nghĩ tới mái nhà khi họ tưởng tượng ra những thứ phải tu sửa. Đó là một trong những thứ mọi người kỳ vọng một căn nhà phải có nhưng chưa từng nghĩ có thể đến một ngày nó cũng cần phải được thay thế. Hầu như mọi thứ tụi em làm đều thuộc dạng này. Máy bơm nhiệt, cửa thông hơi, những thiệt hại do mối mọt … đó là những chuỗi ngày dài bất tận.” Em vẽ nên một biểu hiện mơ mộng trên khuôn mặt. “Tụi em tự làm hầu hết mọi việc. Giống như với cái bếp này đây. Em biết tụi em cần mấy cái tủ mới và thay sàn, nhưng khi tụi em chuyển đến, thậm chí nước còn đọng thành vũng trong phòng khách và phòng ngủ mỗi khi trời mưa. Tụi em phải làm gì chứ? Chúng em có một danh sách những việc cần ưu tiên phải hoàn thành trước, và một trong những điều đầu tiên là phải vá mấy lỗ thủng trên mái. Có lẽ nhiệt độ phải lên tới 100 độ F và em ở trên đó, với một cái xẻng, cạo mấy vết bẩn rêu đi, da cũng phồng dộp lên. Nhưng… đó là một cảm giác hoàn toàn đúng đắn, anh biết không? Hai người trẻ, bắt đầu bước ra thế giới, cùng nhau sửa chữa căn nhà của chính họ? Đó là cảm giác… đồng lòng. Em cũng cảm thấy điều đó khi tụi em cùng lát sàn cho phòng khách. Mất đến hai tuần để lấp nền, nâng nó cao lên. Tụi em nhuộm màu rồi phủ thêm một lớp varnish, và cuối cùng khi có thể bước chân lên trên đó, cảm giác như tụi em đã đặt nền móng cho phần còn lại của cuộc đời mình.”
“Em khiến nó hầu như có vẻ thật lãng mạn.”
“Xét về một khía cạnh nào đó thì quả đúng là vậy,” em đồng ý. Em vén một lọn tóc ra phía sau tai. “Nhưng sau đó nó không còn lãng mạn nữa. Giờ nó đang dần trở nên cũ kỹ.” Tôi bật cười không chủ ý, sau đó ho khan và với tay tìm một chiếc cốc không tồn tại.
Em đứng bật dậy. “Để em lấy cho anh chút nước,” em nói. Em lấy một cốc nước đầy từ cái vòi và đặt nó trước tôi. Khi uống tôi có thể cảm thấy em đang quan sát tôi.
“Sao vậy?” tôi hỏi.
“Em chỉ không thể nhận ra được gi trông anh khác thế nào.”
“Anh ư?” Tôi thấy thật khó tin.
“Đúng, là anh,” em khẳng định. “Bằng cách nào đó trông anh già dặn hơn.”
“Anh đang già đi mà.”
“Em biết, nhưng không phải chuyện đó. Là mắt anh cơ. Chúng trông có vẻ… nghiêm túc hơn trước đây. Giống như chúng đã nhìn thấy những việc mà lẽ ra chúng không nên nhìn thấy. Mệt mỏi, có lẽ thế.”
Tôi chẳng thể nói gì, nhưng khi em nhìn thấy biểu hiện của tôi, em lắc đầu, ngượng ngùng. “Em không nên nói thế. Em chỉ có thể tưởng tượng ra những chuyện anh đã phải trải qua gần đây thôi.”
Tôi ăn thêm một miếng thịt hầm, ngẫm nghĩ lời nhận xét của em. “Thực ra, anh rời Iraq từ đầu năm 2004,” tôi nói. “Từ hồi đó đến giờ anh vẫn ở Đức. Chỉ một phần nhỏ được đưa đến Iraq trong một thời điểm nhất định và tụi anh cứ xoay vòng thế. Anh cũng sắp tới lượt nhưng anh không biết khi nào. Hy vọng đến lúc đó tình hình đã ổn định hơn.”
“Sao giờ anh không giải ngũ đi?”
“Anh đã gia hạn thêm,” tôi nói. “Chẳng có lý do gì để không làm vậy cả.” Cả hai chúng tôi đều biết chính xác lý do, và em gật đầu cụt lủn. “Đến bao giờ?”
“Đến năm 2007.”
“Rồi sau đó?”
“Anh cũng không chắc. Có thể anh sẽ ở lại thêm vài năm. Hoặc có thể anh sẽ đăng ký học đại học. Ai biết được – thậm chí anh còn có ý định đăng ký ngành giáo dục đặc biệt nữa. Anh nghe nói có những vấn đề rất thú vị trong lĩnh vực này.”
Em cười buồn một cách lạ lùng, và trong một lúc, chúng tôi lại rơi vào im lặng. “Em kết hôn từ bao giờ?” tôi hỏi. Em đổi chỗ ngồi. “Tháng mười một này là tròn hai năm.”
“Em tổ chức lễ cưới ở đây à?”
“Làm như em có lựa chọn nào khác ấy.” Em thu mắt lại. “M thực sự quay cuồng trong mớ ý tưởng về một đám cưới hoàn hảo. Em biết em là con gái duy nhất của họ, nhưng với quan điểm của em, em sẽ chỉ thấy hạnh phúc với một điều gì đó bé nhỏ hơn nhiều. Khoảng một trăm khách sẽ rất tuyệt vời.”
“Em chỉ nghĩ đến nhiêu đó thôi ư?”
“So sánh với số lượng khách cuối cùng ư? Vâng. Còn chẳng đủ ghế cho tất cả mọi người trong nhà thờ nữa kìa, và bố cứ nhắc em mãi ông sẽ phải mất hàng năm để trả nợ mất. Dĩ nhiên, ông chỉ trêu em thôi. Một nửa khách là bạn của bố mẹ em, nhưng em đoán đó cũng là chuyện sẽ xảy ra với anh nếu anh tổ chức lễ cưới ở quê nhà. Tất cả mọi người từ bác đưa thư đến cô thợ cắt tóc đều nhận được lời mời.”
“Nhưng em hạnh phúc vì đã quay về chứ?”
“Thật thoải mái khi được về đây. Bố mẹ em ở gần đây và em rất cần điều đó, đặc biệt là bây giờ.”
Em đã không thảo luận sâu hơn về vấn đề này. Tôi băn khoăn về điều này – và hàng trăm điều khác – khi tôi đứng dậy khỏi cái bàn và mang đĩa đến bồn rửa. Khi tôi rửa nó, tôi nghe thấy em gọi với từ đằng sau.
“Để đó đi. Em còn chưa dỡ mấy thứ trong máy rửa chén ra. Em sẽ làm sau. Anh có muốn dùng thêm thứ gì không? Mẹ em cũng để lại vài cái bánh trên bàn.”
“Một ly sữa được không?” tôi hỏi. Em bắt đầu đứng dậy và tôi thêm vào, “Anh tự làm được mà. Chỉ anh chỗ để ly là được rồi.”
“Trong tủ ly cạnh bồn rửa đấy.”
Tôi lấy chiếc ly từ kệ chén và đến bên tủ lạnh. Sữa ở trên ngăn trên cùng, trên những ngăn bên dưới ít nhất có khoảng một tá hộp Tupperware đầy nhóc thức ăn. Tôi đổ sửa ra ly rồi quay lại bàn.
“Có chuyện gì vậy, Savannah?”
Em quay phắt lại. “Ý anh là gì?”
“Chồng em,” tôi nói.
“Cái gì về anh ấy cơ?”
“Khi nào anh có thể gặp anh ấy?”
Thay vì trả lời, Savannah đứng dậy với chiếc ly trên tay. Em bỏ chiếc ly vào bồn rửa và lấy một ly cà phê và một hộp trà.
“Anh đã gặp anh ấy rồi,” em nói, xoay người lại. Em thẳng vai. “Đó là Tim.”
Tôi có thể nghe thấy tiếng chiếc muỗng va lách cách vào thành ly khi Savannah ngồi xuống đối diện tôi lần nữa.
“Anh muốn nghe bao nhiêu?” em lầm bầm, ngó chằm chằm vào chiếc ly trước mặt.
“Tất cả,” tôi nói, tựa lưng lên ghế. “Hoặc không gì cả, anh vẫn chưa quyết định được.”
Em khịt mũi. “Em nghĩ vậy cũng có lý.”
Tôi đan tay vào nhau. “Bắt đầu từ hồi nào?”
“Em không biết,” em nói. “Em biết nghe có vẻ điên rồ nhưng nó không như anh nghĩ đâu. Không ai trong tụi em dự tính trước chuyện này cả.” Em đặt cái thìa lên bàn. “Nhưng trả lời cho câu hỏi đó, em nghĩ nó bắt đầu từ năm 2002.”
Một vài tháng sau khi tôi đăng ký gia hạn thêm, tôi nhận ra. Sáu tháng trước khi cha tôi lên cơn đau tim lần đầu và ngay thời điểm tôi để ý thấy những lá thư từ em bắt đầu thay đổi.
“Anh biết đấy, tụi em vốn là bạn. Mặc dù anh ấy là sinh viên đã tốt nghiệp, thỉnh thoảng tụi em vẫn lên lớp trong cùng một tòa nhà trong suốt thời gian em học năm cuối, và rồi tụi em hay đi uống cà phê và nghiên cứu cùng nhau. Không giống như là tụi em đang hẹn hò, thậm chí còn không cả nắm tay. Tim biết là em yêu anh… nhưng anh ấy ở đó, anh biết đấy? Anh ấy lắng nghe mỗi khi em kể với anh ấy rằng em nhớ anh đến nhường nào và chuyện chia tay khó khăn ra sao. Và thật sự thì đó là một quãng thời gian rất khó khăn. Em đã tưởng rồi anh sẽ quay về.”
Khi em ngước lên, đôi mắt em đong đầy… Cái gì nhỉ? Niềm hối tiếc? Tôi không chắc.
“Dù sao thì chúng em đã ở bên nhau rất nhiều, và anh ấy rất giỏi an ủi em mỗi khi em buồn bã. Anh ấy luôn nhắc em rằng rồi sẽ trở về trong kỳ nghỉ phép trước khi em nhận ra thời gian đã trôi qua, và em muốn gặp anh nhiều không tả xiết. Và rồi cha anh đổ bệnh. Em biết anh phải ở cạnh ông – em sẽ không bao giờ tha thứ cho anh nếu anh không ở bên ông lúc đó – nhưng đó không phải là điều chúng ta cần. Em biết điều đó nghe có vẻ ích kỷ, và em ghét bản thân mình thậm chí kể cả khi em chỉ nghĩ về điều đó. Giống như là định mệnh đã âm mưu chống lại chúng ta.”
Em nhặt chiếc muỗng lên, cho vào ly trà và bắt đầu khuấy, cố sắp xếp những suy nghĩ ngổn ngang của mình.
“Mùa thu năm ấy, ngay sau khi em hoàn thành hết tất cả chứng chỉ và trở về nhà để làm việc tại một trung tâm đánh giá phát triển trong thị trấn, cha mẹ Tim đã gặp một tai nạn khủng khiếp. Họ đang trên đường trở về từ Asheville khi xe họ mất tay lái và đâm sầm vào một bảng chỉ dẫn trên đường cao tốc. Một chiếc công ten nơ đã đâm vào họ. Tài xế công ten nơ không bị thương, nhưng cả cha và mẹ Tim đều mất trên đường đi cấp cứu. Tim phải xin nghỉ ở trường – anh ấy đang cố lấy bằng tiến sỹ - để về đây chăm sóc Alan.” Em ngừng lại. “Thật là kinh khủng với Tim. Anh ấy không chỉ phải vượt qua nỗi đau mất mát – anh ấy rất yêu cha mẹ mình nhưng Alan thì không nguôi ngoai được. Anh ấy la hét suốt ngày, rồi bắt đầu vò đầu bứt tóc. Người duy nhất có thể ngăn anh ấy đừng làm mình thương tổn là Tim, nhưng điều đó cũng rút cạn sức lực mà Tim có. Em đoán đó là lần đầu tiên em đến đây. Anh biết đấy, để giúp đỡ.” Tôi cau mày, em nói thêm, “Đây là nhà của cha mẹ Tim. Nơi Tim và Alan lớn lên.”
Ngay khi em nói điều đó, những kỷ niệm lại ùa về. Dĩ nhiên nó là của Tim – đã có lần em kể với tôi rằng Tim sống trong một trang trại gần nhà em.
“Chúng em đã an ủi lẫn nhau. Em cố giúp anh ấy, và anh ấy cũng cố giúp em, và chúng em cùng nhau giúp Alan. Từng chút, từng chút một, em đoán, chúng em đã bắt đầu yêu nhau.
Lần đầu tiên, em nhìn thẳng vào mắt tôi.“Em biết anh sẽ muốn nổi giận với Tim hoặc em. Có thể là cả hai chúng em. Và em đoán chúng em đáng bị vậy. Nhưng anh không biết chuyện gì đã xảy ra đâu. Rất nhiều chuyện – luôn luôn cảm động khi nói về những chuyện đó. Em cảm thấy có lỗi về những việc đó, Tim cũng vậy. Nhưng sau đó ít lâu, chúng em bắt đầu có cảm giác như một cặp đôi thực sự. Tim chuyển đến làm việc ở cơ quan em và quyết định khởi động chương trình cuối tuần ở nông trại cho trẻ em mắc chứng tự kỷ. Cha mẹ anh ấy luôn muốn anh ấy làm điều đó, nên em cũng đăng ký làm việc ở nông trại. Sau đó, hầu như chúng em luôn ở bên nhau. Sửa sang lại trang trại cho chúng em một việc gì đó để mà tập trung vào, và nó cũng giúp. Anh ấy yêu lũ ngựa, và có rất nhiều việc phải làm khi cuối cùng anh ấy cũng quen với việc không cha mẹ ở bên nữa. Giống như là tất cả chúng em đang nương tựa vào nhau vậy… Anh ấy cầu hôn một năm sau đó.”
Khi em ngừng lại, tôi quay đi, cố tiêu hóa những lời lẽ của em. Chúng tôi ngồi yên lặng bên nhau một lát, mỗi người đều đang chìm đắm với những suy nghĩ của chính mình. “Dù sao thì chuyện là vậy đó,” em kết luận. “Em không biết anh còn muốn nghe thêm điều gì nữa không.”
Tôi cũng không chắc nữa.
“Alan vẫn sống ở đây à?” tôi hỏi.
“Anh ấy có một phòng trên tầng hai. Thực ra đó vốn là phòng của anh ấy trước giờ. Dù thế thì cũng chẳng trở ngại gì mấy. Sau khi anh ấy cho mấy con ngựa ăn xong và chải lông cho chúng, anh ấy thường chỉ muốn ở một mình. Anh ấy thích chơi game lắm. Anh ấy có thể chơi hàng giờ. Gần đây em còn không thể bắt anh ấy ngừng nổi nữa. Để anh ấy chơi thì có lẽ anh ấy chơi cả đêm luôn.”
“Giờ cậu ta có ở đây không?”
Em lắc đầu. “Không,” em nói. “Giờ anh ấy đang ở chỗ Tim.”
“Ở đâu?” Trước khi em có thể trả lời, con chó cào cào nơi cửa, và Savannah phải mở nó ra. Nó chạy ào vào trong, lưỡi lòng thòng và đuôi vẫn còn ngoáy tít. Nó nhảy phóc về phía tôi, cạ cạ mõm lên tay tôi.
“Cậu bé có vẻ thích anh,” tôi nói.
Savannah vẫn đứng yên cạnh cửa. “Là cô bé. Nó thích tất cả mọi người. Tên nó là Molly. Vô dụng trong vai trò chó dữ nhà, nhưng ngọt ngào hơn kẹo. Cố mà tránh nước dãi của nó. Sẽ dính hết lên khắp người anh nếu anh để nó làm thế đấy.”
Tôi liếc nhìn quần jeans của tôi. “Anh thấy rồi.”
Savannah ra dấu qua vai. “Nghe này, em vừa nhớ ra là em phải đi vứt vài thứ. Chắc tối nay sẽ mưa. Sẽ không lâu đâu.”
Tôi gật đầu, em vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi về Tim. Nhưng tôi nhận ra, em cũng không định làm thế. “Cần giúp một tay không?”
“Không hẳn. Nhưng anh được chào đón đến đây. Hôm nay là một buổi tối tuyệt đẹp.”
Tôi theo em ra ngoài, và Molly dẫn đầu đoàn chúng tôi, hầu như quên phắt đi rằng nó vừa cầu xin để được vào trong. Một tiếng gãy vụn phát ra từ lùm cây, Molly chạy ào vào bóng tối và đột ngột biến mất. Savannah lại mang ủng vào.
Chúng tôi đi bộ về phía chuống ngựa. Tôi nghĩ vẩn vơ về những chuyện em vừa kể với tôi và một lần nữa tự hỏi tại sao mình lại đến đây. Tôi cũng không chắc liệu tôi có thấy vui không vì em đã kết hôn với Tim – bởi vì dường như họ là một cặp rất hoàn hảo dành cho nhau – hay buồn vì chính lý do ấy. Hay có vui không không khi cuối cùng tôi cũng khám phá ra sự thật, và nhận ra rằng có lẽ không biết sẽ dễ dàng hơn.
Sau rốt, tôi chỉ đơn giản cảm thấy mệt mỏi.
Khoan… có điều gì đó tôi biết em vẫn chưa nói với tôi. Tôi nghe thấy điều đó trong giọng nói em, một dấu vết của nỗi buồn sẽ không biến mất. Khi bóng tối bao trùm lên chúng tôi, tôi nhận thức một cách chính xác chúng tôi đang bước đi cạnh nhau gần đến thế nào, và tự hỏi em có cảm thấy giống tôi không. Nếu có, em đã không tỏ ra bất kỳ một dấu hiệu gì.
Bóng những con ngựa đổ nhập nhòa phía xa xa những hình thù kỳ dị. Savannah lấy hai bộ cương, mang vào chuồng và treo chúng trên hai cái móc.
Trong khi em làm chuyện đó, tôi đi nhặt mấy cái xẻng chúng tôi dùng hồi chiều, đặt chúng vào chỗ để mấy dụng cụ khác. Trên đường ra, em đảm bảo cổng đã đóng. Liếc nhìn đồng hồ, đã gần mười giờ.
Đã trễ rồi và cả hai chúng tôi đều ý thức được giờ giấc.
“Anh đoán là giờ anh nên đi thôi,” tôi nói. “Đây là một thị trấn nhỏ, anh không muốn gây ra điều tiếng gì.”
“Có lẽ anh nói đúng.” Molly vờn xung quanh, đột ngột như hiện ra từ không khí, và ngồi cạnh chúng tôi. Khi nó dụi đầu vào chân Savannah, em bước sang một bên. “Anh sẽ ở đâu?” em hỏi.
“Chỗ nào đó, trong bãi đỗ xe. Ngay khi ra khỏi đường cao tốc.”
Em thoáng nhăn mũi. “Em biết chỗ đó.”
“Một kiểu quán rượu chui,” tôi thừa nhận.
Em mỉm cười. “Em không thể nói là em lấy làm ngạc nhiên. Anh luôn tìm được những chỗ độc đáo nhất.”
“Như là Shrimp Shack hả?”
“Chính xác.” Tôi đút tay vào túi, tự hỏi liệu đây có phải lần cuối tôi được gặp em không. Nều đúng vậy thì khiến tôi hoang mang cực điểm; tôi không muốn nó kết thúc bằng một mẩu đối thoại ngắn ngủn, nhưng tôi không thể nghĩ ra điều gì khác để nói. Trên đường ra cổng, những chiếc đèn pha từ một chiếc xe hơi nhá lên một cách có chủ ý khi nó lao qua căn nhà.
“Anh đoán là đến đây được rồi,” tôi nói, cảm thấy mất mát. “Thật vui khi được gặp lại em.”
“Em cũng vậy, John. Em rất mừng vì anh đã ghé qua.” Tôi gật đầu cụt lủn. Khi em quay đi, tôi bám lấy nó như ám hiệu rời đi.
“Tạm biệt,” tôi nói. “Chào anh.”
Tôi rẽ ở hiên nhà và bắt đầu tiến thẳng hướng xe mình, chìm đắm trong ý nghĩ rằng mọi chuyện đã thực sự, thực sự kết thúc. Tôi không chắc tôi mong đợi điều gì khác hơn, nhưng kết quả cuối cùng đã phá tan cái bề mặt của cảm giác tôi cố kìm nén kể từ khi nhận được lá thư cuối cùng của em. Tôi mở cửa xe và nghe thấy em gọi với theo.
“Này, John?”
“Ừ?” Em phóng qua hiên nhà và bước về phía tôi. “Ngày mai anh còn ở vòng vòng quanh khu này không?” Khi em tiến lại gần, một nửa khuôn mặt em chìm trong bóng tối, tôi biết chắc rằng mình vẫn còn yêu em. Mặc kệ lá thư, mặc kệ chồng em. Mặc kệ sự thật rằng giờ đây chúng tôi đã không thể ở bên nhau nữa.
“Sao vậy?” tôi hỏi.
“Em tự hỏi liệu anh có muốn ghé qua không. Khoảng mười giờ. Em chắc là Tim sẽ mong gặp anh lắm.”
Tôi lắc đầu thậm chí trước cả khi em k nói hết câu. “Anh không nghĩ đó là một lời đề nghị hay ho đâu.”
Tôi biết em muốn tôi gặp Tim, người vẫn chính xác như chàng trai tôi vẫn nhớ, và bằng lý trí tôi biết em hỏi bởi vì em mong muốn một sự tha thứ. Nhưng… em nắm lấy bàn tay tôi. “Đi mà. Điều đó sẽ rất có ý nghĩa với em.” Mặc cho hơi ấm từ bàn tay em, tôi vẫn không muốn trở lại. Tôi không muốn gặp Tim, tôi không muốn nhìn thấy hai người bọn họ bên cạnh nhau hay ngồi quây quần quanh bàn giả vờ rằng tất cả mọi chuyện trên thế gian đều đang tốt đẹp. Nhưng sự nài nỉ trong giọng nói của em khiến tôi không thể làm em thất vọng. “Được rồi,”tôi nói. “Mười giờ nhé.”
“Cảm ơn anh.”
Một lát sau, em quay đi. Tôi đứng yên tại chỗ, ngơ ngẩn nhìn em leo lên hiên nhà trước khi bước vào xe. Tôi xoay chìa khóa và quay người lại. Savannah đứng trong hiên nhà, vẫy tay lần cuối. Tôi vẫy lại và quay đầu xe về phía con đường, hình ảnh em nhỏ dần nhỏ dần trong kính chiếu hậu. Ngắm em đột nhiên tôi cảm thấy cổ họng mình khô khốc. Không phải bởi vì em đã cưới Tim, mà cũng chẳng phải bởi vì ý nghĩ rằng ngày mai tôi sẽ nhìn thấy hai người họ ở bên nhau. Mà là bởi nhìn thấy Savannah khi tôi lái xe đi xa dần, đứng trước hiên nhà, em đang ụp tay vô mặt mà khóc.
John Yêu Dấu John Yêu Dấu - Nicholas Sparks John Yêu Dấu