We read to know we are not alone.

C.S. Lewis

 
 
 
 
 
Tác giả: Nicholas Sparks
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 22
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2404 / 97
Cập nhật: 2017-08-09 10:28:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần 2 - Chương 12
ài giờ sau, trong cái đêm đầu tiên cô đơn một mình sau khi quay trở lại Đức, tôi đọc lại lá thư lần nữa, hồi tưởng quãng thời gian chúng tôi bên nhau. Thật dễ dàng, những kỷ niệm đã bắt đầu ám ảnh tôi và thỉnh thoảng dường như còn thật hơn là cuộc sống của tôi trong quân ngũ nữa. Tôi có thể cảm thấy bàn tay của Savannah trong tay tôi và nhìn thấy em đang lắc lắc mái tóc cho khô nước. Tôi bật cười thành tiếng khi nhớ lại tôi đã ngạc nhiên thế nào khi em lướt sóng lần đầu tiên. Thời gian ở bên em đã khiến tôi thay đổi, và những chàng trai trong đơn vị cũng nhận ra sự khác lạ ở tôi. Suốt my tuần sau đó, bạn tôi, Tony chọc tôi suốt, tự mãn khi tin rằng anh ta đã đúng khi chứng minh tầm quan trọng của mối quan hệ khác giới. Sai lầm duy nhất của tôi là đã kể cho anh ấy nghe về Savannah. Dù vậy, Tony vẫn muốn biết nhiều hơn những gì tôi sẵn lòng chia sẻ. Khi tôi đọc sách anh ngồi đối diện tôi, cười toe toét như một thằng ngốc.
“ Kể lại lần nữa chuyến nghỉ phép lãng mạn hoang dại của chú mày đi,” anh nói. Tôi ép bản thân tiếp tục chăm chú vào mấy trang sách, cố hết sức lờ anh ta đi.
“Savannah, đúng chứ? Sa-va-nnah. Khỉ thật, tôi rất thích cái tên này. Nghe thật … dễ thương, nhưng tôi dám cá sau cái lớp vỏ ấy cô nàng là một con hổ hả?”
“Im đi, Tony.”
“Đừng làm vậy chứ. Không phải tôi là người luôn lo lắng cho cậu sao? Tôi đã bảo là cậu phải ra ngoài nhiều còn gì? Cuối cùng thì cậu cũng chịu nghe lời tôi, bây giờ tôi phải lấy lại vốn chứ. Kể chi tiết hơn coi.”
“Không phải chuyện của anh.”
“Nhưng mà cậu đã uống tequila, đúng chứ? Tôi đã bảo là nó luôn có tác dụng mà.”
Tôi chẳng nói gì. Tony giơ tay chào thua. “Thôi nào – cậu chỉ kể với tôi nhiêu đó thô
“Tôi không muốn nói về chuyện đó nữa.”
“Bởi vì cậu đang yêu chứ gì? Đấy là cậu nói đấy nhá, nhưng mà tôi vẫn nghĩ là cậu dựng nên toàn bộ chuyện này đấy.”
“Đúng là tôi bịa ra đấy. Được chưa?”
Anh ta lắc đầu rồi đứng dậy. “Cậu đúng là con cún si tình.”
( nguyên văn: "You are one lovesick puppy." => vừa có nghĩa như trên vừa ám chỉ tình yêu của John là tình yêu kiểu trẻ con puppy love)
Tôi chẳng nói gì, nhưng khi anh ấy đi khỏi, tôi biết là anh ấy nói đúng. Tôi yêu Savannah đến phát điên ngay từ cái nhìn đầu tiên. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì để được ở cạnh em, và tôi đã yêu cầu được chuyển công tác về Mỹ.
Viên chỉ huy khó-nhằn của tôi xem xét việc này rất nghiêm túc. Khi ông ấy hỏi lý do, tôi kể cho ông nghe về cha tôi thay vì kể về Savannah. Ông lắng nghe một lát rồi ngồi dựa lưng vào ghế và nói, “Đó chẳng phải là lý do trừ phi vần đề là ở sức khỏe của cha cậu.”
Bước ra khỏi phòng ông, tôi biết rằng mình sẽ chẳng thể đi đâu ít nhất là trong mười sáu tháng nữa. Tôi chẳng buồn giấu nỗi thất vọng của mình, và vào đêm trăng tròn, tôi rời doanh trại lang thang qua những bãi đất rộng chúng tôi vẫn thường dùng làm sân chơi đá bóng. Tôi nằm dài trên bãi cỏ ngắm trăng, hồi tưởng lại mọi việc và căm ghét cái sự thật là tôi đang ở một nơi rất xa.
Lúc đầu, chúng tôi viết thư và gọi điện cho nhau khá thường xuyên. Chúng tôi cũng có gửi mail nữa, nhưng tôi sớm nhận ra rằng em thích những cánh thư tay hơn, và em cũng muốn tôi viết cho em. “Em biết là nó không nhanh như là gửi mail nhưng đó cũng là điều em thích,” em viết cho tôi. “ Em thích niềm bất ngờ khi tìm thấy những lá thư trong hòm thư và cả nỗi mong chờ khi cầm chúng trên tay. Em thích bởi vì em có thể mang theo bên mình để đọc mỗi khi rảnh rỗi, em có thể dựa vào gốc cây và cảm thấy làn gió mơn man trên mặt khi em đọc những dòng chữ này. Em thích tưởng tượng ra hình dáng của anh bên bàn viết: quần áo anh đang mặc, cảnh tượng xung quanh anh, cách anh cầm bút. Em biết điều này nghe có vẻ sáo rỗng và có thể là ngốc nghếch nữa, nhưng em vẫn nghĩ là anh đang ngồi trong một túp lều tại một cái bàn dã với một ngọn đèn dầu lập lòe bên cạnh trong khi gió gầm rú bên ngoài. Như thế có vẻ lãng mạn hơn nhiều so với việc đọc một cái gì đó từ một cái máy mà anh vẫn dùng để tải nhạc hoặc đọc tài liệu.”
Tôi thấy buồn cười quá. Em đã nhầm to về cái lều, cái bàn dã chiến và cả ngọn đèn dầu nữa, nhưng tôi phải thừa nhận là cái hình ảnh tưởng tượng đó thú vị hơn rất nhiều so với thực tế là đèn neon, bàn do chính phủ cấp và những doanh trại bằng gỗ.
Ngày tháng trôi đi, tình yêu của tôi dành cho Savannah thậm chí còn trở nên mãnh liệt hơn. Thỉnh thoảng tôi lẻn ra ngoài để được ở một mình. Tôi lấy tấm hình của Savannah ra và ghì nó vào lòng thật chặt, ghi nhớ lấy từng đường nét. Thật kỳ lạ, nhưng bất kể tôi yêu em và luôn ghi nhớ thời gian chúng ở bên nhau đến thế nào, từ hạ sang thu từ thu sang đông tôi lại thấy cảm ơn về tấm ảnh hơn bao giờ hết. Phải, tôi tự thuyết phục mình rằng tôi nhớ rất rõ, nhưng thành thật mà nói tôi đang dần quên mất những đường nét cụ thể. Hoặc dường như, tôi nhận ra rằng tôi chưa bao giờ chú ý đến chúng. Ví dụ, trong bức ảnh, tôi thấy Savannah có một nốt ruồi nhỏ dưới mắt trái, điều mà tôi hẳn đã bỏ qua. Hay nhìn kỹ thì nụ cười của em hơi cong. Những khiếm khuyết đó bằng cách nào đó đã khiến em trở nên hoàn hảo trong mắt tôi, nhưng tôi ghét phải thừa nhận là tôi đã phải dùng đến bức ảnh mới có thể nhận ra điều ấy.
Dù thế nào, tôi vẫn phải tiếp tục sống cuộc sống hiện tại của tôi. Dù tôi nghĩ về Savannah hay nhớ em nhiều đến thế nào, tôi vẫn phải làm việc. Đầu tháng chín – vì phải giải quyết tình huống rắc rối – đội chúng tôi được cử đến Kosovo lần thứ hai, gia nhập binh đoàn First Armored để thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình trong khi hầu hết những người khác trong bộ binh được giữ lại Đức. Phải khá kiềm chế tôi mới không đốt khẩu súng của mình, nhưng điều đó cũng không có nghĩa là tôi trải qua những ngày nhàn rỗi hái hoa và thương nhớ Savannah. Tôi lau súng, xem chừng bất kỳ hành động quá khích nào, và khi bạn buộc phải cảnh giác hàng giờ như vậy, bạn sẽ mệt đừ ra khi đêm xuống. Thành thật mà nói tôi có thể vượt qua hai đến ba ngày mà chẳng phải thắc mắc là giờ này Savannah đang làm gì hay thậm chí là chẳng phải nghĩ đến em nữa. Điều đó có làm cho tình yêu của tôi kém hiện hữu hơn? Tôi đã tự vấn mình hàng tá lần trong suốt chuyến đi, nhưng tôi luôn quyết định là nó chẳng ảnh hưởng gì, bởi một lý do đơn giản là hình ảnh của em luôn hiện hữu trong tôi kể cả khi tôi ít mong chờ nhất, tràn ngập trong tôi nỗi đau tôi đã trải qua vào cái ngày tôi rời đi. Bất cứ điều gì cũng làm tôi liên tưởng tới em: một anh chàng kể về vợ của anh ta, cảnh tượng hai người nắm tay nhau, hay thậm chí là cái cách những người dân mỉm cười khi chúng tôi đi qu
Những lá thư của Savannah đến cách nhau đều đặn mười ngày một lần hoặc hơn, chúng sẽ chất đống cho đến khi tôi được trở lại Đức. Không lá nào giống như lá tôi đã đọc trên máy bay; hầu hết chỉ viết về những chuyện thường nhật và tán gẫu, em đã để dành những tâm sự thật của mình cho đến phút cuối. Trong thời gian đó, tôi biết được tất cả những chi tiết cỏn con trong cuộc sống hàng ngày của em: rằng họ sẽ hoàn thành ngôi nhà đầu tiên chậm hơn một chút so với kế hoạch, điều đó làm cho mọi việc khó khăn hơn khi họ bắt đầu thực hiện ngôi nhà thứ hai. Vì thế, mọi người phải làm thêm giờ, dù cho giờ đây mọi người đã quen việc hơn nhiều rồi. Tôi được biết sau khi họ hoàn thiện căn nhà thứ nhất, mọi người đã tổ chức một bữa tiệc lớn mời cả hàng xóm xung quanh nữa và rằng họ bị chuốc rượu hết lần này đến lần khác suốt cả buổi chiều. Tôi còn được biết là cả nhóm kéo nhau đi liên hoan ở quán Shrimp Shack và Tim còn tuyên bố rằng đó là nhà hàng có phong cách nhất anh ấy từng đến. Tôi biết em đã nhập học học kỳ thu và những môn học mà em đăng ký và rằng em rất hào hứng tham gia lớp tâm lý vị thành niên của giáo sư Barnes, người mới có bài được xuất bản trên những tạp chí chuyên ngành. Tôi chẳng cần tin rằng Savannah nghĩ về tôi mỗi lần em đóng đinh hay giúp lắp cửa sổ vào giá đỡ, hoặc nghĩ rằng mỗi lần em trò chuyện với Tim em lại ước đó là tôi. Tôi thích nghĩ là giữa chúng tôi còn có điều gì đó sâu sắc hơn thế nhiều, và sau tất cả, niềm tin làm cho tình yêu tôi dành cho em lại càng trở nên mãnh liệt hơn.
Dĩ nhiên, tôi muốn biết là em vẫn còn quan tâm đến tôi, và em chẳng bao giờ làm tôi thất vọng. Tôi nghĩ đó cũng là lý do tôi giữ lại tất cả những lá thư của em. Vào cuối mỗi lá thư, sẽ luôn có một vài dòng, hay thậm chí là cả một đoạn, em viết điều gì đó khiến tôi phải khựng lại, những dòng chữ gợi tôi nhớ lại, và tôi sẽ đọc đi đọc lại đoạn đó và cố tưởng tượng ra giọng nói của em khi tôi đọc chúng. Như những dòng này, trong lá thư thứ hai tôi nhận được:
Khi em nghĩ về em và anh, về những gì chúng ta có với nhau, em biết người khác sẽ dễ dàng cho rằng thời gian chúng ta ở bên nhau chỉ là một sản phẩm phụ của quãng thời gian em trải qua ở miền biển, một giai đoạn “bốc đồng”, trong thời gian nữa, điều đó sẽ hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì cả. Đó là lý do tại sao em không kể cho bất cứ ai về chuyện của chúng mình. Họ sẽ không hiểu, và em cũng cảm thấy là không cần phải giải thích dài dòng bởi vì em biết trong tim mình điều đó hiện hữu tới nhường nào. Khi em nghĩ về anh, em không thể không mỉm cười, biết rằng bằng cách nào đó anh khiến em trở nên hoàn thiện. Em yêu anh, không chỉ bây giờ mà là mãi mãi và em mơ đến ngày em lại ở trong vòng tay anh lần
Hay đoạn này, từ một lá thư sau khi tôi gửi cho em một bức hình của tôi: Và cuối cùng em muốn cảm ơn anh về bức hình. Em đã lồng nó vào ví rồi. Anh trông thật khỏe mạnh và hạnh phúc, nhưng em phải nói là em đã khóc khi em thấy nó đấy. Không phải bởi vì nó khiến em buồn dù cho nó có như vậy kể từ khi em biết là mình chẳng thể gặp anh mà là bởi vì nó làm em hạnh phúc. Nó nhắc em nhớ rằng anh là điều tuyệt vời nhất từng đến với em.
Và đây nữa, trong lá thư em viết cho tôi lúc tôi ở Kosovo: Em phải nói rằng lá thư gần đây của anh khiến em lo lắng. Em muốn nghe, à không em cần nghe về điều đó, nhưng em thấy mình đang cố thở đều và bắt đầu lo sợ bất cứ khi nào anh kể cho em về cuộc sống của anh trong quân ngũ. Em ở đây, chuẩn bị trở về nhà đón lễ tạ ơn và lo lắng về những kỳ thi, và anh đang phải ở một nơi nào đó nguy hiểm, bao quanh bởi kẻ thù. Em chỉ ước là những người đó cũng biết anh như em biết anh để anh có thể được an toàn. Giống như em cảm thấy an toàn trong vòng tay anh.
Giáng sinh năm ấy là một giáng sinh buồn, nhưng giáng sinh thì luôn buồn khi bạn sống xa nhà. Đó cũng không phải giáng sinh cô đơn đầu tiên của tôi trong quân ngũ. Những kỳ nghỉ lễ ở Đức, các chàng trai trong doanh trại chúng tôi cũng dựng một cái cây bằng que nhựa màu xanh và trang trí với đèn nhấp nháy. Hơn một nửa đồng đội tôi được về nhà – tôi là một trong số những kẻ kém may mắn phải ở lại trực phòng khi những người bạn Nga của chúng tôi chui đầu vào rắc rối trong khi chúng tôi vẫn còn bù khú trong thị trấn cùng với những binh sỹ khác ăn mừng giáng sinh bằng hàng tấn bia Đức hảo hạng.
Tôi đã mở gói quà Savannah gửi cho tôi – một cái áo len nó khiến tôi nhớ đến mấy cái áo mà Tim vẫn mặc và một loạt bánh quy nhà làm – và báo là em đã nhận được chai nước hoa tôi gửi. Nhưng tôi vẫn thấy cô đơn và quyết định tự tặng mình một món quà, tôi gọi điện cho Savannah. Cuộc gọi nằm ngoài sự mong đợi của em, và tôi có dịp nghe lại giọng em sau hàng tuần đằng đẵng. Chúng tôi nói chuyện với nhau hơn một tiếng đồng hồ. Tôi đã rất nhớ giọng nói của em. Tôi hầu như quên mất giọng mũi của em và giọng em cứ cao vút lên mỗi khi em nói thật nhanh. Tôi dựa lưng vào ghế, tưởng tượng rằng em đang ở đây với tôi và lắng nghe em mô tả tuyết rơi. Cùng lúc đó, tôi nhận ra rằng tuyết cũng đang rơi ngoài cửa sổ, trong phút chốc dường như chúng tôi đang ở cạnh nhau vậy.
Tháng một năm 2001, tôi bắt đầu đếm ngược đến ngày chúng tôi gặp lại nhau. Mùa hè của tôi sẽ đến vào tháng sáu, và tôi sẽ rời khỏi quân đội trong chưa tới một năm nữa. Tôi thức dậy vào buổi sáng và tự nhủ rằng chỉ còn 360 ngày rồi 359 và rồi còn 358 ngày nữa tôi sẽ được ra, rồi tôi sẽ gặp Savannah trong 178 rồi 177 rồi 176 và cứ thế. Đó là những điều hữu hình và thực tế, đủ gần để cho phép tôi mơ được trở lại bắc Carolina; nhưng nó lại khiến cho thời gian dường như chậm lại. Có phải nó luôn như vậy khi bạn thực sự muốn một cái gì đó? Nó làm tôi có cảm giác như một đứa trẻ và những ngày dài đằng đẵng chờ đợi tới kỳ nghỉ hè. Nếu không phải vì những lá thư của Savannah, tôi chẳng nghi ngờ gì thời gian chờ đợi sẽ dài như vô tận.
Cha tôi cũng viết thư cho tôi. Không thường xuyên như Savannah, nhưng theo lịch mỗi tháng một lần. Ngạc nhiên hơn, những lá thư của ông dài hơn hai, ba lần trước đây. Số trang thêm vào hầu như toàn là về những đồng xu. Lúc rảnh rỗi, tôi lại ghé vào phòng máy và tự nghiên cứu một chút. Tôi tìm những đồng xu, lịch sử của đồng xu ấy và gửi những thông tin ấy vào những bức thư của tôi. Tôi thề, đây là lần đầu tiên tôi làm điều đó, tôi tưởng như có thể nhìn thấy những giọt nước mắt của ông trong lá thư ông gửi sau đó. Không, không thực sự như vậy – tôi biết đó chỉ là tưởng tượng của tôi bởi vì ông chưa bao giờ đề cập tới việc tôi đã làm – nhưng tôi muốn tin rằng ông đã nghiền ngẫm mãi những dữ liệu ấy cùng với niềm hăng say lúc ông nghiên cứu bảng Greysheet.
Tháng hai, tôi được cử đi diễn tập cùng với những sỹ quan Nato khác: một trong những “bài tập giả vờ rằng chúng ta đang ở trong cuộc chiến năm 1944,” trong đó chúng tôi đang phải đối mặt với sự tấn công dồn dập của binh đoàn xe tăng qua vùng nông thôn nước Đức. Nếu bạn hỏi tôi, tôi thấy việc này thật vô nghĩa. Kiểu chiến tranh này đã kết thúc từ cách đây rất lâu, giống như những tàu chiến Tây Ban Nha cho nổ những cố đại bác tầm xa hay kỵ binh Mỹ cưỡi ngựa làm nhiệm vụ giải cứu vậy. Những ngày này, họ không hề phát biểu ai được cho là kẻ thù, nhưng mọi người đều biết đó là người Nga, điều đó thậm chí còn khiến cho việc này vô lý hơn, bởi vì người Nga được cho là đồng minh của chúng tôi lúc bấy giờ. Nhưng thậm chí là họ có không phải thế đi chăng nữa, thì sự thật đơn giản là giờ đây họ cũng chẳng còn nhiều xe tăng đang hoạt động đến như vậy, và thậm chí nếu họ có bí mật xây dựng hàng ngàn nhà máy ở Siberia với dự định tràn qua châu Âu thì bất cứ đoàn xe tăng nào dâng lên hầu như cũng sẽ phải đối đầu với không lực và đơn vị cơ giới của chúng tôi thay vì bộ binh. Nhưng đó chỉ là những gì tôi biết, đúng chứ? Thời tiết cũng thật tồi tệ, những đợt không khí lạnh điên rồ giận dữ từ cực bắc tràn xuống ngay trước khi cuộc diễn tập bắt đầu. Nó là một thiên anh hùng ca, với tuyết, mưa tuyết, mưa đá và gió giật năm mươi dặm một giờ, làm tôi nghĩ đến đoàn quân của Napoleon trong lần rút lui khỏi Moscow. Lạnh đến mức lông mày tôi bị đóng băng, thở cũng khiến bạn đau đớn và những ngón tay của tôi sẽ dính luôn vào báng súng nếu tôi chẳng may chạm vào. Cái lạnh thiêu đốt chúng tôi như lửa địa ngục vậy tôi đã mất cảm giác ở đầu ngón tay. Nhưng tôi đã quấn kín mặt mình lại và mang găng tay ngay sau đó và chúng tôi hành quân qua lớp băng được hình thành sau trận bão tuyết dài vô tận, cố hết sức để không trở thành những bức phù điêu bằng băng trong khi phải giả vờ là đang chiến đấu với quân thù.
Chúng tôi trải qua mười ngày như thế. Một nửa quân bị tê cóng, nửa còn lại bị hạ thân nhiệt, khi thời gian của buổi diễn tập kết thúc, đơn vị tôi bị giảm quân số xuống còn ba hoặc bốn người, tất cả đều phải nhập viện khi chúng tôi quay lại doanh trại. Bao gồm cả tôi. Tất cả những kinh nghiệm này chỉ là một mớ lố bịch và đây cũng là nhiệm vụ ngu ngốc nhất mà tôi từng phải thực hiện. Và điều đó nói lên điều gì đó, bởi tôi đã làm rất nhiều điều ngu ngốc cho chú Sam và đội Big Red One. Cuối cùng, chỉ huy của chúng tôi bước qua quảng trường, chúc mừng đội chúng tôi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ.Tôi đã muốn nói với ông rằng có lẽ tốt hơn chúng ta nên dành thời gian học về các chiến thuật chiến tranh hiện đại hay ít nhất là hãy bật dự báo thời tiết lên xem. Nhưng thay vào đó tôi chỉ giơ tay chào và xử sự như một sỹ quan quân đội điển hình.
Vài tháng tiếp theo chẳng có sự kiện gì đặc biệt. Chắc chắn, chúng tôi có một lớp học về vũ khí và hàng hải, sau đó tôi lại lang thang trong thị trấn uống bia với vài gã nữa, nhưng phần tuyệt nhất là tôi nâng được hàng tấn, chạy bộ hàng trăm dặm, và đá đít Tom bất cứ khi nào chúng tôi trong vòng đấu loại quyền anh.
Mùa xuân ở Đức không tệ như tôi tưởng sau cái thảm họa của đợt diễn tập. Tuyết tan, hoa nở rộ và không khí dần trở nên ấm áp. À thực ra thì cũng không phải là ấm lắm, nhưng nhiệt độ đã tăng trên mức âm, và thế là quá đủ để chúng tôi cởi bớt vớ ra và chơi ném đĩa hoặc bóng mềm ngoài trời.
Tháng sáu cuối cùng cũng trở lại, tôi mất hết kiên nhẫn và muốn quay trở về Bắc Carolina. Savannah đã tốt nghiệp và cũng đã sẵn sàng cho lớp thạc sỹ học kỳ hè, nên tôi lên kế hoạch đi du lịch đồi Chapel. Chúng tôi sẽ có hai tuần rực rỡ bên nhau thậm chí khi tôi đến thăm cha em cũng lên kế hoạch để đi cùng – và tôi cảm thấy lo lắng, hào hứng và sợ hãi lẫn lộn với cái ý nghĩ rằng chúng tôi có thể ở bên nhau trong những lần trao đổi bằng mail và điện thoại. Vâng, tôi đã ra ngoài ngắm trăng trong đêm trăng tròn đầu tiên, và trong những lá thư em gởi cho tôi em cũng kể là em cũng đã làm vậy. Nhưng tôi đã không nhìn thấy em cả năm rồi và tôi không biết là em sẽ phản ứng thế nào khi chúng tôi gặp lại. Liệu em có lao vào vòng tay của tôi khi tôi xuống máy bay, hay phản ứng của em sẽ chỉ hạn chế ở một nụ hôn nhẹ lên má? Liệu chúng tôi có thể dễ dàng trò chuyện với nhau như trước ngay lập tức, hay chúng tôi sẽ chỉ nói về thời tà cảm thấy thiếu tự nhiên? Tôi không biết, tôi trằn trọc suốt đêm tưởng tượng ra hàng nghìn kịch bản khác nhau. Tony biết tôi đang trải qua điều gì, mặc dù anh biết tốt hơn là kêu gọi sự chú ý về chuyện đó. Thay vào đó, khi thời hạn đến, anh vỗ vỗ lưng tôi.
“Sắp gặp lại cô ấy rồi,” anh nói. “Cậu đã sẵn sàng chưa?”
“Rồi.”
Anh cười mỉm. “Đừng quên mua vài chai tequila trên đường về nhà nhá.”
Tôi làm mặt giận, Tony cười phá lên.
“Sẽ ổn thôi,” anh nói. “Cô ấy yêu cậu, chàng trai ạ. Cũng phải thôi, cậu yêu cô ấy nhiều đến thế mà.”
John Yêu Dấu John Yêu Dấu - Nicholas Sparks John Yêu Dấu