He who lends a book is an idiot. He who returns the book is more of an idiot.

Arabic Proverb

 
 
 
 
 
Tác giả: Nicholas Sparks
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 22
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2404 / 97
Cập nhật: 2017-08-09 10:28:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần 1 - Chương 1
ên tôi là John Tyree. Sinh năm 1977, tôi lớn lên ở Wilmington, Bắc Carolina, một thành phố luôn tự hào về cảng biển lớn nhất tiểu bang cũng như lịch sử lâu đời và sôi động của mình nhưng giờ đây tôi nhớ về thành phố của mình nhiều hơn là những điều ấy. Chắc chắn là, thời tiết ở đây rất tuyệt và những bãi biển thì cực kỳ, nhưng nó không dành cho làn sóng nghỉ hưu Yankee ở phía bắc những người muốn một nơi nào đó với chi phí rẻ để trải qua những năm tháng vàng ngọc của họ. Thành phố tọa lạc một mũi đất tương đối mỏng bao quanh bởi sông Cape Fear và biển. Quốc lộ 17, dẫn đến bãi biển Myrtle và Charleston- cắt ngang thị trấn và là con đường chính. Khi tôi còn là một cậu bé, cha tôi và tôi lái xe từ các khu di tích lịch sử gần sông Cape Fear đến bãi biển Wrightsville chỉ trong mười phút, nhưng giờ đây rất nhiều đèn tín hiệu và các trung tâm mua sắm đã mọc lên và bạn có thể mất đến một giờ với cùng quãng đường ấy, đặc biệt là vào dịp cuối tuần, khi khách du lịch lũ lượt đổ về. Bãi biển Wrightsville, nằm trên một hòn đảo hướng ra bờ biển, là cực bắc của Wilmington và là một trong những bãi biển nổi tiếng nhất tiểu bang. Các nhà cửa dọc theo cồn đắt đỏ một cách lố bịch, và hầu hết chúng được cho thuê trong suốt mùa hè. Những bãi ngầm ở đằng xa trông quyến rũ một cách lãng mạn bởi sự cách biệt cùng với những con ngựa hoang và các chuyến bay Orville và Wilbur ngày nay đã trở nên rất nổi tiếng, nhưng để tôi cho bạn biết điều này, hầu hết những người đến nghỉ ở bãi biển này cảm thấy như ở nhà khi họ có thể tìm thấy một tiệm McDonald's hay Burger King gần đó, trong trường hợp một số ít người không quá ngây thơ tin vào những giá cả ở địa phương, và muốn nhiều hơn một vài sự lựa chọn với các hoạt động buổi tối.
Giống như tất cả các thành phố khác, Wilmington có những khu giàu có và những khu ổ chuột, và bởi vì cha tôi có một chỗ dựa vững chắc nhất, một việc làm - ông lái xe chuyển phát thư từ cho bưu điện - chúng tôi có một cuộc sống rất ổn. Không phải là một cuộc sống tuyệt vời nhưng cũng khá tốt. Chúng tôi không giàu nhưng sống gần những khu giàu có đủ để tôi được học ở một trong những ngôi trường tốt nhất thành phố. Không giống như những ngôi nhà của bạn bè tôi, nhà của chúng tôi khá cũ và nhỏ, một phần cổng đã nghiêng hẳn sang một bên, nhưng phần sân vẫn giữ được vẻ duyên dáng xưa cũ. Một cây sồi lớn sừng sững ở sân sau, và khi tôi lên tám, tôi đã xây một ngôi nhà gỗ từ số gỗ mà tôi nhặt được ở công trường xây dựng. Cha tôi đã không giúp tôi làm những việc này (nếu ông đóng trúng một cái đinh với một cái búa, tôi chắc rằng đó là một kiểu ăn may); đó cũng là mùa hè tôi tự mình học lướt sóng. Tôi nghĩ tôi nên sớm nhận ra rằng mình khác cha đến thế nào, nhưng điều đó chỉ cho thấy những hiểu biết của bạn về cuộc sống ít ỏi như thế nào khi bạn còn là một đứa trẻ.
Cha tôi và tôi khác nhau nhiều như hai con người có thể khác nhau. Ông sống nội tâm và thụ động, tôi lại luôn hiếu động và ghét phải ở một mình; trong khi ông đề cao giá trị của giáo dục, đối với tôi trường học giống như kiểu một câu lạc bộ xã hội với các môn thể thao. Ông có dáng điệu khổ sở và thường lê chân khi bước đi; tôi nhảy tưng từ bênqua bên kia, hỏi ông rằng mất thời gian bao lâu để tôi chạy hết khu nhà này và quay trở lại. Tôi đã cao hơn ông kể từ lúc tôi học lớp tám và có thể thắng ông trong trò vật tay một năm sau đó. Thể tạng của chúng tôi cũng hoàn toàn khác nhau. Trong khi ông có một mái tóc màu cát, đôi mắt màu nâu nhạt, và những vết tàn nhang, tóc và mắt tôi đều màu nâu, làn da màu oliu rám nắng của tôi như sậm màu hơn bởi nắng gió tháng Năm. Sự khác biệt giữa chúng tôi khiến cho những người hàng xóm nghi hoặc, điều đó không phải không có lý, nhưng tôi cho là, xét cho cùng ông đã một mình nuôi dạy tôi. Khi tôi lớn hơn, thỉnh thoảng tôi nghe họ thì thào về sự thật rằng mẹ tôi đã bỏ trốn khi tôi chưa tròn một tuổi. Dù sau đó tôi luôn nghi ngờ mẹ đã có một người đàn ông nào khác, nhưng cha tôi chưa bao giờ xác nhận điều đó. Tất cả những gì ông nói là mẹ nhận ra rằng mẹ đã phạm sai lầm kết hôn khi còn quá trẻ, và rằng bà chưa sẵn sàng để trở thành một người mẹ. Ông không tỏ ra khinh miệt bà nhưng cũng không ca ngợi bà, nhưng ông luôn đảm bảo rằng bà luôn xuất hiện trong mỗi lời cầu nguyện của tôi, dù bà đang ở đâu hay làm gì. “Con làm cho ta nhớ về bà ấy” ông vẫn thường nói như thế. Cho đến tận bây giờ, tôi đã không nói một lời nào với bà ấy cũng như không hề mong muốn thực hiện điều đó.
Tôi nghĩ rằng cha tôi đã thật sự hạnh phúc. Tôi dùng cụm từ này bởi vì cha tôi hiếm khi thể hiện cảm xúc của ông. Những cái ôm và hôn là những cử chỉ hiếm hoi khi tôi lớn hơn, và khi ông làm điều đó, tôi như bị điểm huyệt, ông làm bởi vì ông cảm thấy rằng ông phải làm như vậy chứ không phải vì ông muốn làm như vậy. Tôi biết rằng ông yêu tôi như cái cách ông hy sinh cả cuộc đời mình để chăm sóc tôi, nhưng ông đã bốn mươi ba tuổi khi ông có tôi và một phần trong tôi luôn nghĩ rằng ông thích hợp để trở thành một nhà sư hơn là một bậc cha mẹ. Ông là người đàn ông trầm lặng nhất mà tôi từng biết. Ông chỉ hỏi tôi đôi câu về cuộc sống hiện tại của tôi, ông hiếm khi tỏ ra giận dữ cũng như hiếm khi cười đùa. Ông sống theo một nguyên tắc bất di bất dịch. Ông tráng trứng, làm bánh mỳ nướng và thịt xông khói cho tôi mỗi bữa sáng, lắng nghe tôi thao thao về những việc xảy ra ở trường vào những bữa tối đã được ông chuẩn bị chu đáo. Ông có lịch khám nha sỹ hai tháng một lần, trả những hóa đơn vào sáng thứ bảy, giặt ủi vào chiều chủ nhật, và rời khỏi nhà vào mỗi buổi sáng lúc 7h35’. Ông giao tiếp khá vụng về và trải qua những giờ đằng đẵng một mình mang những gói hàng và giao thư đến từng hộp thư dọc theo lộ trình của ông. Ông không hẹn hò cũng không chơi bài cuối tuần với đám bạn, điện thoại của ông có thể yên lặng hàng tuần. Khi nó vang lên, thường là nhầm số hoặc là những kẻ rao hàng. Tôi biết ông đã phải chịu đựng những khó khăn như thế nào để một mình nuôi lớn tôi, nhưng ông chưa bao giờ phàn nàn kể cả khi tôi làm ông thất vọng.
Tôi thường ở nhà một mình vào buổi tối. Khi nghĩa vụ của một ngày kết thúc, cha tôi trở về căn nhà tồi tàn với những đồng xu của mình. Đó là niềm đam mê lớn nhất đời ông. Ông tỏ ra hài lòng nhất khi ông ngồi trong phòng làm việc, đọc một bản tin về một nhà sưu tập đồng xu với biệt danh Greysheet và cố gắng tìm ra đồng xu tiếp theo trong bộ sưu tập của mình. Thực ra, ông nội tôi mới là người bắt đầu sưu tập tiền xu. Vị anh hùng của ông tôi là một người đàn ông tên là Louis Eliasberg, một nhà tài phiệt người Baltimore là người duy nhất sưu tập đủ tất cả các đồng xu của Hoa Kỳ, bao gồm tất cả những lượt phát hành. Bộ sưu tập của ông có thể sánh với - nếu không muốn nói là còn vượt qua cả bộ sưu tập của bảo tàng Smithsonian, và sau khi bà nội tôi mất vào năm 1951, ông tôi bắt đầu nảy ra ý tưởng xây dựng một bộ sưu tập cùng với con trai. Suốt mùa hè, ông tôi và cha di chuyển bằng tàu hỏa đến những cơ sở đúc tiền để thu thập những đồng tiền phát hành đầu tiên hoặc đến xem những triển lãm tiền xu ở vùng Đông Nam. Trong thời gian ấy, ông và cha tôi đã thiết lập được nhiều mối quan hệ với những người mua bán tiền xu khắp đất nước, và ông đã bỏ ra cả một gia tài để thu thập và bổ sung cho bộ sưu tập của mình. Không giống như Louis Eliasberg, ông tôi không giàu có gì - ông từng sở hữu một cửa hàng bách hóa tại Burgaw đã phải đóng cửa khi những cửa hàng Piggly Wiggly mở rộng hệ thống bán hàng ra khắp thị trấn - và ông đã không bao giờ có cơ hội cạnh tranh với bộ sưu tập của Eliasberg. Tuy vậy, với mỗi đô la kiếm được ông đều dành để trang trải cho thú sưu tập của mình. Ông nội tôi mặc cùng một chiếc áo jacket trong ba mươi năm, cả đời chỉ lái một chiếc xe, và tôi chắc rằng cha tôi phải đi làm ở bưu điện thay vì đi học đại học bởi không có một hào nào dôi ra để trang trải cho việc học. Ông là một người kỳ quặc, chắc chắn là giống với cha tôi. Cha nào con nấy các cụ ngày xưa đã từng bảo thế. Khi ông cụ mất, ông đã mong muốn rằng ngôi nhà sẽ được bán và tiền sẽ được chi vào bộ sưu tập nhiều hơn, và dù sao thì chắc chắn cha tôi cũng sẽ làm điều đó.
Cha tôi đã được thừa kế bộ sưu tập, nó cũng đã khá giá trị rồi. Khi lạm phát lên tới đỉnh và giá vàng chạm ngưỡng 850 đô la một ounce, nó đã trị giá một gia tài nho nhỏ, quá đủ để người cha cần kiệm của tôi nghỉ hưu được vài lần và chắc chắn là còn cao hơn mức giá một phần tư thế kỷ sau đó. Nhưng cũng như ông tôi, cha không bao giờ bán bộ sưu tập đó, nó là chiến tích của một cuộc săn và đồng thời nó cũng là mối dây gắn kết họ. Có những điều thú vị trong những cuộc tìm kiếm dài ngày và khó khăn của từng đồng xu riêng biệt, cuối cùng khi biết được nó đang ở đâu, họ tìm đến thương lượng để mua nó với một mức giá phù hợp. Một vài đồng họ mua được với giá phải chăng, và một vài trong số chúng thì không, tuy nhiên, mỗi một đồng họ tìm được đều là cả một kho báu đối với họ. Cha tôi vọng có thể truyền niềm đam mê đó cho tôi, bao gồm cả những hy sinh mà nó đòi hỏi. Lớn lên, tôi ngủ với những cái chăn đắp thêm vào mùa đông, tôi nhận được một đôi giày mới mỗi năm, không bao giờ có một khoản cho những quần áo của tôi trừ phi chúng đến từ Salvation Army. Cha tôi thậm chí không có lấy một chiếc máy ảnh. Bức ảnh duy nhất của chúng tôi là tại một triển lãm đồng xu ở Atlanta. Một người bán hàng đã chụp nó và gửi cho chúng tôi khi chúng tôi đứng trước gian hàng của ông. Trong nhiều năm nó chiễm chệ ngay trên bàn làm việc của cha tôi. Trong ảnh cha đang khoác vai tôi và chúng tôi đều mỉm cười rạng rỡ. Trong tay tôi là một đồng Buffalo 1926-D mạ kẽm mà cha tôi vừa mua được. Nó là loại hiếm nhất trong tất cả những đồng Buffalo. Chúng tôi đã phải ngừng ăn hot dog và đậu trong một tháng bởi nó đắt hơn là cha tôi mong đợi.
Nhưng dù sao tôi đã không để tâm đến những sự điều mình phải đánh đổi trong một khoảng thời gian. Khi cha tôi bắt đầu nói với tôi về những đồng xu – lúc đó tôi chỉ mới học lớp một hoặc lớp hai – ông đã nói với tôi như một người ngang hàng. Là một người lớn, đặc biệt đó lại là cha của bạn, đối xử với bạn như một người ngang hàng hẳn là một điều tuyệt vời đối với bất kỳ đứa trẻ nào rồi, và tôi cảm thấy được sưởi ấm trong sự chú ý của ông, say sưa bởi những thông tin ông nói. Lúc đó, tôi đã có thể nói cho bạn biết có bao nhiêu đồng Saint-Gaudens được đúc vào năm 1927 so với năm 1924 và tại sao một đồng Barber đúc tại New Orleans năm 1895 lại có giá trị hơn gấp 10 lần so với cùng loại xu đó đúc cùng năm tại Philadelphia. Tôi vẫn có thể, bằng cách này hay cách khác. Tuy vậy, không giống như cha tôi, cuối cùng tôi đã bắt đầu phát triển niềm đam mê của mình vượt ra ngoài thú sưu tập.
Đó dường như là đề tài duy nhất cha tôi nói đến, sáu hoặc bảy năm sau đó, tôi ở với ông vào những ngày cuối tuần thay vì đi chơi với bạn bè, tôi đã muốn ra ngoài. Giống như hầu hết những tên con trai khác, tôi bắt đầu quan tâm đến nhiều thứ hơn: thể thao, những cô gái, xe hơi và âm nhạc, và khi tôi mười bốn tuổi tôi rất ít khi ở nhà. Sự oán hận của tôi bắt đầu gia tăng. Từng chút từng chút một, tôi chú ý nhiều hơn đến sự khác biệt trong lối sống của chúng tôi khi tôi so sánh bản thân với các bạn của mình. Trong khi chúng có nhiều tiền để đi xem phim, phung phí vào những cặp kính mát thời trang, tôi thấy mình đang xoáy tiền ở khu vãng lai để mua một chiếc burger ở McDonald. Nhiều hơn một vài đứa trong đám bạn tôi nhận được một chiếc xe trong sinh nhật thứ mười bảy của chúng, cha tôi tặng tôi một đồng Morgan 1883 bằng bạc được đúc ở thành phố Carson. Lỗ rách trên chiếc ghế cũ mòn của chúng tôi được bọc lại bằng một cái chăn, và biết đến như gia đình duy nhất không có truyền hình cáp hay một chiếc lò vi sóng.
Khi tủ lạnh bị hỏng, ông mua lại một chiếc đã qua sử dụng, đó là chiếc tủ lạnh có màu xanh khủng khiếp nhất thế giới, thứ màu không hợp tông với bất kỳ vật dụng nào trong căn bếp của chúng tôi. Tôi đã rất xấu hổ với cái ý nghĩ nếu có bất kỳ người bạn nào tới nhà tôi, và tôi đổ lỗi cho cha tôi vì điều đó. Tôi biết sẽ tồi thệ thế nào nêu thiếu thốn tiền bạc, nhưng nếu thiếu tiền tôi có thể cắt cỏ hoặc làm những công việc lặt vặt. Tôi đã mù quáng như một con ốc và ngu ngốc như con lạc đà, nhưng thậm chí nếu tôi nói với bạn rằng giờ đây tôi hối tiếc vì sự non nớt của mình, tôi vẫn không thể quay ngược được thời gian.
Cha tôi đã có linh cảm rằng điều gì đó sẽ thay đổi, nhưng ông quá bối rối để biết phải làm gì. Ông đã thử, cách duy nhất mà ông biết, cách làm của một người cha. Ông lại nói về những đồng xu - chủ đề duy nhất mà ông cảm thấy thoải mái để thảo luận – và tiếp tục nấu bữa sáng và bữa tối cho tôi; nhưng sự bất hòa giữa chúng tôi ngày càng trở nên tồi tệ hơn bao giờ hết. Cùng lúc đó, tôi cũng tách khỏi đám bạn của tôi. Chúng đang chia phe, giống như những bộ phim chúng xem hay theo những Sologan trên những chiếc áo thun mới nhất, và tôi thấy mình đứng ngoài tất cả những trò đó. Lờ chúng đi, tôi đã nghĩ thế. Trường trung học, luôn là nơi dành cho tất cả mọi người, tôi bắt đầu mắc phải sai lầm của những người khác, người ta đã không cho tôi thứ gì, tôi cũng sẽ không trao lại bất cứ thứ gì. Tôi bắt đầu trốn tiết, hút thuốc, bị đình chỉ ba lần vì tội đánh nhau.
Rồi tôi bỏ chơi thể thao. Tôi đã từng chơi bóng đá, bóng rổ và chạy bộ tận năm thứ hai trung học, dù thỉnh thoảng cha tôi vẫn hỏi thăm, nhưng ông dường như không thoải mái lắm khi tôi kể chi tiết, bởi vì rõ ràng là ông chẳng biết chút gì về thể thao. Trong đời, ông chưa bao giờ gia nhập bất cứ đội bóng nào. Ông chỉ xuất hiện một lần duy nhất trong một trận bóng rổ của tôi vào năm thứ hai trung học. Ông ngồi trong đám người lổn nhổn, trông như một lão hói kỳ quặc với áo khoác thể thao và vớ ngắn không phù hợp. Dù không bị béo phì, quần ông vẫn bị kẹp cứng ở phần giữa thắt lưng làm cho ông trông như mang thai ba tháng, và tôi biết mình đã muốn lờ ông đi. Tôi quá xấu hổ bởi vẻ bề ngoài của ông, và sau trận đấu, tôi cố tình tránh mặt ông. Tôi không tự hào về điều đó nhưng đó đã từng là con người tôi.
Mọi chuyện ngày càng tồi tệ. Suốt năm cuối trung học, sự chống đối của tôi lên đến đỉnh điểm. Tôi bị đúp hai năm, vì lười biếng và lơ là hơn là vì thiếu thông minh ( tôi thích nghĩ như thế), và nhiều hơn một lần c bắt gặp tôi nồng nặc mùi rượu lẻn ra ngoài giữa đêm. Tôi được cảnh sát hộ tống về nhà sau khi bị bắt ở một bữa tiệc với tang chứng là rượu và ma túy, và khi cha cấm túc tôi, tôi đến ở nhà một người bạn trong vài tuần đến khi cha tôi xin nghỉ phép để ở nhà với tôi. Ông không nói gì khi tôi quay về, thay vào đó là trứng ốp la, bánh mì nướng và thịt xông khói trên bàn vào bữa sáng như thường lệ.
Tôi hiếm khi qua được các môn trong lớp, và tôi ngờ rằng nhà trường đã để tôi tốt nghiệp đơn giản chỉ vì họ muốn tôi nhanh chóng ra khỏi đó. Tôi biết rằng cha tôi cũng lo lắng, và thỉnh thoảng ông rụt rè theo cái cách rất riêng của mình khi đề cập đến việc học lên đại học, nhưng ngay sau đó tôi đã nhanh chóng lờ đi. Tôi muốn một việc làm, một chiếc xe, tôi muốn những thứ vật chất khác. Tôi đã sống mười tám năm không có những thứ đó.
Bằng cách này hay cách khác, tôi đã không nói chuyện với ông cho đến mùa hè sau khi tốt nghiệp, nhưng khi ông nhận ra rằng tôi thậm chí còn không nộp đơn vào bất kỳ trường đại học nào, ông tự nhốt mình trong phòng làm việc đến hết đêm hôm đó và không nói gì với tôi trong cả bữa sáng ngày hôm sau. Chiều muộn ngày hôm ấy, ông cố thử trao đổi với tôi những chủ đề khác, về những đồng xu, như thể đó là mối nối cuối cùng trong mối liên hệ mà bằng cách nào đó đã biến mất giữa chúng tôi.
“ Con còn nhớ cái lần chúng ta đến Atlanta và con là người đầu tiên tìm ra đồng Buffalo mạ kẽm mà chúng ta đã tìm trong nhiều năm không?” Ông gợi chuyện.
“ Cái nơi mà chúng ta đã chụp chung một bức hình ấy? Ta sẽ không bao giờ quên được con đã háo hức đến thế nào. Nó làm ta nhớ đến cha ta và ta.”
Tôi lắc đầu, tất cả nỗi chán ghét với cuộc sống, với cha tôi hiện lên trên mặt. “ Con chán ngấy và mệt mỏi vì phải nghe lải nhải về những đồng xu ấy lắm rồi!” Tôi hét lên với ông.
“ Con không bao giờ muốn nghe nữa! Cha nên bán cái bộ sưu tập chết tiệt của cha và đi làm một thứ gì khác đi. Bất cứ thứ gì.”
Cha tôi không nói một lời nhưng tôi sẽ không bao giờ quên được biểu hiện đau đớn của ông ngày hôm ấy, và cuối cùng ông lê bước quay lại phòng làm việc. Tôi đã làm ông tổn, và mặc dù tôi tự nhủ rằng tôi đã không cố ý làm thế, nhưng trong sâu thẳm tôi biết mình đang lừa dối chính mình. Từ đó trở đi cha tôi hiếm khi nào nhắc lại những chủ đề liên quan tới những đồng xu. Và tôi cũng thế. Nó đã trở thành chủ đề cấm kỵ giữa chúng tôi và chúng tôi cũng chẳng còn gì để nói với nhau. Vài ngày sau đó tôi nhận ra rằng bức ảnh duy nhất của chúng tôi cũng đã biến mất như thể ông tin rằng một dấu hiệu nhỏ nhất về những đồng xu cũng sẽ làm tôi cảm thấy bị xúc phạm. Và lúc đó, rất có thể, giả rằng ông đã ném nó đi, nó đã không làm phiền tôi được nữa.
Lớn hơn, tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc gia nhập quân đội. Mặc cho cái sự thật là phía Đông Bắc Carolina là một trong những khu vực có mật độ đóng quân dày đặc nhất cả nước – có đến bảy căn cứ chỉ trong vài giờ lái xe từ Wilmington – tôi đã từng nghĩ rằng cuộc sống quân ngũ chỉ dành cho những kẻ thua cuộc. Ai lại muốn một cuộc sống chỉ rặt những mệnh lệnh từ những gã để tóc húi cua thích được bợ đỡ chứ? Không phải tôi, và cũng không dành cho những gã ROTC trong trường tôi.
Thay vì, như hầu hết những đứa trẻ giỏi giang đứng đầu lớp trong những trường đại học Bắc Carolina hay phía bắc bang Carolina, những đứa kém giỏi giang bị bỏ lại phía sau, luẩn quẩn trong đám công việc bần tiện này đến đám khác, uống bia, chơi bời, và hết sức tránh bất cứ thứ gì liên quan đến trách nhiệm.
Tôi rơi vào trường hợp thứ hai. Một vài năm sau khi tốt nghiệp, tôi đã làm qua rất nhiều loại công việc, phục vụ bàn ở Outback Steakhouse, xé vé ở một rạp chiếu phim địa phương, xếp hộp ở Staples, làm bánh kếp ở Waffle House, và là thu ngân ở một vài địa điểm du lịch bày bán những thứ vớ vẩn cho khách tham quan. Tôi hoang phí từng đồng kiếm được, không có bất kỳ ảo tưởng nào về tham vọng leo lên chức quản lý, và thường đi tới cái kết cục là bị sa thải trong tất cả việc mà tôi được nhận. Trong một thời gian dài, tôi không quan tâm đến bất kỳ điều gì. Tôi sống cuộc sống của tôi. Lướt sóng thật trễ, trở về nhà và lăn ra ngủ, và bởi vì tôi vẫn còn sống ở nhà, tôi không cần phải chi tiêu cho những khoản thiết yếu như tiền thuê nhà hay thức ăn, tiền bảo hiểm hoặc có bất kỳ sự chuẩn bị nào cho tương lai. Với lại, có đứa nào trong đám bạn của tôi khá hơn tôi đâu.
Tôi không nhớ được lần cuối mình cảm thấy đặc biệt vui vẻ là khi nào nữa, sau một khoảng thời gian tôi trở nên mệt mỏi với cuộc sống của chính mình. Không còn lướt sóng – năm 1996, những con sóng lớn Bertha và Fran đổ bộ vào vùng vịnh, và đó là những con sóng lớn nhất trong nhiều năm trở lại đây – sau cùng tôi lại lao vào các cuộc trác táng ở barroy. Tôi bắt đầu nhận ra rằng đêm nào cũng như đêm nào. Tôi uống bia, chạm mặt những người quen từ thời trung học, và họ hỏi tôi về công việc của tôi, tôi kể cho họ, rồi họ kể cho tôi nghe những việc họ đang làm, và không cần đến một bộ óc thiên tài để biết rằng cả hai chúng tôi đều không biết phải đi về đâu. Mà cho dù họ có một chốn nào đó của riêng họ mà tôi thì không có, tôi cũng không bao giờ tin khi họ kể với tôi rằng họ thích những công việc hiện tại của họ như đào mương, lau chùi cửa sổ hoặc việc chở hàng tại Porta Pott, bởi vì tôi biết chắc rằng không ai trong số họ khi trưởng thành có được công việc mà mình từng mơ ước. Có thể tôi đã lười biếng trong thời gian còn đi học nhưng tôi không ngốc.
Tôi từng hẹn hò với hàng tá phụ nữ trong khoảng thời gian đó. Tại Leroy, ở đó luôn có phụ nữ. Hầu hết là những mối quan hệ chóng vánh. Tôi lợi dụng phụ nữ, cho phép bản thân mình bị lợi dụng và luôn luôn giữ những xúc cảm cho riêng mình. Chỉ duy nhất một lần tôi cặp với một cô nàng tên là Lucy trong vài tháng, và trong cái khoảng thời gian ngắn ngủi trước khi chia tay, tôi nghĩ mình đã yêu cô ta. Cô ta là sinh viên trường UNC Wilmington, lớn hơn tôi một tuổi, và muốn tới New York làm việc sau khi tốt nghiệp.
“Em luôn quan tâm đến anh,” cô ta đã nói như vậy vào cái đêm cuối cùng chúng tôi ở bên nhau, “nhưng cả anh và em đều muốn những thứ khác nữa. Anh có thể làm những điều tốt hơn với cuộc sống của anh, nhưng vì lý do nào đó, anh chỉ đơn giản thả trôi nó”. Cô ta đã do dự trước khi tiếp tục. “ Nhưng hơn cả điều đó, em chưa bao giờ biết rằng anh thực sự cảm thấy thế nào về em.” Tôi biết cô ta đã nói đúng. Sau đó không lâu, cô ta rời khỏi mà không thèm nói lời tạm biệt. Một năm sau, tôi có được số điện thoại từ ba mẹ cô ta, tôi đã gọi và chúng tôi nói chuyện trong hai mươi phút.
Cô ta kể với tôi là cô đã đính hôn với một luật sư, và sẽ tổ chức đám cưới vào tháng sáu tới. Cuộc điện thoại tác động đến tôi nhiều hơn tôi nghĩ. Nó đến vào cái ngày tôi bị sa thải lần nữa và tôi lại đưa chân đến Leroy lúc nào không hay. Cái đám đông những kẻ thua cuộc vẫn còn đó, và rồi đột nhiên tôi nhận ra rằng mình đã muốn trải qua một buổi chiều vô nghĩa khác giả vờ rằng mọi chuyện vẫn ổn. Thay vì thế, tôi mua sáu lốc bia và ra biển ngồi.
Lần đầu tiên trong nhiều năm tôi thật sự nghĩ về những điều mình đã làm trong đời, và tôi tự hỏi liệu mình có nên nghe theo lời khuyên của cha lấy một tấm bằng đại học. Tôi đã rời trường học một thời gian dài, dù thế, cái ý tưởng lạ lùng ấy thật là lố bịch. Không biết nên gọi là may mắn hay xui xẻo, nhưng ngay sau đó hai người lính hải quân thong thả bước tới. Trẻ và khỏe mạnh, họ ra chiều rất tự tin. Nếu họ có thể làm được, tôi nói với mình, tôi cũng có thể làm được.
Tôi nghiền ngẫm điều đó trong vài ngày, và cuối cùng, cha tôi đã khiến tôi có quyết định. Không phải là tôi kể với ông, dĩ nhiên chúng tôi đã không nói chuyện với nhau từ rất lâu rồi. Một đêm tôi bước xuống bếp và thấy ông ngồi bên chiếc bàn của mình như thường lệ. Nhưng chính lúc đó, tôi đã ngắm ông thật kỹ. Ông hầu như đã hói hoàn toàn, vài cọng lơ thơ còn sót lại gần phía tai ông cũng đã bạc trắng. Ông đã gần nghỉ hưu, tôi bị đánh gục bởi cái ý nghĩ rằng tôi đã không phải với ông khi luôn làm ông thất vọng sau tất cả những gì ông làm cho tôi.
Cho nên, tôi đã gia nhập quân đội. Ý nghĩ đầu tiên đến với tôi là tôi sẽ tham gia lực lượng hải quân, bởi vì tôi đã khá quen thuộc với những chàng trai này. Bãi biển Wrightsville luôn đầy lực lượng Jarheads đóng quân từ trại Lejeune hoặc Cherry Point, nhưng khi phải quyết định, tôi lại chọn đầu quân cho quân đội. Tôi nghĩ rằng mình có thể xoay xở khi là một tay súng trường, nhưng lý do thật sự là tôi có thể tưởng tượng rằng lúc những sĩ quan hải quân tập sự ăn trưa thì tôi đang say sóng đứ đừ và không thể có mặt ngay lập tức, trong khi đó những người lính tập sự - họ có trại đóng quân ngay trên phố. Cuối cùng, cái quyết định của tôi mang tính chất tự phát nhiều hơn là một kế hoạch đã cân nhắc kỹ lưỡng, nhưng tôi đã ký bản cam kết phục vụ quân ngũ bốn năm, người tuyển quân vỗ vai và chúc mừng tôi, khi bước ra khỏi cửa, tôi nhận ra mình đang tự chất vấn bản thân rằng liệu mình đang dấn thân vào cái gì. Đó là một ngày cuối năm 1997, tôi vừa tròn hai mươi tuổi.
Khởi động tại trại Fort Benning còn khổ sở hơn là tôi tưởng tượng trước đó. Tất cả mọi thứ dường như được thiết kế để hạ nhục và tẩy não chúng tôi buộc chúng tôi phải tuân theo mọi mệnh lệnh mà không được đặt câu hỏi, mặc cho chúng có ngu ngốc đến thế nào, nhưng tôi thích ứng nhanh hơn nhiều so với những gã khác. Khi đã cân nhắc, tôi quyết định gia nhập bộ binh. Vài tháng sau đó, chúng tôi diễn tập mô phỏng ở những nơi như Louisiana và Fort Bragg, về cơ bản chúng tôi đã học được cách nhanh nhất để giết chết một người và phá hủy mọi thứ, một thời gian sau, đơn vị của tôi, một phần của Sư đoàn Bộ binh- aka the Big Red One- được gửi tới Đức. Tôi không nói được một từ tiếng Đức nào, nhưng cũng chả quan trọng, bởi vì hầu hết mọi người giao tiếp bằng tiếng Anh. Mọi việc khá dễ dàng, và cuộc sống của tôi ở quân ngũ cũng dần dần ổn định. Bảy tháng ở Bankas - trước đây thMacedonia sau này là Kosovo, nơi tôi sống cho đến mùa xuân năm 2000. Sống trong quân đội bạn không phải chi tiêu nhiều, không tiền thuê nhà, không phải chi cho khoản thực phẩm, và thực sự cũng chẳng có thứ gì để tôi phải dùng đến tiền dù tôi có tiền mặt, tôi đã gửi toàn bộ tiền vào ngân hàng từ những tháng đầu tiên. Không nhiều nhưng cũng tạm đủ.
Tôi nghỉ phép lần đầu tiên để đầu óc được thoải mái thoát khỏi sự nhàm chán của cuộc sống quân ngũ.
Lần thứ hai tôi đến Las Vegas. Một người bạn của tôi lớn lên ở đây, và ba chúng tôi lẻn vào nhà ba mẹ cậu ấy. Tôi đã hoang phí khá nhiều những gì mà tôi tiết kiệm được.
Vào lần thứ ba, sau khi quay lại từ Kosovo, tôi đã cảm thấy tuyệt vọng đến mức cần phải nghỉ ngơi một thời gian và đã quyết định quay về nhà, hy vọng sự nhàm chán của chuyến viếng thăm sẽ khiến bản thân bình tĩnh lại. Vì khoảng cách địa lý, cha con tôi hiếm khi nói chuyện điện thoại, nhưng ông đã viết cho tôi khá nhiều thư, chúng luôn được chuyển đến vào ngày đầu tiên của mỗi tháng. Chúng không hề giống như những bức thư mà các bạn của tôi nhận được từ mẹ, em gái và vợ của họ. Không có gì là quá riêng tư, yếu đuối, hay bất cứ một từ nào gợi ý rằng ông nhớ tôi. Ông cũng không đề cập tới những đồng xu. Thay vào đó, ông viết về những thay đổi trong khu phố và rất nhiều về thời tiết, khi tôi kể cho ông nghe về một trận cháy ở Balkans nơi tôi đang đóng quân, ông đã viết lại rằng ông mừng vì tôi còn sống, nhưng không nói thêm gì về điều đó nữa. Tôi biết bằng cách đó ông ngụ ý trong lá thư hồi đáp rằng ông không muốn nghe về những nguy hiểm mà tôi phải trải qua. Sự thật là tôi đã làm ông khiếp sợ, và tôi bắt đầu bỏ qua những thứ đáng sợ đó. Thay vào đó, tôi gửi cho ông những lá thư về việc chấp hành những mệnh lệnh mà không hề có bất kỳ nghi ngờ nào là một thứ công việc nhàm chán nhất từng được phát minh ra và rằng điều duy nhất khiến tôi có hứng thú trong nhiều tuần là việc đoán xem các binh sỹ khác hút bao nhiêu điếu xì gà trong một buổi chiều.
Cha tôi luôn kết thúc mỗi lá thư bằng lời hứa sẽ hồi âm sớm, và một lần nữa, ông lại không khiến tôi thất vọng. Ông là người đàn ông - mà từ lâu tôi đã tin rằng – tốt hơn rất nhiều so với người tôi sẽ trở thành. Nhưng trong ba năm qua tôi cũng đã trưởng thành lên rất nhiều. Vâng, tôi biết tôi đang trưởng thành dần từ một cậu bé thành một người đàn ông. Nhưng mọi binh sỹ đều buộc phải trưởng thành, đặc biệt nếu bạn ở trong bộ binh như tôi. Bạn được giao phó những thiết bị đáng giá cả một gia tài, những người khác đặt niềm tin vào bạn, và nếu bạn phạm lỗi thì hình phạt sẽ khắc nghiệt hơn nhiều việc bị đuổi về giường mà không được ăn bữa tối. Chắc chắn là có nhiều công việc giấy tờ và sự nhàm chán, mọi người hút thuốc và không thể hoàn thành một câu mà thiếu những lời nguyền rủa và có những hộp tạp chí đen dưới gầm giường, và bạn phải trả lời những gã ROTC vừa bước ra khỏi trường đại học, những kẻ nghĩ rằng một tên Grunt như tôi có IQ cùa loài chưa tiến hóa; nhưng bạn buộc phải học được một bài học quan trọng nhất trong đời, sự thật là bạn sống với những trách nhiệm của bạn, và tốt hơn là bạn nên làm đúng. Khi nhận một mệnh lệnh, bạn không thể nói không. Không quá cường diệu khi nói rằng, bạn đang sống trên một đường thẳng. Một quyết định sai, đồng đội của bạn sẽ phải chết. Đó là sự thực nghiệt ngã của quân đội. Thật là một sai lầm lớn khi nhiều người tự hỏi làm thế nào mà một người lính có thể sống như thế ngày này qua ngày khác, làm thế nào họ có thể chiến đấu cho những điều mà thậm chí họ còn không hề tin. Không phải tất cả mọi người đều như vậy. Tôi đã từng làm việc với nhiều binh sỹ thuộc tất cả các phe phái chính trị; tôi cũng đã gặp những người căm ghét quân đội và những kẻ muốn lấy nó làm sự nghiệp của mình. Tôi đã gặp những thiên tài và cả những kẻ ngốc, nhưng khi tất cà chúng tôi nói và làm, chúng tôi làm điều mà chúng tôi cần phải làm vì những người khác. Vì tình đồng chí. Không phải cho đất nước, cũng không phải vì tinh thần ái quốc, cũng không phải chúng tôi được lập trình là một cỗ máy giết người, mà là bởi vì những đồng đội bên cạnh chúng tôi. Bạn chiến đầu vì những người bạn của mình, chiến đấu để họ được sống, và họ chiến đấu vì bạn. Và mọi thứ trong quân đội đều được xây dựng trên tiền đề cơ bản ấy.
Nhưng như tôi nói, tôi đã thay đổi. Khi tôi nhập ngũ tôi nghiện thuốc lá và hầu như đã ho đến bể phổi suốt thời gian đầu, nhưng không như những gã khác trong đơn vị, tôi bỏ thuốc và đã không chạm đến những thứ đó trong hơn hai năm. Tôi kiểm soát cả việc uống bia, chỉ một đến hai vại mỗi tuần và có thể thoải mái nếu không có những thứ đó trong hàng tháng trời. Hồ sơ của tôi rất sạch sẽ. Tôi được thăng chức từ một binh nhì lên hạ sỹ và là trung sỹ sáu tháng sau đó, tôi học được rằng mình có khả năng lãnh đạo. Tôi chỉ huy mọi người trong đám cháy, và đội chúng tôi đã bắt giữ một trong những tội phạm chiến tranh nổi tiếng nhất Balkans. Chỉ huy trực tiếp của tôi tiến cử tôi vào học tại Học Viện Sỹ Quan Dự Bị (OCS), và tôi đã phân vân liệu mình có nên trở thành một sỹ quan hay không, điều đó có nghĩa là làm nhiều công việc bàn giấy hơn, và tôi không chắc là mình muốn. Ngoài lướt sóng, tôi đã không chơi bất kỳ môn thể thao nào trong nhiều năm trước khi tôi tham gia phục vụ quân đội; vào đợt nghỉ phép thứ ba, tôi đã tăng 20 pound cơ bắp chủ yếu từ việc giảm mỡ bụng hầu hết thời gian rảnh của mình chạy bộ, chơi quyền anh và tập thể hình với Tony, một người hướng dẫn đến từ New York người luôn la hét khi nói, người luôn thề rằng tequila là một thứ thuốc kích thích và không bao lâu sau đã trở thành người bạn thân nhất của tôi trong đơn vị. Anh ta chỉ cho tôi cách để có được một hình xăm trên cánh tay giống như anh ta, và với mỗi ngày trôi qua, những ký ức của tôi về cậu bé thời niên thiếu dường như đã rất xa.
Tôi cũng đọc rất nhiều sách. Trong quân đội, bạn có tấy nhiều thời gian để đọc, người ta mượn sách từ thư viện, trả sách rồi lại có người khác mượn cho đến khi bìa sách mòn cả đi. Tôi không muốn gây cho bạn ấn tượng rằng tôi đang dần trở thành một học giả, bởi vì tôi không phải như thế. Tôi không đọc Chaucer, Proust, Dostoevsky hay bất kỳ tác giả cổ điển nào; chủ yếu tôi đọc thể loại truyện kỳ bí, kinh dị, và vài cuốn của Stephen King, Carl Hiaasen cũng là một trong những tác giả mà tôi yêu thích bởi vì câu chữ của ông rất dễ vào đầu và ông luôn làm tôi phải bật cười. Tôi không thể giúp gì nhiều nhưng tôi nghĩ nếu trường học đưa những cuốn sách này vào giảng dạy hẳn sẽ có nhiều người yêu sách hơn trên toàn thế giới.
Không như đám bạn tôi, tôi hết sức tránh những vấn đề liên quan tới những mối quan hệ với phụ nữ. Nghe thật hết sức kỳ quặc, đúng không? Khi một người đàn ông đang trong kỳ sung sức, testosterone đang làm nhiệm vụ của nó – Điều gì có thể tự nhiên hơn khi một người đàn ông tìm kiếm chút buông buông thả với sự giúp đỡ của phái nữ? Nó không dành cho tôi. Mặc dù một vài gã tôi biết đã hẹn hò và thậm chí kết hôn với những phụ nữ địa phương trong thời gian đóng quân ở Wiirzburg, tôi nghe đủ những lời đồn để biết là những cuộc hôn nhân đó hiếm khi suôn sẻ. Nói chung đã là binh sỹ thì rất khó khăn để có được một mối quan hệ lâu bền – tôi đã chứng kiến đủ những vụ ly hôn để biết điều đó – nên tôi sẽ không phí sức để tâm đến bất kỳ một người phụ nữ nào, điều đó sẽ không bao giờ xảy ra. Tony không thể hiểu nổi điều đó.
“ Cậu phải đi với tôi,” hắn nài nỉ. “ Cậu chẳng bao giờ ra ngoài cả”.
“ Tôi không có hứng”.
“ Phải làm thế nào để cậu có hứng chứ? Sabine thề là cô bạn của cô ấy rất dễ thương. Cao, tóc vàng và cô nàng rất thích tequila.”
“ Tôi chắc là Bring Don muốn đi đến chết được.” “ Castelow? Không đời nào. Sabine còn không thể chịu nổi hắn ta”. Tôi không nói
“ Chúng ta hãy đi ra ngoài và vui vẻ một chút”.
Tôi lắc đầu, nghĩ rằng mình muốn ở một mình hơn là trở lại là kẻ trác táng như ngày xưa, nhưng tôi nhận ra mình cũng đang băn khoăn liệu mình có muốn có cái kết cục sống như một nhà sư giống cha tôi không. Biết là không thể làm tôi đổi ý, Tony cò chẳng thèm giấu cái bộ mặt chán ghét của mình khi bước ra khỏi cửa. “ Thỉnh thoảng tôi cũng không hiểu nổi cậu nữa”.
Khi cha đón tôi từ sân bay về, lúc đầu ông còn không nhận ra tôi và gần như đã nhảy dựng lên khi tôi khoác vai ông. Ông trông còn nhỏ bé hơn cả những gì tôi nhớ. Thay vì, trao một cái ôm, ông bắt tay tôi và hỏi tôi về chuyến bay, nhưng không ai trong chúng tôi biết phải nói gì tiếp theo, nên chúng tôi lại thơ thẩn bên ngoài. Tôi có cảm giác kỳ quặc và mất phương hướng khi trở về nhà, như đang đứng trên mép vực, giống hệt lần cuối tôi rời khỏi đây. Trong bãi đậu xe, khi tôi quăng va ly của tôi vào cốp xe, tôi phát hiện ra phía sau chiếc Ford Escort cũ kỹ của ông có dán một hàng chữ SUPPORT OUR TROOPS ( Ủng hộ những binh lính của chúng ta). Tôi đã không chắc cha tôi có ý gì khi dán hàng chữ đó, nhưng tôi vẫn rất vui khi nhìn thấy nó.
Về đến nhà, tôi cất va ly vào căn phòng cũ. Mọi thứ vẫn y như những gì tôi nhớ, ngay phía dưới chiếc kệ đặt những chiếc cúp của tôi và một khoảng trống, một nửa chai Wild Turkey rỗng phía sau ngăn kéo đồ lót. Những thứ còn lại trong nhà cũng không thay đổi gì. Cái chăn vẫn phủ lên lỗ thủng trên ghế, chiếc tủ lạnh màu xanh như đang gào lên rằng nó không thuộc về nơi này, và tivi vẫn chỉ có bốn kênh nhòe nhoẹt. Cha tôi nấu mì spaghetti; thứ sáu luôn là spaghetti. Trong bữa tối chúng tôi đã cố gắng nói chuyện với nhau.
“ Thật tốt khi được về nhà,” Tôi nói.
Ông cười nhẹ “ Tốt”, và đáp lời tôi.
Ông lại uống một ngụm sữa. Trong bữa tối, chúng tôi luôn uống sữa. Ông có vẻ như đang rất chú tâm vào việc ăn tối.
“ Cha còn nhớ Tony không?” Tôi lại mở lời. “ Con nghĩ con đã nhắc đến anh ấy trong thư. Dù sao thì, anh ấy nghĩ là anh ấy đang yêu. Cô ấy tên là Sabine, và cô ấy có một đứa con gái sáu tuổi. Con đã cảnh báo anh ấy đó không phải là một ý kiến hay, nhưng anh ấy không nghe”.
Ông cẩn thận rắc phô mát Parmesan lên đĩa của mình, đảm bảo rằng mỗi thìa đều là một lượng hoàn hảo. “ Ồ,” ông nói. “ Đúng vậy”. Sau đó, tôi cũng ăn và chúng tôi không nói gì thêm. Tôi uống một ít sữa. Ăn thêm một ít. Đồng hồ vẫn tích tắc trên tường.
Chiếc đồng hồ Oparks 22 bảng.
“ Con cược là cha rất phấn khởi khi cuối cùng cũng được nghỉ hưu,” Tôi lại mạo hiểm gợi chuyện.
“ Nghĩ mà xem, cha có thể đi đây đó, mở rộng tầm mắt”. Tôi hầu như đã định nói rằng cha có thể đến Đức thăm tôi, nhưng tôi đã không nói. Tôi biết ông sẽ không đến và không muốn đẩy ông vào tình huống khó xử. Chúng tôi lại cúi xuống và dùng nĩa xoắn những sợi mỳ bởi vì dường như ông đang rất băn khoăn không biết nên trả lời tôi như thế nào.
“ Cha không biết,” cuối cùng ông cũng nói.
Tôi không cố bắt chuyện với ông thêm nữa, và từ đó âm thanh duy nhất trong căn phòng là tiếng nĩa va lanh canh vào những chiếc đĩa. Sau khi ăn tối xong, chúng tôi ai về phòng người nấy. Kiệt sức sau chuyến bay, tôi lăn ra ngủ li bì, mỗi lần thức dậy tôi lại thấy như mình đang ở căn cứ. Buổi sáng tôi đã có thể nhúc nhích đôi chút, cha tôi cũng được nghỉ.
Tôi ăn sáng và đọc báo, cố gắng liên lạc với một người bạn nhưng không thành công, sau đó tôi lôi ván trượt từ garage để xe ra và tập tễnh đi ra biển. Sóng không lớn lắm nhưng cũng chẳng thành vấn đề. Tôi đã không lướt sóng trong ba năm và hơi lóng ngóng lúc đầu, nhưng dù thế những cú lướt cũng khiến tôi ao ước tiến ra xa hơn. Đó là những ngày đầu tiên của tháng Sáu năm 2000, nhiệt độ cũng đã rất nóng rồi và nước khiến người ta có cảm giác rất sảng khoái. Từ tầm nhìn của mình, tôi có thể thấy nhiều người chuyển đồ đạc của họ vào những ngôi nhà trong cồn. Như tôi đã từng nói, bãi biển Wrightsville đầy những khách du lịch cùng gia đình thuê nhà trong một tuần hoặc lâu hơn, nhưng đôi khi những sinh viên đại học ở Chapel Hill hay Raleigh cũng làm thế. Nhóm thứ hai khiến tôi thấy hứng thú, và tôi chú ý đến một nhóm nữ sinh mặc bikini đang chuyển đồ từ boong tàu vào một trong những căn nhà gần bến tàu. Tôi quan sát họ một chút, sau đó bắt một con sóng khác và dành phần còn lại buổi chiều chìm đắm trong cái thế giới bé nhỏ của mình.
Tôi nghĩ đến việc ghé qua Leroy một lát nhưng nghĩ kỹ lại thì không bất cứ ai hay bất cứ điều gì ở đó thay đổi ngoại trừ tôi. Thay vào đó, tôi kiếm một chai bia từ một cửa hàng ở góc đường và tới bến tàu ngắm hoàng hôn. Hầu như những người câu cá đang chuẩn bị về nhà, nhưng một số người vẫn còn nán lại làm sạch lưới và rồi lại ném xuống nước. Lúc này, màu của nước đang chuyển dần từ xám bạc sang vàng cam, rồi sau đó biển như được dát lên một lớp vàng mỏng óng ánh. Ngồi trên bến tàu, tôi có thể nhìn thấy những chú bồ nông cưỡi trên lưng cá heo, tỉ mỉ tìm mồi dưới những con sóng. Tôi biết rằng đêm nay sẽ là đêm trăng tròn đầu tiên – khả năng nhận biết của tôi về thời điểm này gần như là một thứ bản năng. Tôi không nghĩ nhhiều về bất kỳ điều gì nữa, chỉ để cho tâm trí mình lang thang vô định. Hãy tin tôi, việc gặp gỡ một cô gái là điều cuối cùng tôi nghĩ đến bây giờ.
Đó là lúc tôi nhìn thấy em đang thả bộ trên bến tàu. Hay đúng hơn là cả hai người. Một cao, tóc vàng, người kia tóc nâu quyến rũ, cả hai đều trẻ hơn tôi một chút. Nữ sinh đại học, tôi chắc thế. Cả hai đều mặc quần soọc và áo ống, tóc nâu đeo một chiếc tui đan lớn loại người ta hay mang tới bãi biển khi họ có kế hoạch ở lại nhiều giờ cùng với lũ trẻ. Tôi có thể nghe họ nói và cười đùa, nghe có vẻ vô tư và dường như họ đang đi nghỉ.
“Này,” tôi gọi khi họ tiến lại gần. Nghe không êm ái lắm, và tôi không thể nói là tôi mong đợi đuợc hồi đáp.
Tóc vàng đã chứng minh là tôi đúng. Cô lướt qua cái ván trượt và chai bia trong tay tôi rồi lờ tôi đi. Tuy nhiên, tóc nâu, đã khiến tôi bất ngờ. “ Xin chào, người lạ,” cô trả lời với một nụ cười. Cô chỉ chiếc ván trượt của tôi. “ Tôi cá là những con sóng hôm nay rất tuyệt.”
Câu bình luận của cô làm tôi mất cảnh giác, và tôi cảm thấy sự tử tế không chủ ý trong những từ ngữ của cô. Cô và bạn cô tiếp tục đi về phía cuối bến, và tôi nhận ra mình đang nhìn theo khi cô nghiêng người qua tay vịn trên cầu. Tôi tự mâu thuẫn rằng nên hay không nên bước ra và tự giới thiệu, sau đó tôi quyết định là mình sẽ không. Họ không phải tuýp của tôi, hay chính xác hơn tôi không phải là tuýp họ thích. Tôi tu một ngụm lớn, rồi cố gắng lờ họ đi.
Tôi đã cố, dù vậy, tôi không thể ngừng nhìn lén về phía tóc nâu. Tôi cố không nghe những gì hai cô gái đang nói, nhưng tóc vàng có chất giọng mà bạn khó có thể lờ đi
Cô ta đang huyên thuyên về một chàng trai tên là Brad và rằng cô ta yêu anh ấy nhiều đến mức nào, và làm thế nào mà hội nữ sinh của cô ấy lại nổi tiếng nhất UNC, và rằng bữa tiệc họ tổ chức cho sinh viên năm cuối là bữa tiệc tuyệt nhất trong lịch sử, một bữa tiệc khác nên được tổ chức vào năm tới, rồi có quá nhiều những người bạn của cô ta đang mồi chài những gã khốn, và một trong số họ thậm chí đã dính bầu, nhưng đó hoàn toàn là lỗi của cô ta bởi cô ta đã lờ đi tất cả những lời cảnh báo. Tóc nâu không nói gì nhiều – tôi không thể nói là cô ấy cảm thấy hứng thú hay chán ngán cuộc đối thoại này – nhưng bây giờ hay sau đó thì cô ấy cũng sẽ mỉm cười. Một lần nữa, tôi nhận thấy sự thân thiện và cảm thông trong giọng nói của cô ấy, điều gì đó rất thân thuộc như là được trở về nhà, tôi biết điều này nghe thật vô lý. Tôi gạt chai bia sang một bên và nhận thấy cô ấy đang đặt chiếc túi lên tay vịn trên thành cầu.
Họ đã đứng đó trong khoảng mười phút trước khi có hai gã tiến đến - những “gã khốn”, tôi đoán thế - một gã mặc áo hồng, gã kia mặc áo cam Lacoste và quần soọc Bermuda. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là một trong hai gã này hẳn là Brad, cái gã mà tóc vàng nói lúc nãy. Cả hai đều mang theo bia, và rón rén lại gần, chắc họ muốn những cô nàng bất ngờ. Nhiều hơn là những gì hai cô nàng mong đợi, sau một tiếng hù bất thình lình vang lên sẽ là một tiếng hét thất thanh và một tràng những cái đấm yêu vào cánh tay, rồi sẽ họ đi cùng nhau, cười phá lên hay là cười rúc rích hoặc làm bất kỳ điều gì những cặp sinh viên đại học vẫn thường làm.
Những chàng trai đã làm giống y như những điều tôi nghĩ. Ngay khi họ đến gần, họ nhảy xổ về phía hai cô gái rồi la lên một tiếng, cả hai cô nàng đều hét tướng lên và đấm thùm thụp vào lưng các chàng trai. Những chàng trai gào lên phản đối, và áo hồng làm sánh một ít bia ra ngoài. Gã nghiêng người về phía tay vịn, gần cái túi, một chân bắt chéo qua chân kia, và dựa tay về phía sau.
“ Này, tụi anh sắp đốt lửa trong vài phút nữa,” áo cam nói, vòng tay qua người tóc vàng. Hôn lên cổ cô. “ Hai người sẵn sàng quay lại chưa?” “ Bạn xong chưa?” Tóc vàng hỏi nhìn qua bạn cô. “ Chắc rồi,” tóc nâu trả lời.
Áo hồng quay người ra sau phía tay vịn, nhưng bằng cách nào đó tay anh ấy thúc phải cái túi, nó trượt xuống, rồi sau đó chậm lại khi ở mép tay vịn. Hệt như một màn trình diễn gay cấn.
“ Cái gì thế?” anh ta hỏi và quay người
“ Túi của em!” Tóc nâu vô cùng kinh ngạc. “ Anh đã làm rơi nó.” “ Xin lỗi em,” anh ta nói, nghe chẳng có vẻ gì là thực sự biết lỗi. “ Ví của em ở trong đó!”
Anh ta cau mày. “ Anh đã nói xin lỗi rồi mà.” “ Anh phải lấy nó cho em trước khi nó chìm!”
Hai gã dường như đông cứng lại, và tôi biết không ai trong số bọn họ có ý định nhảy xuống vớt nó lên. Một điều chắc chắn là họ sẽ không bao giờ tìm thấy nó, và sau đó họ sẽ phải tìm mọi cách để bơi vào bờ, điều mà họ không nên làm sau khi đã uống nhiều bia như thế. Tôi nghĩ tóc nâu đã đọc thấy biểu hiện trên mặt áo hồng, bởi vì tôi nhìn thấy cô đặt hai tay trên tay vịn và chuẩn bị leo lên. “ Đừng có ngốc. Nó chìm hẳn rồi,” áo hồng tuyên bố chặn tay lên tay cô để ngăn cô lại. “ Đừng nhảy nguy hiểm lắm. Dưới đó có thể có cá mập. Chỉ là một cái ví thôi mà. Anh sẽ mua cho em một cái mới.”
“ Em cần cái đó. Em để toàn bộ tiền của em trong đó!”
Đó không phải là việc của tôi, tôi biết. Nhưng tất cả những gì tôi có thể nghĩ khi tôi bật dậy và lao lên mép cầu là,
Ôi, quỷ tha ma bắt…
John Yêu Dấu John Yêu Dấu - Nicholas Sparks John Yêu Dấu