Phần thưởng cho sự chịu đựng gian khổ chính là những kinh nghiệm bạn thu được.

Aeschylus

 
 
 
 
 
Tác giả: Homer
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 55
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 5786 / 214
Cập nhật: 2017-08-04 07:53:37 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Khái Lược Về Tác Giả Homer Và Trường Ca Odyssey
ến bây giờ lúc tôi viết những dòng này giới thiệu trường ca thứ hai của Homer với độc giả xa gần vẫn chưa ai biết Iliad và Odyssêy sáng tác bao giờ trong khi trải qua ba ngàn năm hai thi phẩm đã và vẫn chiếm chỗ ngồi đặc biệt, đặc đẳng trên thi đàn quốc tế, cả Đông phương lẫn Tây phương không ngớt lời ca ngợi. Học giới Tây Âu sáu trăm năm qua thay nhau đưa ra giả thuyết nhằm giải quyết nan đề văn học, song cố gắng đến mấy hầu như chưa có giả thuyết nào có thể giải đáp dứt khoát. Dẫu thế học giới ở đó đồng ý chấp nhận hai thi phẩm xuất hiện khoảng gần ngàn năm trước công nguyên, Iliad trước Odyssêy sau. Từ khi dân tộc Hy-lạp có lịch sử hẳn hoi, trong sinh hoạt cộng đồng trên đất liền, trên đảo mạn tây, trên đảo rải rác trong biển Aegean, trong thị xã, trong thành phố dọc bờ biển Tiểu Á, người ta thường tổ chức diễn xuất, ngâm vịnh hai thi phẩm. Suốt thời gian văn minh Hy-lạp phát triển, hai thi phẩm là chất liệu chủ yếu trong việc giáo dục thiếu niên, trong việc giải trí đối với quần chúng. Hai thi phẩm đã ảnh hưởng sâu rộng tinh thần, tình cảm dân tộc đó. Tuy thế bên ngoài hiểu biết về tác giả rất thô sơ, nhất là bối cảnh đưa ông lên tầm vóc vĩ đại, vượt thời gian, vượt không gian. Nhìn chung trong lịch sử nhân loại, về mặt văn hóa tư tưởng, người sáng lập quả thực đếm trên đầu ngón tay. Họ là bóng mờ đứng ở khởi điểm kỷ nguyên họ sáng tạo. Tiếp cận chán chê tới khi thấu hiểu tầm nhìn thâm trầm, nhận thức siêu việt, tư tưởng khai phóng hậu thế mới quay ra tìm hiểu con người. Lúc đó họ đã biến dạng vào cõi hư vô, kín đáo ẩn mình đằng sau tác phẩm vô tiền khoáng hậu.
Mặt khác vấn đề Odyssêy viết bao giờ, ai là tác giả không đơn giản để có thể giải thích ngắn gọn, dễ dàng. Tác phẩm kiệt xuất như sông lớn bắt nguồn từ nhiều sông nhỏ, suối nhỏ tản mạn khắp nơi. Dù có khả năng sáng tạo phong phú đến mấy người sáng tạo thế nào cũng sử dụng ít nhiều chất liệu có sẵn. Khi viết kịch diễn cho khán giả Luân-đôn thưởng lãm Shakespeare ít sáng tạo cốt truyện. Ông lấy nhân vật, cảnh trí, đối thoại từ truyện ký, lịch sử đã xuất hiện và còn lưu truyền. Có khi ông sửa lại kịch cũ truyền tụng trong xã hội. Có khi chiều theo thị hiếu đương thời ông tân trang, đổi mới ngay cả kịch phẩm mình đã viết. Như vậy, theo nghĩa nào đó, tác phẩm chẳng thể hoàn toàn do một người sáng tạo và tác phẩm cũng chẳng thể tránh khỏi tình trạng tu chính do tác động từ bên ngoài. Hơn thế vào thời kỳ sống theo truyền thống, coi nhẹ khả năng sáng tạo cá nhân, nội dung thi phẩm mang dấu vết nhiều tâm hồn. Odyssêy chứa đựng hàng đống lịch sử, dã sử, truyền thuyết, huyền thoại, phổ hệ, quan niệm, tập quán, lối sống - tất cả đòi hỏi hàng thế kỷ mới phát triển tới mức độ sung mãn. Thi phẩm là bức tranh tóm lược hình ảnh nền văn minh cùng ước mơ, thành tích, sáng tạo màu sắc khác biệt của nền văn minh đó.
Thi tập nói đến cuộc chiến thành Troa, thế kỷ vừa qua nghĩ cuộc chiến đó là huyền thoại, nhưng do khám phá khi làm công việc khảo cổ, sau khi khai quật thành phố chìm sâu dưới đất, Heinrich Schliemann đã chứng minh di tích có thực trong lịch sử. Sự cố nhắc tới như sau: Pâris, con Priam, quân vương thành Troa, quyến rũ Helen, vợ Menelaos quân vương Lakedaimon, mang về thành Troa. Theo lời kêu gọi của anh, Agamemnon, quân vương Argos và Mycenae, quân vương Hy-lạp và hải đảo lân cận dấy binh cùng nhau thực hiện cuộc viễn chinh nhằm đòi lại giai nhân. Thành Troa cũng dấy binh, đồng thời kêu gọi đồng minh trợ giúp, đương cự cuộc bao vây kéo dài mười năm. Sau khi đổ bộ trót lọt, bên Hy-lạp dàn quân dọc bờ biển. Cùng thời gian bên thành Troa huy động nhân dân canh phòng cẩn mật, quyết tâm chống trả không cho địch quân tràn vào cướp phá, sát hại. Giữa doanh trại và thành phố có cánh đồng bao la ngăn cách, song nơi này là chiến địa hai bên liên tục đâm chém lẫn nhau. Cuối cùng thù nghịch và bệnh dịch xuất hiện trong doanh trại quân Hy-lạp. Tiếp theo là hàng loạt đụng độ đẫm máu Homer miêu tả trong Iliad. Cảm thấy tuyệt vọng vì không thể dùng vũ lực đánh chiếm thành phố, quân Hy-lạp sử dụng mưu thuật: chèo thuyền ra khơi làm như rút lui, song bỏ lại trên bờ ngựa gỗ khổng lồ trong bụng giấu Menelaos cùng nhóm quyết tử. Tưởng thật quân Troian ngây thơ kéo chiến phẩm vào thành. Ban đêm quân nằm mai phục trong bụng ngựa gỗ bò ra mở cổng thành cho đồng đội từ ngoài biển vừa quay lại tràn vào cướp phá thành phố giàu có. Mục đích cuộc viễn chinh hoàn tất, thủ lĩnh các đoàn quân chia nhau chiến phẩm, sau đó tập trung hải thuyền dong buồm hồi hương sum họp với gia đình.
Mọi người trở về an toàn, trừ một, so với tất cả đồng đội, ra đi xa nhất, trở về lâu nhất, vì từ nhà đến chiến trường và ngược lại từ chiến trường về nhà, đường dài nhất. Trong số người gan dạ núp trong bụng ngựa gỗ có Odysseus, sau này người La-mã và người theo La-mã gọi là Ulysses, quân vương hải đảo Ithaka mạn tây Hy-lạp. Mười năm trước lúc ra đi tham dự viễn chinh quân vương để vợ trẻ Penelope và con nhỏ Telemachos ở lại hải đảo. Mười năm sau vẫn xa vợ dại con thơ, quân vương lang thang vô định trên biển cả, lạc vào hết đảo này đến đảo nọ, vì xúc phạm hải thần Poseidon. Nửa thời gian đó trôi qua, quân vương vẫn chưa trở về. Tin đồn lan rộng, tin nói quân vương không còn nữa, Penelope buộc phải lấy chồng. Trong lúc vương chủ vắng mặt, hoàng tử là thiếu niên nhỏ dại, hoàng hậu là phụ nữ nhan sắc, hải đảo hẻo lánh rơi vào tình trạng hỗn quân hỗn quan. Hoàng thân vương quốc và thủ lĩnh hải đảo kế cận kéo tới cung điện, số lượng vài trăm. Lấy cớ muốn tính chuyện trăm năm với hoàng hậu xinh đẹp, ngỏ ý cầu hôn, họ ở lì làm như ở nhà, ban ngày chè chén ăn hại gia chủ, ban đêm hú hí với kẻ hầu người hạ. Bất lực trước cảnh hỗn loạn, xấc xược, đành bó tay, song Penelope vững tin Odysseus không chết mà lưu lạc, lang thang đâu đó. Muốn bảo vệ phẩm giá, đồng thời thủ tiết trung trinh, nàng nhất định không bước đi bước nữa. Tránh né hôn nhân ép buộc, đơn độc trước đám nam tử thô bạo, sử dụng tài trí người chân yếu tay mềm, nàng âm thầm đương cự sức mạnh rùng rợn.
Bởi thế về hình thức Odyssêy là một, song về nội dung Odyssêy gồm hai chuyện: chuyện người vợ thủy chung trải qua năm tháng hãi hùng vẫn kiên nhẫn chờ chồng và chuyện người chồng đảm lược mặc dù bị tha nhân, thần linh, thiên nhiên vùi dập, thắng vượt tất cả, nhờ tinh khôn, nhẫn nại, kiên trì, trong nguy nan không thối trí, đơn độc mở đường khai lối, vượt khó thoát hiểm, một mình chống chọi nghịch cảnh, nhưng để tai lắng nghe tiếng nói sáng suốt, tư tưởng thâm trầm, nhờ thế trở về với vợ con, lấy lại vương quốc. Chủ đề của Odyssêy là tinh thần chế ngự hoàn cảnh, chủ đề ăn sâu cắm rễ trong lòng dân tộc Hy-lạp, Homer liên tục nhấn mạnh qua mấy phẩm từ nổi trội gắn liền với ba nhân vật chủ chốt: Odysseus khôn khéo, Penelope kín đáo, Telemachos thận trọng. Về hình thức thi phẩm là chuyện phiêu lưu, kết hợp tài tình giản dị với phong phú, thực tế với tưởng tượng, hữu hình với vô hình, thần linh với thế nhân, ảnh hưởng sâu đậm văn hóa, văn minh Tây phương hơn bất kể sáng tác văn chương nào từ trước tới giờ.
Thi phẩm chia thành hai phần tương phản rõ rệt về đề tài, phương thức và diễn biến. Mười hai khúc phần trên kể cảm nghĩ của Odysseus trên đường trở về - lênh đênh trên biển cả, lạc vào đất liền trong đó cư dân không phải người Hy-lạp, vùng đất mà mọi sự kỳ diệu đều xảy ra dễ dàng, nơi thần linh, sinh vật nửa người nửa ngợm, hồn ma người chết xuất hiện bình thường. Trong phần đầu, trang nối trang, chuyện đầy biến sự. Biến sự hiện thực khiến Odyssêy hấp dẫn. Mỗi khúc hấp dẫn một khác. Độc giả ưa rành mạch muốn tìm biến sự độc lập sẽ thấy phần này lôi cuốn lạ kỳ. Mười hai khúc phần dưới kể sự kiện Odysseus lấy lại vương quốc, biến sự diễn ra trên đất liền, trong nhà, giữa tập quán quen thuộc trong đó cái kỳ diệu hầu như biến dạng. Phần này đụng độ không diễn ra với thần linh, thiên nhiên mà diễn ra với tha nhân độc ác.
Nằm trong hai phần rộng lớn các khúc xếp theo bốn nhóm, mỗi nhóm mang đề tài riêng biệt, song góp phần vào tình tiết tổng quát. Tình tiết diễn ra nhiều lớp, kết hợp chặt chẽ, sắp xếp khít khao khiến khán giả chú ý. Tình tiết bắt đầu với việc mô tả tình huống trên trời và trên đảo Ithaka. Bây giờ là năm thứ hai mươi kể từ ngày Odysseus xa gia đình, năm thứ mười kể từ lúc Odysseus lên thuyền rời thành Troa trở về quê hương. Ba năm ròng rã trên đường trở về Odysseus không về được vì Poseidon thịnh nộ bắt lênh đênh trên biển. Bảy năm tiếp theo trôi dạt tới đảo Ogygia, Odysseus bị yêu mỵ Calypso, do ham tài hiếu sắc muốn khách lạ trở thành người yêu muôn thuở, giữ ghịt không cho ra đi. Cuối cùng (Khúc 1) nữ thần Athena lên tiếng phản đối tại sao để thần linh hành hạ, đồng thời yêu cầu Chúa tể phái sứ giả Hermes giáng thế gặp Calypso truyền lệnh buông tha thế nhân khôn ngoan, đĩnh đạc. Cùng lúc Athena cải trang tới Ithaka khuyến khích Telemachos bây giờ đã khôn lớn xác định vị thế trong vương quốc, tỏ rõ thái độ với đám cầu hôn. Trong buổi họp trước mặt dân chúng (Khúc 2) Telemachos yêu cầu đám này ra về đừng đóng đô ở nhà mình nữa, và yêu cầu họ vui lòng cho chiếc thuyền để ra đi tìm thân phụ. Họ cười khẩy từ chối. Nhưng nhờ Athena trợ giúp nên có thuyền và tay chèo Telemachos thực hiện điều mong muốn: dong buồm tới Pylos. Đến nơi nghe lão vương Nestor kể (Khúc 3) gặp bố lênh đênh trên sóng nước hầu như vô định Telemachos càng muốn tìm cho ra. Có Peisistratos con Nestor ngỏ ý đi cùng, Telemachos âm thầm lên thuyền rời bến. Tới thành phố Lakedaimon hai thanh niên trực chỉ cung điện Menelaos và Helen. Mới trở về có hai năm (Khúc 4), chuyện còn nóng hổi, Menelaos kể mình đã lang thang như thế nào. Gặp Proteus, Ông già Biển cả, trên bờ đảo Pharos ‘phía trước Ai-cập’ bèn nắm chặt, Menelaos năn nỉ hải thần thay hình đổi dạng liên miên kể cho hay Odysseus cùng thủ lĩnh, chỉ huy Hy-lạp tham dự cuộc chiến thành Troa bây giờ ra sao. Proteus kể Odysseus hiện giờ bị giam trên đảo Ogygia trong khi đám cầu hôn ở Ithaka rủ nhau mai phục hạ sát Telemachos trên đường trở về. Độc giả vừa biết tình hình trên đảo Ithaka cảnh chuyển sang Ogygia (Khúc 5). Thần linh họp lần thứ nhì. Hermes mang lệnh trao Calypso, nữ thần yêu mị miễn cưỡng trả tự do cho khách lạ. Odysseus đóng thuyền ra khơi, nhưng sau mười tám ngày gặp trắc trở. Nhìn thấy dập dềnh trên mặt biển, Poseidon do thù ghét bèn nổi sóng sát hại, thuyền dập nát trôi dạt vào đảo Phaiakia. Mệt đừ, trần như nhộng, gắng sức bơi vào cửa sông, lóp ngóp bò tới khu rừng cây cối um tùm, Odysseus thiếp ngủ. Đất này là đất quân vương Alkinoos (Khúc 6). Làm theo giấc mơ đêm trước ái nữ Nausikaa xin thân phụ cho phép cùng tỳ nữ ra sông giặt quần áo. Lúi húi hết vò lại giũ rồi nô giỡn công chúa và tỳ nữ nói cười vui vẻ. Nghe tiếng người Odysseus giật mình tỉnh giấc. Nhỏm dậy thấy bóng phụ nữ, Odysseus vội vơ lá khô che thân. Lại gần xem khách lạ là ai, Nausikaa cất tiếng hỏi tông tích, Odysseus đáp từng lời, song không nói tên mình. Dẫu thế Nausikaa vẫn hứa sẽ giúp đỡ. Trong lúc cất bước về thành phố nàng dặn khách lạ nên gặp thân mẫu Arete trình bày sự việc. Nhìn cung điện nguy nga, ngự uyển ngoạn mục, lòng dạ ngây ngất (Khúc 7), Odysseus vào yết kiến hoàng hậu. Bà điềm đạm lắng nghe Odysseus kể chuyện đắm tàu. Triều đình họp (Khúc 8) quyết định giúp đỡ để Odysseus ra đi, sau đó tổ chức thể thao tranh tài. Odysseus biểu lộ sức khỏe phi thường. Nhưng khi dạ yến bắt đầu, nhất là lúc thi sĩ ca công nâng đàn ca hát kể chuyện cuộc chiến thành Troa, không sao cầm nổi nước mắt, Odysseus đành nói thực tên mình, mọi người hồi hộp yêu cầu kể chuyện phiêu bạt trên biển cả.
Sử dụng phương thức kín đáo như thế Homer khiến thi tập thêm vẻ hào hứng, đồng thời ngắt chuyện trở về dài dòng thành hai phần. Độc giả (ngày xưa là khán giả) sẽ nghe phần hai trước, từ đảo Ogygia tới đảo Phaiakia. Phần này diễn ra cụ thể. Nhưng phần một, từ thành Troa tới đảo Ogygia, độc giả chỉ nghe gián tiếp. Thuật lại hải trình ngoằn ngoèo, vòng vo Odysseus kể chuyện lữ khách lang thang, chuyện kéo dài bốn khúc hấp dẫn lạ kỳ. Chuyện bắt đầu (Khúc 9) lúc rời thành Troa. Odysseus cướp phá thành phố của người Kikon, viếng thăm người ăn hạt sen, lạc vào động dã nhân độc nhãn Polyphemos; tay chèo (Khúc 10) tò mò mở túi tìm vàng, gió lành phong thần Aiolos giữ kín bên trong cất cánh bay đi. Tai họa ập đến. Người Laistrygon tấn công, tất cả chết chìm, trừ một thuyền thoát hiểm theo sóng tới đảo yêu phụ Circe. Đến đây nhiều biến sự kỳ lạ tiếp tục diễn ra. Yêu phụ Circe khuyên Odysseus nên xuống suối vàng cõi âm phủ xứ sở người quá cố tìm Teiresias, thầy đoán sẽ chỉ đường cho hay. Đi xuống vùng âm u, giá lạnh (Khúc 11), phía bên kia sông Đại Dương, Odysseus lần lượt gặp tay chèo dưới quyền, thân mẫu, phu nhân và ái nữ người nổi tiếng lừng danh, đồng đội ngày trước từng tham dự cuộc chiến thành Troa, anh hùng huyền thoại xa xưa và Teiresias, thầy đoán khuyên chớ làm điều bất chính. Trở về đảo dưới quyền yêu phụ Circe (Khúc 12), nhận đồ tiếp liệu và lời chỉ dẫn, Odysseus lại lên đường, băng qua hải đảo trên đó yêu nữ Seirên đang cất tiếng hát bài ca ngây ngất không gặp trắc trở, song đến hang ngầm Skylla mất sáu tay chèo, cuối cùng táp vào cô đảo trên đó nhan nhản gia súc của thần linh Mặt Trời tung tăng gặm cỏ. Bất chấp lời thầy đoán Teiresias căn dặn, vì đói tay chèo giết bò ăn thịt. Trừng trị đám người phạm tội bất chính, Chúa tể nổi phong ba vùi dập chiếc thuyền, tất cả chết chìm, trừ Odysseus sống sót nhờ bám chặt sống thuyền mặc dù bị xoáy nước Charybdis cuốn hút như muốn nuốt chửng. Sau mười ngày lênh đênh Odysseus tới đảo nữ thần yêu mị Calypso độc giả đã gặp đầu Khúc 5.
Phần hai diễn tiến tuần tự. Vẻ kỳ diệu của biển cả vẫn tràn ngập phần đầu Khúc 13. Nghe Odysseus kể chuyện lang bạt kỳ hồ người Phaiakian thích thú khôn xiết. Vì thế không những cho vô số phẩm vật để lên đường họ còn tặng chiếc thuyền kỳ diệu chỉ một đêm dong buồm lèo lái đã tới hải phận Ithaka. Quyết định trừng trị lần cuối và lần chót Poseidon nổi sóng nhận chìm lúc chiếc thuyền đang trên đường tới đảo Scheria. Athena xuất hiện dặn dò Odysseus dự trữ vật dụng cần thiết, cùng lúc cho hay thế nào Odysseus cũng chạm trán đám cầu hôn. Trong khi bàn tính kế hoạch nữ thần khuyến khích Odysseus nên tạm trú trong nhà Eumaios, nô bộc chăn heo trung thành vẫn hằng tưởng nhớ. Tránh không để lộ hình dạng nữ thần biến Odysseus thành ăn mày già nua, quần áo tả tơi. Đến nhà Eumaios (Khúc 14) ăn mày được tiếp đón niềm nở, phục dịch chu đáo. Lúc dùng bữa vui miệng ăn mày kể hết phiêu lưu này đến phiêu lưu khác, hoàn toàn tưởng tượng, trong khi phiêu bạt trên đất lạ có nghe người ta nói về Odysseus, bởi thế theo ăn mày nghĩ sớm muộn Odysseus sẽ trở về. Ban đêm trong lúc hai người nằm chờ giấc, muốn đề cao tô thắm bản thân, ăn mày kể chuyện cuộc chiến thành Troa. Thời gian đó, do Athena hướng dẫn, Telemachos (Khúc 15) tạm biệt Menelaos xuống thuyền ở Pylos. Ra đi bình an Telemachos thoát phục kích đám cầu hôn bố trí. Nhưng thay vì trở về cung điện, Telemachos lần đường tới nhà Eumaios. Nô bộc tiếp đón trịnh trọng (Khúc 16). Telemachos phái nô bộc ra thành phố gặp Penelope nói cho mẹ hay Telemachos đã trở về. Lúc chỉ còn một mình chuyện trò với ăn mày cao niên Telemachos kể nông nỗi cực khổ, nhục nhã bản thân và mẹ đẻ phải gánh chịu trong cung điện. Qua kỳ tài Athena lại biến ăn mày thành quân vương, Odysseus hé lộ cho con hay con người thực sự của mình. Hai bố con bàn kế tống cổ đám cầu hôn. Tới cung điện trao mật tin thấy đám cầu hôn vẫn ở đó sau khi phục kích không thành, Eumaios lẳng lặng về nhà.
Tình tiết số khúc tiếp theo diễn biến từ từ, động tác vì thế trì trệ, để khán giả thuở đó chứng kiến cảnh Odysseus âm thầm chịu đựng uất ức ngay trong nhà mình, mặt khác để khán giả mục kích cảnh đám cầu hôn ngạo mạn, qua quá trình sửa soạn, sẽ hả hê chấp nhận màn trả thù đẫm máu sắp diễn ra. Sáng sớm tinh mơ Telemachos (Khúc 17) lên đường về thành phố kể lại cho Penelope hay Menelaos đã nói gì về Odysseus. Trên thuyền tới Ithaka, thầy đoán Theoklymenos cũng khẳng định Odysseus đã đặt chân lên đất liền. Penelope không tin. Lại là ăn mày trên đường tới cung điện do Eumaios dẫn đường Odysseus bị nô bộc chăn dê Melanthios hạ nhục. Tới sân trước Odysseus gặp Argos da bọc xương bị bỏ đói. Chó già nhận ra chủ nhân trước khi gục chết quẫy đuôi, mở mắt trố nhìn. Bước vào đại sảnh Odysseus chìa tay xin đồ bố thí. Thoạt đầu có người cho, sau đó không ai cho, nhất là lúc Antinoos dáng vẻ trịch thượng, tên cầu hôn cao ngạo, cầm ghế ném vừa xua đuổi vừa thóa mạ. Từ tư phòng nghe tiếng có người bị hành hung, bất bình hết sức, Penelope sai Eumaios xuống xem người đó là ai dẫn lên gặp mặt. Mặc dù tuyên bố có nghe tin Odysseus, song ăn mày không lên ngay, mà trì hoãn tới tối mới bệ kiến. Đang ngồi gần ngưỡng cửa ăn xin (Khúc 18) Odysseus thấy Iros, ăn mày thực thụ xuất hiện. Tức giận vì bị chiếm chỗ, lại nghe đám cầu hôn vui vẻ chào đón, ăn mày đặc quyền bấy lâu bèn thách thức Odysseus tỉ thí. Giơ tay đấm một cú đối thủ ngã quay lơ Odysseus kéo ra ngoài sân, cùng lúc dằn mặt Amphinomos huênh hoang lớn tiếng bênh vực nên lánh xa kẻo tai họa xảy ra đến nơi. Đứng trước cửa phòng, sắc đẹp lộng lẫy, Penelope nói cho tất cả cùng hay nương nương sắp quyết định chọn một trong số những kẻ cầu hôn chầu chực bấy lâu và đón nhận của hồi môn. Odysseus lại bị nhục mạ, lần này do nữ tỳ Melantho và kẻ cầu hôn Eurymachos. Đêm xuống đám cầu hôn ra về. Lúc chỉ còn hai cha con, Odysseus bảo Telemachos (Khúc 19) mang hết vũ khí để trong đại sảnh vào kho chứa đồ. Sau đó Telemachos về phòng nằm chờ giấc. Penelope cùng tỳ nữ xuống phòng dưới nhà gặp ăn mày. Trả lời câu nương nương hỏi ăn mày thác lời kể chuyện đã nom thấy Odysseus trên đảo Krete, song do miêu tả cụ thể, tỉ mỉ khiến nương nương xúc động ứa nước mắt. Ăn mày khẳng định cuối năm Odysseus sẽ trở về. Nương nương bảo ăn mày nên đi tắm rửa cho sạch sẽ, lên giường nghỉ lại qua đêm, vú già Eurykleia sẽ cọ giùm cặp chân dơ bẩn. Đầu gối có sẹo do vết thương ngày nhỏ đi săn bị heo rừng vồ trúng. Sờ sẹo nhận ra chủ nhân vú già rú kêu, ăn mày vội vàng bịt miệng. Athena hóa phép Penelope không nghe thấy. Đúng lúc đó nương nương kể giấc mơ đêm qua, giấc mơ cho thấy đám cầu hôn sẽ bị sát hại. Và nương nương kể đám cầu hôn cố nâng chiếc cung, song không nâng nổi. Ngày mai nương nương sẽ quyết định cầu hôn, người nào sẽ là phu quân bất đắc dĩ của mình. Đêm dài (Khúc 20), song khó ngủ, Odysseus và Penelope đều trằn trọc. Lịm dần thiếp mơ nương nương thấy phu quân bên cạnh. Nóng mặt vì đám cầu hôn không những lì lợm mà còn trơ trẽn, nhận thấy cần ra tay khẩn cấp, Odysseus sững sờ, nao núng trước nghịch cảnh bủa vây. Athena hứa trợ giúp. Cùng lúc Chúa tể truyền gửi điềm lành. Sáng ra để chào mừng xạ thủ thần linh Apollo nhà dọn dẹp, bầy biện ngăn nắp. Củi, nước, heo, dê sẵn sàng. Odysseus nghe tin Philoitios, nô bộc chăn bò, trước sau trung thành ước ao chủ nhân trở về. Chẳng mấy chốc đám cầu hôn đã tề tựu, trong lòng âm mưu hạ sát Telemachos, nhưng nhìn dấu hiệu Chúa tể biểu lộ tất cả đều ngần ngại. Ẩu đả xảy ra giữa bữa sáng. Thấy Odysseus nhận từ tay Telemachos phần ăn như mọi người, Ktesippos bực mình cầm móng bò ném thẳng. Cùng lúc tiếng người nhao nhao đòi Penelope phải quyết định cấp kỳ. Telemachos im lặng đồng ý, song đại sảnh hầu như tràn ngập biến sự ghê tởm. Penelope (Khúc 21) sai gia nhân vào kho chứa đồ mang ra chiếc cung đồ sộ Odysseus ngày trước thường dùng. Vừa nom thấy liền xúc động Eumaios và Philoitios bật khóc. Telemachos nhanh tay xếp rìu thành hàng, lỗ hổng trên cán nối nhau chạy thẳng tắp, xạ thủ nhắm bắn, mũi tên xuyên qua. Telemachos nói bản thân cũng tham dự cuộc tranh tài. Nâng cung gắng sức kéo dây đến lúc hầu như kéo được Telemachos lại ngừng vì thấy Odysseus ra dấu. Đám cầu hôn cũng làm tương tự, song thất bại, bèn bôi mỡ hâm nóng dây cung. Dẫu vậy cũng chẳng ăn thua. Hì hục đến mấy tất cả không đủ sức kéo dây nhắm bắn. Lúc đó Eumaios, Philoitios và Odysseus ra ngoài sân. Odysseus cho nô bộc hay mình là ai, rồi dặn mọi việc phải làm. Quay lại đại sảnh ba người thấy Antinoos và Eurymachos loay hoay kéo dây cung, song không giương nổi. Odysseus ngỏ ý muốn thử xem sao. Tỏ vẻ khinh bỉ đám cầu hôn không chịu. Thấy vậy Penelope can thiệp. Bảo mẹ về phòng đừng xía vào chuyện đàn ông, Telemachos đồng ý để Odysseus nâng thử. Odysseus giương cung bắn qua hàng rìu. Đứng trấn trước cửa (Khúc 22) Odysseus bắn hạ Antinoos, tuyên bố mình là Odysseus. Sợ hết hồn, chỉ có kiếm trong tay, đám cầu hôn hốt hoảng, đứa tìm cách làm lành, đứa co giò tháo chạy, đứa liều mạng xổ tới tấn công. Nhưng tất cả lần lượt theo nhau gục ngã. Lúc tên trong bao gần hết Telemachos vào kho chứa đồ lấy vũ khí mang ra. Melanthios cũng vơ mười hai cây thương đem đến cho đồng bọn. Đám này lao vun vút nhằm hạ sát Odysseus cùng nô bộc. Nhưng không để tên bay trúng đích mà lái tất cả quay lại, Athena gieo kinh hoàng. Tất cả lăn ra chết trừ thi sĩ ca công Phemios và lệnh sứ Medon. Odysseus bảo vú già Eurykleia tập trung mười hai nữ tỳ phản bội bắt khênh xác chết ra ngoài, lau chùi sạch sẽ đại sảnh, sau đó treo cổ ngoài sân. Đốt lưu huỳnh cho khói lan tỏa Odysseus tẩy uế ngôi nhà trong khi tỳ nữ chung thủy vui mừng chào đón chủ nhân. Trong lúc diễn ra cuộc đụng độ Athena nhẹ đưa Penelope vào giấc ngủ êm đềm. Vú già Eurykleia (Khúc 23) lên đánh thức kể cho nương nương hay Odysseus đã trở về, đám cầu hôn không còn nữa. Nghe thì nghe Penelope không tin. Nương nương thầm nghĩ nếu bọn cầu hôn chết chắc hẳn thần linh ra tay vì thịnh nộ đối với tội ác chúng gây ra. Dẫu thế Penelope vẫn xuống gặp. Vừa vui mừng vừa lưỡng lự nương nương im lặng không nói một lời. Thấy vậy Telemachos trách khéo. Nhận thấy cần thời gian mới nhận ra Odysseus quay sang chuyện khác. Cần tiếp tục ca hát, khiêu vũ kẻo thấy ngôi nhà im lặng dân chúng sẽ nhòm ngó. Trong lúc thi sĩ ca công phô diễn tài nghệ Odysseus đi tắm. Tắm gội xong xuôi, thay quần áo tươm tất, Odysseus lại gặp Penelope. Thử xem có phải người đối diện đúng là Odysseus, nương nương bảo Eurykleia sửa soạn giường ngủ cho ăn mày, vú già mang chiếc giường ra khỏi phòng tân hôn khi hai người lấy nhau, chiếc giường ngày đó Odysseus tự tay xẻ gỗ đóng thành. Nhưng vú già không thể mang đi vì chân giường là gốc cây. Trừ vú già, Odysseus và Penelope, không ai biết chuyện chiếc giường. Nóng mặt Odysseus bèn hỏi phải chăng trong thời gian Odysseus vắng nhà có người đã chặt cây ô-liu? Câu hỏi cho thấy người hỏi đúng là phu quân. Hầu như ngất lịm muốn xỉu Penelope từ từ ngả người vào tay. Nằm trên giường hai người kể cho nhau nghe chuyện xảy ra suốt thời gian xa cách lâu dài. Sáng sớm thức dậy Odysseus gọi Telemachos và hai nô bộc bảo sửa soạn đến nông trại gặp thân phụ Laertes. Tiết mục chuyển tiếp (Khúc 24) mô tả Hermes dẫn hồn ma các cầu hôn xuống âm phủ. Tới nơi họ gặp thủ lĩnh, chỉ huy Hy-lạp đã từ trần trong cuộc chiến, Agamemnon thảo luận sôi nổi với Achilleus. Agamemnon than phiền đám tang Achilleus trang trọng, đám tang bản thân thảm thương. Hỏi chuyện hồn ma Amphimedon nên biết đám cầu hôn đã bị tiêu diệt, Agamemnon ca ngợi Penelope tiết hạnh, thủy chung khác hẳn Klytaimestra, vợ mình hư thân mất nết. Tới trại trước còn nói dối sau nói thật, Odysseus tuần tự hé lộ bản thân cho bố già hay. Trong khi đó tin đám cầu hôn bị giết lọt ra ngoài, thân nhân hè nhau vũ trang trả thù. Eupeithes bố Antinoos dẫn đầu, cả bọn kéo tới tấn công nhà Laertes. Chống trả quyết liệt, lão nhân Laertes lao thương giết chết thủ lĩnh, thân nhân hoảng hồn tháo chạy. Theo lệnh Chúa tể, Athena đứng ra hòa giải. Giả dạng hình thù, giọng nói y hệt Mentor, nữ thần thuyết phục hai bên ngừng gieo hận thù, thay vì thế nên sống hòa bình với nhau.
Căn cứ vào nội dung học giới Tây Âu cho rằng Odyssêy ra đời sau Iliad, hai thi phẩm cổ nhất trong văn học Hy-lạp nói tới nguyên nhân và hậu quả cuộc chiến thành Troa. Tuy nhiên, khi bàn tới lịch sử cuộc chiến, học giới vừa kể lại dè dặt vì hầu như không ai hay biết. Người sau phỏng đoán chắc hẳn giữa các sắc tộc có ít nhiều quan hệ thân thuộc sống trên hải đảo, bờ biển mạn tây, mạn đông biển Aegean xảy ra tranh giành, tranh giành dẫn đến đổ máu, đổ máu đưa tới chiến tranh, chiến tranh ác liệt gây ấn tượng đậm nét trong lòng dân chúng. Do vậy để tưởng nhớ bất hạnh tương tàn, người cùng huyết thống phải gánh chịu, truyền thuyết và huyền thoại ra đời, mới đầu tản mát đó đây, bồng bềnh bất định, về sau bám sát, gắn chặt với tên tuổi các anh hùng, thế hệ mai sau thay nhau ca ngợi. Tới khi tinh thần quốc gia ý thức vai trò của mình, ca công, thi sĩ, tu sĩ ra tay thu nhặt, gom góp chất liệu tạo thành khối lượng văn chương cụ thể.
Khi sáng tác Odyssêy chắc hẳn đầu óc đã chứa hàng lô truyền thuyết và huyền thoại, thi sĩ chỉ lựa chọn chất liệu cần thiết để xây dựng tác phẩm dự định. Tác giả Iliad hiểu cặn kẽ, sâu sắc truyền thuyết tản mạn khắp Hy-lạp, hình ảnh thân thương đối với tâm tư người dân sống trên đó dù họ là Theban, Pylian, Mycenean hay Argive. Hơn thế, tác giả Iliad và Odyssêy mặc nhiên cho rằng không những đã biết hai thi tập khán giả thời ông còn biết truyền thuyết lưu truyền trong dân gian. Chuyện trở về của Odysseus kể trong Odyssêy là truyền thuyết xuất hiện không biết từ bao giờ trước khi kết tụ thành thi hệ thành Troa. Khởi đầu rời rạc, về sau quấn quyện, truyền thuyết biến thành thi phẩm cụ thể nhờ bàn tay nghệ sĩ tài hoa. Iliad là chuyện bi thương kể lớp lớp thanh niên Hy-lạp dấn thân vào cuộc chiến, vì chỉ huy trẻ tuổi phẫn nộ trong doanh trại trước thành Troa, nên chịu đựng biết bao gian lao, cực khổ. Odyssêy là chuyện phiêu lưu trữ tình của người đứng tuổi trải qua gian truân, nguy hiểm, lưu lạc nhiều năm sau khi thành ấy sụp đổ, cuối cùng trở về sum họp với gia đình. Chuyện bắt đầu: “Hỡi Thi Thần, xin kể cho bản nhân hay chuyện người ấy, người trăm phương nghìn kế, đã cướp phá thành Troa thiêng liêng, sau đó lang thang góc biển chân trời, gặp nhiều sắc dân, tới nhiều thành phố, hiểu phong tục tập quán của họ. Người trải qua vô vàn gian truân, lo lắng ngấm ngầm vò xé tâm can khi lênh đênh trên biển cả, quyết tâm phấn đấu sống còn, cùng lúc ra tay lèo lái đưa đồng đội về với gia đình, nhưng không thể dù cố gắng hết sức.” Khi Odyssêy bắt đầu, thành Troa đã sụp đổ, quân vương Priam mãn phần, bầy con chết hết, doanh trại quân Hy-lạp gần bờ biển bỏ hoang ròng rã mười năm.
Nhiều người Hy-lạp, cả già lẫn trẻ, nắm giữ vai trò quan trọng trong Iliad cũng không còn. Ngày chót đồng đội lên thuyền trở về quê hương Achilleus, Aias to con, vô số chỉ huy, biết bao binh sĩ đã nằm im dưới mộ trên đất Troad bao la. Nhiều người trong hải trình hồi hương khi vượt biển Aegean lạc đường, trôi dạt tới bến bờ xa lạ. Sóng gió vùng đó từ trước tới giờ vẫn nổi tiếng dữ dằn và nguy hiểm. Mặt khác, khi chiếm thành Troa quân Hy-lạp tỏ ra kiêu ngạo, bất kính, thái độ lỗ mãng, xấc xược khiến một số thần linh trong quá khứ từng có cảm tình bây giờ cũng giận dữ, ghét bỏ. Vì ngạo mạn, cấc lấc Aias nhỏ thó ngồi trên mỏm đá bị Poseidon vung đinh ba cuốn phăng xuống nước. Quân vương Agamemnon về tới nhà ở Argos không được nghênh đón trọng thể mà chỉ gặp phản bội rình mò, âm mưu chờ đợi, phu nhân toa rập với tình nhân rút dao đâm lúc đang ngồi dự tiệc đón mừng. Số kiếp nhục nhã vẫn là hình ảnh ghê tởm lảng vảng trong tâm trí mọi người, mặc dù con trai Orestes có trả thù, giết mẹ ngoại tình và đồng lõa đê tiện. Dẫu thế trong số chỉ huy và thủ lĩnh vẫn có người trở về an toàn, gia đình êm ấm. Diomedes dũng cảm, Nestor cao niên.... là số người trong đám chiến binh lừng danh. Menelaos với Helen yêu kiều lại sống yên vui trong cung điện ở Sparta làm như thế giới thanh bình, xung quanh êm ả. Sắc đẹp chim sa cá lặn vẫn là trường thành ngăn cách nàng với đau khổ giăng mắc thế nhân.
Nhưng có một thủ lĩnh tài ba biến dạng. Không ai nom thấy ở đâu kể từ lúc thủ lĩnh cùng đồng đội lên thuyền rời thành Troa cách nay mười năm. Ở nhà trên đảo Ithaka cây cối um tùm, núi đồi lởm chởm vợ đẹp Penelope và con trai Telemachos vẫn mong manh hy vọng thủ lĩnh sẽ trở về. Vài nô bộc trông nom gia súc, vài gia nhân lo việc nội trợ lòng dạ trung thành cũng nôn nóng chờ đợi. Ngược lại, mấy năm nay có đám người chẳng mời cũng tới, từ lãnh trang kế cận, hải đảo xung quanh, ăn rầm ở rề trong nhà, không những thế còn lớn tiếng tuyên bố chủ nhân chết rồi, yêu cầu phu nhân xác nhận tình trạng góa bụa, chọn một trong số làm phu quân chung chăn chung gối. Sử dụng phương kế mềm dẻo, nàng lần lượt đẩy họ vào vòng chờ đợi. Lẳng lặng vào khung đạp cò dệt chỉ làm vải liệm khi thân phụ chủ nhân già nua qua đời, nàng tuyên bố chừng nào dệt xong nàng sẽ rời mái nhà đang ở bước đi bước nữa tính chuyện trăm năm. Ban ngày cặm cụi đưa thoi, ban đêm lúi húi tháo chỉ. Suốt thời gian đó không ai hay ý định. Cuối cùng một nữ tỳ mách lẻo. Hay chuyện càng sốt ruột đám cầu hôn khăng khăng đe dọa. Tuổi còn trẻ, Telemachos chưa biết xử sự ra sao đối phó với lũ người lì lợm trong khi chứng kiến thân mẫu bị ức hiếp, gia phong tai tiếng, của cải sa sút trầm trọng.
Chưa ai biết trong số đảo mạn tây Hy-lạp đảo nào là đảo Ithaka. Rất có thể đó là đảo ngày nay Hy-lạp gọi là Thiaki hoặc đảo gần đảo đó. Đảo với bến tàu nhỏ hẹp, núi đồi chập chùng, cây cối um tùm, hang động âm u dâng hiến nữ thần sông nước, như Homer miêu tả, không phải hiếm thấy trong vùng này, không những thế còn mang dấu vết con người từ lâu. Dù đảo nào là đảo Ithaka đi nữa, đảo đó cũng nằm ven biên mạn đông Địa-trung-hải, sâu khoảng năm nghìn mét, dài gần bốn ngàn cây số, rộng chừng một ngàn bốn trăm cây số, diện tích xấp xỉ ba triệu cây số vuông, nằm giữa Phi châu, Âu châu, Á châu. Và đảo đó thời Homer không xa lạ với người Achaian. Tổ tiên người Hy-lạp mấy thế kỷ trước từ miền núi mạn bắc Thrace kéo xuống định cư trên đất liền Hy-lạp, dọc bờ biển Tiểu Á sau khi nắm vững nghề đi biển đã đem thuyền đi đánh cá, đột nhập vùng lân cận cướp của bắt người, buôn bán với dân tộc văn minh ở Krete, Phoinicia (Syrie, Lebanon ngày nay), và Ai-cập. Thời Homer, tám hoặc chín trăm năm trước khi Giê-su ra đời, đến mùa gió thuận, sóng êm thương nhân thường tổ chức đội thuyền xuôi nam mang hàng đi bán, hàng gồm rượu vang, dầu ô-liu, vượt biển thuyền tới trước tiên Krete, tiếp theo Syrie, cuối cùng Ai-cập. Đến nơi thuyền nhập đoàn sở tại xuôi sông Nil tới thành phố Thebes trao đổi hàng hóa lấy phẩm vật quý hiếm. Từ Thebes hoa khôi Helen đã mang về Sparta rổ bằng bạc, mép lát vàng để trên xe và chất thuốc kỳ diệu hòa vào rượu vang uống là hết đau nhức. Dẫu vậy phía tây Ithaka và Ai-cập vẫn là vùng biển bao la, mung lung người Hy-lạp thời đó chưa dám mò tới. Chỉ có người Phoinician nhờ kinh nghiệm lâu năm tiến sâu vào vùng mặt trời chìm lặn, lập thương điếm chỗ này, dựng lãnh địa chỗ kia, cuối cùng tới eo biển dẫn vào đại dương phía tây, nơi mặt trời như chuông lửa đến tối tụt xuống tựa trái rụng. Có lẽ lúc đó họ đã phác họa hải đồ và xác định hải trình, ghi bến đậu trên đường đi, điểm nguy hiểm cần tránh, nơi an toàn có thể rẽ vào xin tiếp liệu, thực phẩm, nước uống. Trái lại, đối với người Hy-lạp bên kia bờ biển và hải đảo quen thuộc là thế giới hoang vu, vô cùng huyền bí. Khi không tìm thấy Odysseus ở đâu trên thế giới quen thuộc mạn đông mọi người đều nghĩ thủ lĩnh biệt tích không tài nào tìm ra.
Trong vùng đất mạn đông nơi người Hy-lạp định cư đã có nền văn minh phát triển rực rỡ sử gia sau này gọi là văn minh Mycenaean. Thủ lĩnh, quân vương, như lãnh chúa phong kiến thời Trung cổ ở châu Âu, trị vì, làm chủ ruộng đất, sống trong tư thất bằng đá, bằng gỗ, tường cao vây quanh, nô lệ, nông nô, tôi bộc phục vụ. Quân vương hay đầu lĩnh vùng rộng lớn sống trong biệt thự cột, tường lát đồng, nạm bạc, tráng men bóng loáng, óng ánh như mặt trời hoặc mặt trăng. Bước qua ngưỡng cửa vào cung điện Menelaos ở Sparta, Telemachos ngẩn ngơ trước vẻ rực rỡ toát ra từ đồng, vàng, bạc, ngà voi chẳng khác dinh thự của Chúa tể trên núi Olympos. Ngay cả Odysseus đi nhiều, biết nhiều vừa chợt nhìn cũng sững sờ trước cung điện của Alkinoos, quân vương trị vì người Phaiakian giàu có, cổng vào có chó bằng vàng, bằng bạc đứng canh, sảnh đường rộng rãi đuốc sáng trưng, thanh niên bằng vàng đứng trên đôn đá đẽo gọt kỳ khu cầm tay giơ cao.
Tuy là quân vương Ithaka nổi tiếng khắp vùng, có gia súc đưa vào đất liền chăn nuôi, Odysseus không có dinh thự như thế. Dẫu vậy tư thất cũng nguy nga, đồ sộ. Sân trước rộng rãi, cổng ngoài ngất ngưởng, bên trong cất nhà kho chứa đồ, nhà phụ cho gia nhân. Ở giữa dựng bàn thờ to lớn để làm lễ tế sinh dâng Chúa tể. Từ đó băng qua hàng cột mái bằng và cổng thứ hai chắc nịch là bước vào tiền đình rộng lớn mái che cột cao nâng đỡ. Lò sưởi lúc nào cũng đốt củi, chưa có ống thông hơi, khói bốc chui qua lỗ hổng trên rui thoát khỏi mái nhà. Hàng ghế trang trí mỹ thuật đặt sát tường. Vải mịn phủ lên trên, ghế để chân đặt phía trước nhằm tạo cảm giác thoải mái cho người ngồi. Bàn nhẵn bóng kê trước hàng ghế khi dùng bữa, lúc đó người Hy-lạp cũng như người La-mã sau này chưa có thói quen vừa ngả lưng trên đi-văng vừa ăn uống. Từ tiền đình đi theo hướng này là tới nhà bếp và phòng phục dịch. Từ đây nữ tỳ, tôi bộc mang ra sảnh đường nước đựng trong bình và chậu bằng bạc, bằng vàng cho khách rửa tay, sau đó rổ đựng thịt, rổ đựng bánh mì, rổ đựng trái cây, cúp bạc và bình rượu vang. Đi theo hướng kia là tới dãy phòng nơi bà chủ làm việc, quay tơ, dệt vải, sai bảo nữ tỳ. Trên cao là phòng ngủ của gia đình. Odysseus có phòng đặc biệt dành riêng cho mình cất sát ngôi nhà, tự tay xẻ gỗ làm giường gần cây ô-liu bất ngờ mọc ở đó. Kế cận là phòng tắm, nước đun nóng đổ vào chảo lớn, nữ tỳ kỳ cọ xong xuôi mới lấy dầu ô-liu thoa thân thể. Cuối hành lang dài dẫn tới nhà sau là phòng chứa vũ khí trong để mũ, khiên, thương, kiếm cùng vũ khí chiến trận, và phòng chứa vật dụng khóa kỹ trong để rương đựng châu báu, y phục thêu thùa, bình cổ dài quý giá, bình loe miệng đựng vang hảo hạng, nén bạc, nén vàng chưa tôi. Tiền đúc chưa phát minh, song giá cả tính bằng trọng lượng kim loại.
Tuy có phòng riêng, song chẳng chút ngại ngần, khi có chuyện Penelope vợ Odysseus thường xuống sảnh đường nói cho các cầu hôn hay ý định. Trong khi chồng vắng nhà, trước mặt họ, luôn luôn có hai nữ tỳ bên cạnh, mặt che voan, nàng nói năng bình thường, nhưng không bao giờ nán lại lâu dài. Trái lại, nếu chồng có nhà sẵn sàng bảo vệ, nàng thường ngồi bên cạnh gần lò sưởi, dáng vẻ chững chạc, đường bệ. Helen đón tiếp Telemachos trong tư thế đó khi thanh niên tới Sparta, và cũng trong tư thế đó Arete hoàng hậu khả kính của người Phaiakian lắng nghe Odysseus kể chuyện đắm tàu. Phụ nữ trong Odyssêy, cả thần linh lẫn thế nhân, đều là nhân vật cởi mở, mạnh dạn, không như hiền nội các đấng nam nhi thành phố Athens sau này phải buồng khuê vò võ một mình. Con gái nhà quyền quý chưa lập gia đình, như thiếu nữ Nausikaa, không xuất hiện giữa đám đông trong sảnh đường, song trà trộn với mọi người trong gia đình, ngoài xã hội muốn đi đâu tùy ý. Lúc có chuyện cần nói nàng tới gần Odysseus ngỏ lời tự nhiên.
Bên ngoài và xung quanh ngôi nhà là vườn rau, vườn nho, vườn cây ăn trái. Khu vườn ngoạn mục trước dinh thự của Alkinoos rộng bốn mẫu tây, tính ra xấp xỉ hai mươi ngàn mét vuông, có hàng rào bao quanh. Lê, táo, vả, ô-liu, thạch lựu trổ quả đầy cành. Phía đối diện nho trĩu trái rủ buông chờ chín mọng. Bên kia hàng cây là luống hoa nở quanh năm. Nước lấy từ suối theo máng chảy vào tưới cho rau cỏ, cây cối. Khi trở về gặp bố già, Odysseus thấy lão nhân Laertes cuốc đất ngoài vườn. Muốn lão nhân lụ khụ nhận ra thằng con xa cách hai mươi năm, nhắc khéo số cây bố già trồng cho lúc còn nhỏ, Odysseus nói: “Bố cho con mười ba cây lê, mười cây táo, bốn mươi cây vả, cùng lúc lại chỉ năm mươi hàng nho bố hứa cho con, mỗi hàng ra quả theo thời, bởi thế chùm chín theo đợt như các mùa Chúa tể trên cao bồi sinh lực làm sống lại trên nhánh, trên cành.”
Bên kia khu vườn là vựa lúa, nhà chái, chuồng gia súc, tiếp theo đồng cỏ, đồng ruộng, rừng cây. Nông nô chăn bò, chăn dê, chăn cừu, chăn heo thả rong thành đàn. Là hải đảo núi non lởm chởm, Ithaka không có cánh đồng bằng phẳng cho ngựa kéo xe hoặc đường đất cho xe chuyên chở. Bởi thế khác hẳn quân vương Menelaos trong đất liền, Odysseus không có tuấn mã ngoạn mục phi nhanh. Thay vì dùng ngựa di chuyển, người ta dùng chó. Quý tử Telemachos có hai con chó luôn luôn theo sát bên cạnh. Sinh vật duy nhất nhận ra khi Odysseus trở về chỉ qua giọng nói là chó già Argos. Lúc Odysseus rời nhà vượt biển lên đường chinh chiến, nghĩa khuyển còn bú sữa mẹ. Bây giờ già nua, ốm yếu, cô đơn, bỏ rơi trên đống phân bò ngoài sân, lão khuyển nghe tiếng lúc chủ nhân đi qua. Vểnh tai, quẫy đuôi, gồng mình bệnh khuyển gắng gượng nhoai đầu phía trước. Tiếc thay nguồn vui chưa dâng, cố gắng đã xẹp. Lịm dần, màn tối từ từ buông phủ, Argos từ giã cõi đời sau khi nhận ra chủ nhân xa mặt cách lòng ròng rã hai mươi năm.
Ở nhà quân vương có nhiều việc phải làm. Mấy năm liền chỉ chè chén, ăn không ngồi rồi tại nhà vô chủ, dẫu bù khú đến mấy, đám cầu hôn cũng chán. Dĩ nhiên quân vương và quý tộc có quyền tiệc tùng, ca vũ, lắng nghe thi sĩ ca công biểu diễn ngâm vịnh, quan sát thanh niên ném banh, khiêu vũ, hoặc đích thân tham dự cuộc tranh tài, đấu võ, phi ngựa, cử tạ, song đó chỉ là giây phút xả hơi sau khi đã lao động cùng mình. Cũng như địa chủ giàu có nếu quân vương và phu nhân sở đắc nghề nghiệp thủ công, cơ ngơi sẽ phát đạt. Penelope không những nổi tiếng về nhan sắc mà còn lừng danh về thêu dệt, đảm đang công việc nội trợ. Khi còn ở nhà Odysseus danh tiếng là có tài giải quyết mọi việc tại chỗ. Nhắc đến Odysseus là người ta nhắc tới công việc Odysseus hoàn thành. Ở nhà Odysseus chẻ củi, cưa gỗ. Ra đồng Odysseus cày ruộng, cắt cỏ, luyện bò, nuôi heo. Odysseus còn là thợ mộc khéo tay. Chiếc giường kê trong buồng ngủ đêm tân hôn là chiếc giường Odysseus tự tay xẻ gỗ đóng thành. Chiếc giường vẫn nằm đó không ai động tới từ ngày Odysseus khoác áo chiến binh lên đường. Vào rừng săn thú, tên sẵn sàng, cung nặng khác thường, Odysseus là xạ thủ lành nghề.
Không những là chủ nhân ruộng đất, quân vương còn là người trị vì nhân dân, có quyền sinh sát đối với nô lệ. Nếu xảy ra chuyện tranh giành ruộng đất giữa địa chủ, quân vương sẽ phái lệnh sứ đi khắp vùng rao tin mời nhân dân đến họp tại quảng trường. Trước mặt hội đồng bên nguyên trình bày lý do, bên bị giải thích, vấn đề mổ xẻ, bàn cãi cặn kẽ. Trong khi họp đến lượt ai muốn phát biểu ý kiến, lệnh sứ sẽ trao quyền trượng và nhường chỗ. Tham dự hội đồng thầy đoán hay tu sĩ thường giải thích điềm triệu nếu điềm triệu biểu thị phán xét của thần linh. Chưa có luật lệ thành văn để tuân theo. Bởi thế thẩm quyền thuộc tập quán lâu đời và giải thích của tu sĩ. Quyết định tất nhiên sẽ do đa số, phe thắng và bằng hữu sẽ tức khắc thi hành. Pháp luật dựa vào tập quán, tục lệ, giải thích của tu sĩ và quyền lực cá nhân để thi hành như vậy khi áp dụng không sao tránh khỏi tình trạng giới hạn và tính cách địa phương. Chết, quá yếu hoặc ở xa không thể tới đối chất với người đả thương, người bị thương không có quyền đòi bồi thường. Hay tin quân vương Agamemnon bị đâm chết, dân Argos phẫn nộ, song chẳng thể làm gì. Người vợ giả dối của ông và người tình nham hiểm của nàng sống bình thản trong cung điện. Tình trạng thay đổi khi Orestes xuất hiện ra tay trả thù cho cha. Bởi thế hải tặc tràn vào bờ biển xa xôi cướp phá là việc làm khả dĩ chấp thuận và hợp lý, vì dân cư xa lạ nằm ngoài biên giới luật pháp Hy-lạp. Odysseus có vẻ tự hào khi nói tới đột nhập, cướp bóc thành phố Ismaros trên bờ biển Thrace, giết đàn ông, bắt đàn bà, lấy của cải chia chác với đồng đội, tha mạng sống cho tu sĩ phục vụ Apollo đổi lấy bảy ta-lăng vàng, một tô bằng bạc, mười hai bình đựng rượu vang. Nhưng đây chỉ là một phần tục lệ phổ thông thời đó. Ý niệm về pháp luật, công lý khắp nơi đều bán khai, áp dụng không cho con người như con người mà chỉ áp dụng cho cá nhân trong cộng đồng của cá nhân đó.
Thủ lĩnh trong trường ca Homer sống theo danh dự như thi phẩm Iliad miêu tả. Trước hết thủ lĩnh là chiến binh lực lưỡng, can trường, cương quyết đánh gục quân thù trên chiến trường, song không tàn nhẫn đến mức lạnh lùng. Bất kể tình huống thế nào thủ lĩnh cũng chung thủy với đồng đội, tử tế với tùy tùng, nhã nhặn và ân cần với khách lạ. Giữ lời hứa, tôn kính thần linh, thủ lĩnh còn thương xót, tỏ lòng trắc ẩn với người thất thế tới nhà van xin bảo vệ. Nghe lời người bất hạnh năn nỉ mà không thế nhân nào đứng ra bao che, nóng mặt hết sức, Chúa tể Cha thần linh và thế nhân thẳng tay trừng trị kẻ ngạo mạn, vì nhẫn tâm quên mình cũng là thế nhân. Đức tính hào hùng xuất hiện đầy đủ trong con người Odysseus nổi danh vừa là chỉ huy vừa là chiến sĩ. Nô lệ nhắc đến quân vương như nhắc tới chủ nhân nhân đạo. Liên hệ giữa gia đình và tôi bộc trước sau thân thiết, đậm đà. Tinh thần hiếu khách, dù khách bệ rạc, hèn mọn, vợ và con chân tình duy trì như truyền thống bất biến của gia đình. Tuy nhiên, đức tính đặc biệt trong con người Odysseus, đức tính sở đắc từ lúc trai trẻ đã khiến Odysseus bỏ xa thanh niên gan dạ, táo bạo cùng trang lứa là tài ba, mưu trí. Odysseus ưa dấn thân vào kế hoạch liều lĩnh, phiêu lưu khác thường. Nhận thức bén nhạy, trong tiếp xúc, Odysseus đoán độ ý nghĩ, tư tưởng người đối diện, nắm vững tình hình, phản ứng mau lẹ, mưu lược và cương quyết. Cùng lúc Odysseus tỏ ra thận trọng, điềm tĩnh, biết kìm hãm cảm xúc dâng cao, dấy mạnh trong lòng. Khi thực hiện kế hoạch nghiên cứu chi li, Odysseus nhất định thực hiện bằng được, không bỏ dở, không làm hỏng do khinh suất, do nông nổi, thiếu kiên nhẫn, thiếu cẩn trọng. Âm mưu đưa ngựa gỗ để chiếm thành Troa, lúc Helen đi qua cất tiếng gọi, giữ bí mật tuyệt đối, tránh bại lộ tai hại, Odysseus nhanh tay bịt miệng không để Menelaos và Diomedes đáp lời. Khi cân đo thực tế đòi hỏi, Odysseus thác lời thật tài tình. Có lần trong khi chuyện trò tỏ ý tán thưởng, Athena buông lời nhận định: “Ai gặp ngươi, dù là thần linh, ắt phải thuộc hàng xảo trá, tinh ranh nhất đời mới hy vọng tranh tài mánh lới. Thủ đoạn siêu việt, xảo diệu vô song, bởi thế ngươi không muốn, dù ở trên quê hương, gạt bỏ mưu mẹo, chấm dứt chuyện tào lao tự lòng ưa thích vô cùng” (13.291-295). Penelope khách quan nhận xét: “Từ trước tới giờ, trong số khách lạ từ nơi xa xôi đến nhà này, tiện phụ chưa thấy người nào suy tư chín chắn, nói năng ý nhị như quý khách” (19.350-353). Và sau bao năm xa cách gặp lại lần đầu Penelope khẳng định: “Phu quân trước sau là người sáng suốt, tinh tường” (23.209).
Mở đầu Odyssêy là bức tranh miêu tả Odysseus trở về sum họp gia đình sau hai mươi năm lên đường chinh chiến. Ở nhà lúc này Penelope đã đi tới chỗ thầm nhủ chắc hẳn chồng không còn nữa, chàng chết rồi, song không biết chết ở đâu, cùng lúc nên thành thực nói cho Telemachos hay mình phải tái giá, chấp nhận lấy chồng lần nữa, như vậy sẽ giải thoát con trai khỏi cảnh nhìn đám cầu hôn bất trị chầu chực suốt ngày, của cải gia đình vô cớ đội nón ra đi. Dẫu vậy vẫn chưa thể thuyết phục bản thân chọn một trong số, đêm đến lên giường chờ giấc hết thổn thức đến nghẹn ngào, nàng thường vừa âm thầm nức nở vừa im lặng tưởng nhớ người đàn ông không bao giờ trở về hoặc một lời nhắn gửi. Trong số người buồn nhớ Odysseus biệt tăm biệt tích, người cần Odysseus hơn hết là Telemachos. Mới lớn nghĩ tới bố, con trai mơ tưởng người bố nổi tiếng lừng danh, nhắc tới thiên hạ hình dung nhiều điều kỳ dị. Bây giờ dò hỏi tông tích con nghe người ta nói bố chết rồi, chết âm thầm, chết bí hiểm, không để lại dấu vết, không để lại một lời nhắn nhủ để tưởng nhớ, để xót thương. Rồi ra thay bố, con sẽ là cột trụ gia đình, bảo vệ mẹ đẻ, trông nom tài sản, cai quản vương quốc. Nhưng con không biết làm thế nào để xác định quyền uy đối với tình trạng hỗn loạn diễn ra trong sảnh đường. Con cảm thấy tuyệt vọng, bản thân thấp kém so với người bố tầm vóc hơn đời.
Dẫu sao Chúa tể cũng không có ý định để thế nhân như Odysseus héo hon, phiền muộn, lưu vong mãi mãi. Mặc dù trước kia có làm phật ý Poseidon, vì thế nếm đủ mùi cay đắng, song bây giờ Odysseus được phép trở về. Thoạt tiên Chúa tể phái Athena giả dạng thân hữu gia đình tới chuyện trò, khuyến khích, nâng đẩy Telemachos ra khỏi tình trạng chán chường, mặc cảm. Nữ thần nói với Telemachos thân phụ vẫn còn sống, ngày không xa sẽ trở về. Lúc này có việc cần làm - triệu tập hội đồng, công khai yêu cầu đám cầu hôn ra về, không tụ tập ở nhà mình nữa, thân chinh lên đường vào đất liền tìm kiếm đồng đội ngày trước của bố, lão vương Nestor, quân vương Menelaos, hỏi hai vị tin tức. Phấn khởi, quyết tâm đóng vai chủ nhân, Telemachos sai lệnh sứ triệu tập hội nghị. Trước mặt nhân dân Telemachos trình bày nông nỗi khốn khổ của gia đình, yêu cầu tất cả cầu hôn rút lui. Nhưng gần chót xúc động vì tủi hổ, bất bình vì tức giận bỗng dưng dâng cao chẳng thể đè nén, Telemachos bật khóc, quyền trượng đang cầm rơi xuống đất. Mọi người nhao nhao ra về, đám cầu hôn xấc xược hơn bao giờ âm thầm rủ nhau mai phục hạ sát.
Lại được Athena trợ giúp nhờ thế có thuyền và tay chèo, đêm xuống Telemachos lẻn đi, đám cầu hôn không biết. Lên đất liền Telemachos được Nestor và Menelaos tiếp đón nồng hậu, hơn thế còn gặp Helen sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Được hai quân vương đối đãi ân cần, cùng lúc tưởng nhớ bố đẻ lừng danh, lòng bỗng dưng dấy lên cảm nghĩ tự tin, Telemachos không còn ủ dột, buồn rầu nữa. Không ai thấy bố ở đâu, trừ Menelaos. Quân vương kể trên đường từ Ai-cập trở về có gặp Ông già Biển cả. Phát biểu tiên tri, lời lẽ thâm thúy, hải thần khẳng định với quân vương Odysseus còn sống, song hiện nay bị giam giữ trên đảo vô danh. Sau hai tuần Telemachos cáo lui ra về. Mặc dù vẫn lo lắng số phận bố đẻ, Telemachos vững tin có thể đứng bên cạnh trợ giúp, không chút sợ sệt, khi ngày tiên đoán diễn ra. Phần riêng thần linh biết Odysseus biến dạng từ lâu hiện nay ở đâu. Đối với đồng đội và gia đình Odysseus chết rồi, vì bão biển kéo thuyền sang mạn tây, xuống mạn nam, xa tít mù tắp trên đại dương mênh mông, từ thế giới hữu hình quen thuộc vào thế giới vô hình xa lạ, vùng khiếp đảm, ma quái. Bây giờ đồng hành chết hết, một mình sống sót, Odysseus đang là tù nhân trên đảo Ogygia xa xôi, nơi bảy năm trước dạt vào yêu mị Calypso xinh đẹp giữ lại, hải đảo là thiên đường, cây xanh rợp bóng, nữ thần tìm cách biến Odysseus là người yêu muôn thuở, quên thế giới thế nhân, trở thành thần linh bất tử. Nhưng Odysseus không hề cúi đầu khuất phục trước dụ hoặc nữ thần sử dụng và cũng không chịu thưởng thức thực phẩm thần linh, thủy chất trường sinh và mật hoa bất tận biến mình thành bất tử. Odysseus giữ vững ý định trở về với Penelope thế nhân. Không làm thế nào trốn thoát được Odysseus bực dọc, buồn bã vô cùng. Đúng lúc đó Chúa tể phái lệnh sứ Hermes tới bảo Calypso buông tha Odysseus.
Khéo léo, lanh lẹ như bao giờ, dùng cây rừng và dụng cụ nữ thần cung cấp, Odysseus đóng thuyền sống chắc, thành cao, rồi vui vẻ dong buồm lên đường, theo sao trời lèo lái trực chỉ hướng đông. Sau mười tám ngày đêm gần tới quê hương Odysseus gặp bất hạnh. Poseidon nom thấy bèn nổi bão dữ dằn. Thuyền vỡ, Odysseus chìm nổi hai ngày, có lúc hầu như chết đuối. Cuối cùng nhờ có Athena hướng dẫn Odysseus dạt vào cửa sông hải đảo Scheria, xứ sở trù phú của người Phaiakian. Nơi này không phải Ithaka, nơi này là quê hương sắc tộc tử tế, hiền lành. Nom thấy tiều tụy mà chạnh lòng thương hại, con gái quân vương, thiếu nữ xinh đẹp Nausikaa dẫn về hoàng cung gặp thân phụ. Tới nơi trước mặt quân vương Alkinoos, hoàng hậu Arete và quần thần im lặng, ngạc nhiên, Odysseus kể chuyện lênh đênh, khốn khổ liên tục mười năm.
Chuyện Odysseus kể trong cung điện quân vương Alkinoos là chuyện phiêu lưu đầu tiên trong văn học châu Âu, tình tiết ly kỳ, bối cảnh khác biệt, tưởng tượng mãnh liệt, từ đó đến nay chưa có chuyện nào cùng loại có thể sánh kịp. Chất liệu để xây dựng Homer rút ra từ trường ca kể sự tích anh hùng tham gia viễn chinh đánh chiếm thành Troa, thi sĩ ca công thế hệ trước ông biểu diễn, ngâm vịnh và phần riêng ông sáng tác bao nhiêu không ai rõ. Theo lời ông sau biến sự, thời gian chưa quá mười năm, nhiều thi sĩ kể chuyện ngựa gỗ, thành Troa thất thủ, số phận oan nghiệt xảy ra với nhiều chiến binh. Mấy dòng mở đầu trường ca cho thấy Odysseus là người lang thang góc biển chân trời trước khi trở về mái ấm gia đình. Lạc vào thế giới kỳ diệu phương Tây, chạm trán với siêu lực rùng rợn, nguy hiểm, chi tiết đó có lẽ là một phần trong huyền thoại Odysseus mà Homer chọn làm chủ đề. Nhưng hình thức độc đáo truyền lại mai sau chắc chắn do thi hào sáng tạo.
Phần đầu cuốn Địa-lý hoàn tất năm 23 SCN miêu tả dân tộc cùng xứ sở người Hy-lạp biết dưới thời Augustus Caesar, hoàng đế đầu tiên của đế quốc La-mã, nhà địa lý kiêm sử học Hy-lạp Strabo, sống gần thời với Giê-su, nghiên cứu tường tận Địa-trung-hải, cho rằng Homer biết phương Tây và nơi chốn nhân vật của ông đặt chân tới là qua người Phoinician. Địa danh ông dùng đôi khi cho thấy đó là tiếng Hy-lạp dịch từ tiếng Semite, tiếng nói của mấy dân tộc mạn tây nam châu Á. Miêu tả hình ảnh đặc thù, nét vẻ địa phương như xoáy nước Charybdis gần eo biển Messenia, hải đảo lộng gió Aiolia ngoài khơi đảo Sicile, mũi đất nhô ra che lấp bến cảng Lamos phía bắc Sardinia, cánh đồng ngò tây gần eo biển Gibraltar, chắc hẳn ông dựa vào nhật ký hàng hải của hoa tiêu phát xuất từ Sidon hoặc Tyre. Ngọn núi người Ý gọi là Monte Circeo nhô cao từ đồng lầy phía bắc vịnh Naples tàu buôn đi qua nom thấy tưởng lầm là hải đảo, Homer miêu tả đó là Aiaia, tiếng Semite nghĩa là “ưng biển”, tên này nghĩa như chữ Circe (hoặc Kirke) tiếng Hy-lạp, ám chỉ yêu phụ kiều diễm, sắc đẹp mê hồn dùng ma dược biến đồng hành của Odysseus thành heo. Cảnh trí triển diễn trước mắt tay chèo coi như hiện tượng thông thường, Homer nhìn như sinh vật hiểm độc. Hang ngầm Skylla nguy hiểm, nhìn từ xoáy nước Charybdis, dưới mắt ông là quái vật sáu đầu nhô ra ngoạm sáu tay chèo bứt khỏi lòng thuyền, họ kêu la giãy giụa, Odysseus nắm chặt giật lại, song không ăn thua. Hình thù khổng lồ, mắt tròn xoe rực lửa từ đó đá bay ra rơi xuống biển, đối với ông không phải núi lửa Vesuvius cao 1280m mà là yêu tinh khổng lồ, phát điên vì đau đớn, Odysseus cầm chày gỗ thọc nát mắt. Ngồi trên cồn đá chênh vênh, chồng chất xương người, yêu nữ Seirên thay nhau cất tiếng ca hát, giọng dìu dặt, lời du dương, điệu lả lướt lôi cuốn tay chèo vô tình đưa vào cõi chết. Vì thế khám phá của Odysseus, căn cứ vào nhật ký hàng hải của thương nhân Phoinician, diễn ra trong khung cảnh có vẻ ít sự kiện hiện thực, song nhiều hư cấu tưởng tượng của thi sĩ kể chuyện tài tình. Trong bộ Les Navigations d’Ulysse (Hải trình của Odysseus), 1927-1930, bốn cuốn, tái bản năm 1971, học giả kiêm dịch giả Pháp Victor Bérard phân biệt khá tường tận đâu là cụ thể, đâu là tưởng tượng Homer kể trong thi tập.
Tuy nhiên, dù phải kinh qua nguy hiểm, kinh hoàng khó lường đến đâu trong khi lạc đường, lang thang qua thế giới trong đó xuất hiện độc dược, dã nhân, thần linh quá quắt, Odysseus vẫn bình tĩnh, táo bạo, kiên cường như ở trong thế giới con người bình thường. Sợ bị mang tiếng là thối chí, ngã lòng, trí tò mò muốn khám phá thúc đẩy, Odysseus cố phát hiện lối sống, nhà ở, bếp núc nơi xa lạ. Vì vậy Odysseus gặp trắc trở khủng khiếp. Tới lúc dạt vào đảo gặp Calypso, Odysseus vẫn tìm cách tháo gỡ mối bòng bong để giải thoát bản thân và đồng đội. Chỉ khi yêu phụ Circe bảo nên xuống âm phủ tới cung điện Diêm Vương gặp thầy đoán Teiresias xin ý kiến, Odysseus mới rùng mình, nổi da gà, sởn tóc gáy. Cung điện Diêm Vương hình như không hiện hình trên hải đồ hoa tiêu Phoinician. Nhưng nằm ở ven biển mạn tây trái đất, chắc hẳn cung điện cũng không xa vùng đất người Hy-lạp xây nhà ở cho người quá cố. Rời đảo yêu phụ mới một ngày Odysseus đã tới đó do trận gió đặc biệt nổi cơn thổi ác liệt. Đặt chân lên bãi cát, sóng biển bao quanh trái đất tràn vào vỗ đập liên hồi, Odysseus thấy mình bước đi trên xứ sở ướt át, lạnh lẽo, buồn thảm, tang tóc, cây cối xơ xác tàn lụi, sông suối gào thét ầm ầm, đêm dài bất tận. Nhưng sau đó Odysseus điều động hết sức tài tình hồn ma ùn ùn kéo tới bu quanh, chỉ cho hồn ma mình chọn uống máu cừu mình cắt chảy xuống hố sâu để hồn ma có sinh lực nhận ra mình rồi nói chuyện.
Ngoại trừ thầy đoán Teiresias, nhiều hồn ma là nhân vật lẫy lừng trong quá khứ Odysseus thấy ở đó. Thoạt tiên đoàn phụ nữ nhan sắc, nổi danh, phu nhân thần linh, thân mẫu anh hùng, trong số có cả mẹ đẻ chết vì buồn do mất con xếp hàng đi qua. Tiếp theo nhóm thủ lĩnh, quân vương, đồng đội tham gia bao vây thành Troa: Agamemnon, Achilleus, Patroklos, Aias. Odysseus nán lại nói chuyện, song lại thấy hồn ma quan tòa Minos từng tuyên án trừng trị vì tội ác họ gây ra. Odysseus cũng hy vọng thấy vài hồn ma lờ mờ, xa xa, những người đã chết từ lâu, như Theseus, con cái thần linh. Nhưng trừ lúc uống máu sẽ khiến thân thể ấm áp, mạnh mẽ, sống lại chốc lát, họ đều là hình bóng xanh xao, nhợt nhạt, thiểu não, buồn rầu như ngày trước. Achilleus vẫn giữ hào khí thuở nào hả hê khi nghe Odysseus kể con trai dũng cảm. Nhưng tướng quân lại nói theo tướng quân thà là người tầm thường chân lấm tay bùn làm việc nhọc nhằn, cực khổ trên trần gian còn hơn làm quân vương lừng danh trị vì người quá cố! Trong khi đó hàng ngàn, hàng vạn hồn ma chưa nếm máu vừa bu quanh vừa khóc lóc, tiếng nức nở không phải tiếng thế nhân. Bởi thế rùng mình hết hồn, bỗng dưng lo sợ quái vật Gorgon, hình thù gớm ghiếc, sẽ từ nơi sâu thẳm nhô lên trước mặt biến mình thành đá, Odysseus vội vã quay về thuyền. Đặt chân lên đảo cũng như tay chèo, Odysseus đói meo vì yêu phụ Circe chẳng thèm đếm xỉa. Sự thể thật rùng rợn đối với người đã để mắt nhìn hồn ma mình sẽ thế nào, đời mình sẽ đương nhiên chấm dứt, bản thân sẽ chết hai lần như yêu phụ nói. Ngoài nơi này còn nơi khác người qua đời có thể tới. Menelaos đã được hứa trong tương lai sẽ lên miền lạc cảnh, nơi gió hây hây, cuộc sống êm ả, thanh bình. Nhưng Menelaos là người hết sức may mắn, một trong muôn vàn, không phải do bản thân có gì đặc biệt, mà vì là phu quân Helen, ái nữ Chúa tể.
Odysseus dứt lời. Sảnh đường sáng rực im lặng một lúc khá lâu, không ai nhúc nhích. Đúng lúc đó Alkinoos lên tiếng. Trấn an khách lạ, quân vương nói ông sẽ tặng thuyền đặc biệt và nhiều phẩm vật quý giá, khách lạ ra về nhất định không ra về tay không. Hôm sau ông làm lễ tế sinh dâng Chúa tể, mọi người tham dự đại tiệc. Lúc màn đêm nhẹ buông Odysseus lẳng lặng xuống thuyền khua chèo chém nước ra đi. Tay chèo lèo lái suốt đêm. Odysseus ngủ mê mệt trên boong. Bình minh ló rạng, tay chèo tiến vào bến cảng đìu hiu. Khênh Odysseus nằm như khúc gỗ, tay chèo nhẹ nhàng đặt xuống bãi cát bên cạnh phẩm vật mới nhận. Odysseus không biết mình đã trở về quê hương. Trở về một mình, trở về tay không sau hai mươi năm gian lao, cực khổ ngay cả vợ cũng không nhận ra. Trước hết Odysseus phải di chuyển hết sức cẩn thận, âm thầm tìm hiểu trong nhà người nào còn tốt với mình, người nào theo kẻ thù, người nào chiếm của đoạt quyền. Chỉ sau khi thâu góp đủ sức mạnh để quật ngã kẻ thù lúc bấy giờ Odysseus mới cho mọi người biết mình là ai. Trong quá khứ đã tôi luyện kiên trì, thận trọng, điềm tĩnh bây giờ cần sử dụng để ứng phó với tình hình, thản nhiên chịu đựng châm chọc, lăng mạ đám cầu hôn thay nhau tuôn ra. May thay có thể trông cậy Athena, nữ thần bất quyện thoạt tiên biến Odysseus thành ăn mày lụ khụ, tiều tụy, rách rưới, tiếp theo đứng bên trợ giúp tới cùng.
Cải trang như thế Odysseus mò đường tới nhà Eumaios. Chuyện trò với nô bộc chăn heo chung thủy để dò hỏi, Odysseus nắm vững tình hình, biết chắc mình có thể trông cậy vào ai khi bước vào chính nhà mình. Tại đây Odysseus còn gặp Telemachos, vừa từ đất liền đặt chân lên hải đảo. Chộp ngay cơ hội hãn hữu Odysseus hé lộ cho Telemachos hay mình là ai. Sững sờ, ngẩn ngơ như mất hồn, quý tử vui mừng khôn xiết. Hai cha con bàn tính kế hoạch, theo đó bề ngoài vẫn là ăn mày đáng khinh, Odysseus lần bước giữa đám cầu hôn say bét nhè trong khi Telemachos tìm cách che đậy khéo léo mang vũ khí từ sảnh đường vào kho chứa bên nhà. Bây giờ chỉ cần làm sao có cơ hội cây cung rơi vào tay Odysseus! Penelope bảo gia nhân đem vũ khí khổng lồ ra để các cầu hôn thi bắn tranh tài. Tranh nhau biểu diễn, không cầu hôn nào có thể kéo dây. Odysseus ngỏ ý muốn thử. Tất cả cười khẩy. Giận dữ dồn nén lâu năm cộng với tức giận mới bột phát, nâng cung như sư tử Odysseus đứng thẳng trố mắt nhìn đàn bò ngơ ngác, khiếp đảm. Nhờ có Telemachos, Eumaios và nô bộc chăn bò tín cẩn trợ giúp, Odysseus bắn chết tất cả ngay trong sảnh đường, bàn ghế lật đổ tứ tung, ly tách rơi vỡ tan tành. Tỳ nữ đám cầu hôn hủ hóa bấy lâu gọi tới mang xác chết ra ngoài, lau chùi máu đổ lênh láng, rồi phun lưu huỳnh tẩy uế sạch sẽ. Sau đó cả bầy bị treo cổ ngoài vườn. Vú già Eurykleia vừa định cất tiếng hát mừng thắng lợi trước đống xác người, Odysseus chặn ngay: “Vui mừng trước xác chết là việc làm báng bổ, thô bạo. Do thần linh phán quyết chúng gục chết. Chúng bỏ thây vì tội ác chúng gây nên.” Odysseus hiểu chết nghĩa là gì.
Bây giờ mọi chuyện đã qua, chỉ còn nhận mặt và vui mừng. Muốn tỏ ra bặt thiệp và hiếu khách khi người lạ tới nhà, Penelope sai vú già rửa chân cho hành khất cao niên. Nhìn vết sẹo trên chân vú già nhận ra chủ cũ khi còn nhỏ đi săn bị heo rừng vồ. Mặc dù vừa nghi ngờ vừa ngần ngại, Penelope dần dà nhận ra người đối thoại đúng là phu quân cứ nghĩ chẳng bao giờ gặp nữa. Suốt đêm nàng để tai lắng nghe chuyện Odysseus kể cho Alkinoos hay. Hôm sau Odysseus tới nông trại gặp bố, cha con nhận ra nhau, cả hai mừng rơi nước mắt. Thân nhân các cầu hôn kéo tới đòi trả thù. Athena giảng hòa hai bên. Chúa tể cũng muốn Odysseus sống hòa bình trên đảo Ithaka.
Kết cấu Odyssêy chỉ chiếm gần sáu tuần cuối cùng trong thời gian mười năm Odysseus lưu lạc. Nhưng hai đêm trong sáu tuần đó Odysseus lại sử dụng kể chuyện phiêu lưu trong mười năm vừa qua cho người Phaiakian nghe. Bởi thế trước khi đi vào kết cấu thực sự của trường ca cần bắt đầu với phần kể có tính cách giải thích. Sau khi thành Troa thất thủ Odysseus tới tấn công, cướp phá Ismaros, thành phố của người Thracian, song bị đẩy lui. Gió bắc đưa thuyền xuống Maleia, mỏm cực nam Hy-lạp. Nếu vòng nơi này an toàn thì có lẽ chỉ vài ngày là tới Ithaka, Odysseus sẽ gặp Telemachos và Penelope đang bị đám cầu hôn quấy nhiễu. Tiếc thay sự thể không diễn ra như vậy. Gió tai ác đẩy Odysseus và đồng đội suốt mười ngày. Sau đó thuyền dạt vào đảo người ăn hạt sen, hoa và hạt cây loại này kỳ diệu lắm, ăn vào là mắc chứng lãng quên. Đất hạt sen người sau suy đoán có lẽ là mạn tây Libya, nhưng rất có thể trong thời gian đó từ mũi cực nam Hy-lạp gió đã đưa Odysseus vào vùng đất thần tiên chưa có dấu chân, bóng dáng con người. Ai-cập không xa lạ với Homer. Từ Krete tới đó dong buồm ra đi chỉ mất năm ngày. Như vậy đất hạt sen ở ngoài thế giới quen thuộc đối với con người, bởi từ Maleia mất mười ngày mới tới. Từ đất này Odysseus đi tiếp tới đất người Cyclop, sắc tộc to lớn, hoang dã, man rợ. Sau này, không muốn giải thích, Hy-lạp bảo người Cyclop sống gần núi Etna trên đảo Sicile. Homer không nói rõ họ ở chỗ nào. Gặp dã nhân Cyclop, Odysseus đi vào phiêu lưu rùng rợn. Odysseus đâm mù mắt khổng lồ Polyphemos, con Poseidon. Trừng trị hành động bất chính hải thần đẩy Odysseus lang thang mười năm ròng rã, bắt chịu đựng gian khổ triền miên mới cho đặt chân lên Ithaka “cô đơn, tuyệt vọng, nhìn tận mắt cảnh đau lòng triển diễn ngay trong nhà mình.” Từ đất người Cyclop cùng đồng đội Odysseus dong buồm tới đảo Aiolos thuộc vua gió. Nơi này cũng không được xác định, chỉ biết nếu gió thuận thì sau mười ngày thuyền tới Ithaka. Odysseus ở lại đảo một tháng. Trước khi ra đi vua Aiolos cho chiếc bao trong đựng đủ thứ gió, trừ gió đưa Odysseus về quê hương. Thấy Ithaka hiện hình lờ mờ tưởng đã tới đích, đồng đội của Odysseus mở bao ra xem vì nghi có vàng, gió ùa bay đi, thuyền bị thổi trở lại đảo Aiolos. Chèo bảy ngày thuyền tới Lamos, thành phố của người Laistrygon, dân ăn thịt người. Đất của họ cũng không biết ở đâu, trừ chi tiết nói ở đó có dòng sông mang tên Artakie, chẳng rõ có phải đó là dòng sông cùng tên ở Cyzicus, thành phố tây nam Tiểu Á thuộc Mysia trên bán đảo đâm ra biển Marmara không. Người Laistrygon đập nát thuyền, trừ một chiếc, Odysseus dùng trốn tới đảo của Circe. Yêu phụ biến tất cả thành heo trừ Odysseus. Nhờ Hermes trợ giúp Odysseus cứu họ khỏi cảnh rùng rợn, ghê tởm. Sau đó Odysseus trở thành người yêu yêu phụ yêu đắm đuối. Chuyện xảy ra với người Kikon, người ăn hạt sen, người Cyclop, người Laistrygon và thần gió Aiolos chiếm gần hết năm đầu sau khi thành Troa rơi vào tay địch. Năm sau lưu lại đảo của yêu phụ, sau đó tay chèo nôn nóng muốn trở về quê hương. Yêu phụ bảo họ nên xuống âm phủ hỏi hồn ma Teiresias đường đi. Thầy đoán cho hay nếu muốn đem tay chèo trở về an toàn, Odysseus không được đụng tới gia súc thiêng liêng của thần linh Mặt Trời thả ăn cỏ trên đảo Thrinacia. Nếu gia súc bị ám hại Odysseus sẽ trở về Ithaka một mình hoặc như lời khổng lồ Cyclop cầu nguyện ‘tuyệt vọng, mất hết đồng đội, trên thuyền người xa lạ, chứng kiến cảnh đau lòng triển diễn ngay trong nhà mình.’ Quay về đảo Aiaia Odysseus gặp Circe. Yêu phụ phác họa nguy hiểm Odysseus sẽ gặp. Cùng đồng đội Odysseus tìm đường lánh xa yêu nữ Seirên, lẩn tránh đá ngầm, chạy trốn hang đá, mất mấy đồng đội, tới đảo Thrinacia, vương quốc của thần linh Mặt Trời. Lên bờ vì đói đồng đội giết gia súc ăn thịt. Xúc phạm như vậy nên bị trừng phạt, thuyền đắm, tay chèo chết hết, trừ Odysseus. Ôm bè trôi dạt mười ngày Odysseus tới đảo nữ thần Calypso. Yêu mị giữ lại không cho đi. Odysseus sống với yêu mị như người tình tám năm.
Hai năm đầu sau khi thành Troa sụp đổ đến đây được giải thích. Thời gian đó là chuyện liên hệ tới người Kikon, người ăn hạt sen, người Cyclop, thần gió Aiolos, người Laistrygon, sống trong nhà yêu phụ, xuống âm phủ, gặp yêu nữ Seirên, hang đá Skylla, dừng bước tai hại trên đảo Thrinacia. Lòng buồn rười rượi, Odysseus sống trên đảo thần tiên với Calypso tám năm. Ở Ithaka mọi chuyện dường như trôi qua êm đềm. Tới khoảng năm thứ sáu sau khi thành Troa sụp đổ mới có thay đổi. Lúc đó đám thanh niên con nhà quyền quý, thủ lĩnh hải đảo, bắt đầu để ý Penelope, thuyết phục nàng lấy mình làm chồng. Telemachos còn trẻ không biết phản ứng. Laertes quá già chẳng thể làm gì giúp đỡ. Muốn kéo dài thời gian, sử dụng phương kế trì hoãn, Penelope bịa chuyện dệt vải. Phải làm vải liệm cho xong trước khi bố chồng Laertes qua đời. Ban ngày dệt, ban đêm tháo gỡ. Đám cầu hôn sốt ruột, kéo tới nhà ăn rầm ở rề, tán tỉnh, ân ái với nữ tỳ. Sống trong nhà mình mà Penelope buồn hiu hắt, Telemachos cảm thấy bứt rứt, Odysseus vừa rầu rĩ vừa nhớ nhà trong khi nằm trên đảo của Calypso.
Với hàng lô nhân vật, quái vật, hình ảnh, cảnh trí trường ca Iliad và Odyssêy đã xâm nhập, quấn quyện trí tưởng tượng Tây phương hơn bất kể tác phẩm nào từ trước tới giờ, kể cả cuốn Kinh Thánh của Thiên Chúa giáo. Cũng như cuốn kinh vừa kể, hai thi phẩm xét tự căn nguyên không phải tác phẩm Tây phương hoặc châu Âu. Kể lại đầy đủ câu chuyện đằng sau bức màn có vẻ mâu thuẫn là đặt Odyssêy vào bối cảnh lịch sử, làm sáng tỏ mối liên hệ giữa thi phẩm với thời đại lúc đó và thời đại sau này. Trước khi đi vào chuyện cần kể ba thời kỳ lịch sử hình thành thi phẩm. Thứ nhất, cảnh trí biến sự diễn ra trường ca Homer miêu tả (cuộc chiến thành Troa) là kỷ nguyên trù phú lịch sử gọi là thời kỳ Mycenaean. Là thủ lĩnh đa số thành quốc quan trọng trên bán đảo, nói tiếng Hy-lạp buổi đầu, người Mycenaean là sắc dân sử dụng
vũ khí bằng đồng khi lâm chiến. Thời kỳ này chấm dứt khoảng giữa năm 1200-1100 TCN. Thứ nhì, nhân vật, tình tiết, khung cảnh xuất hiện trong trường ca, mặc dù phần lớn gốc gác có thể thuộc thời kỳ Mycenaean, song tiếp tục phát triển suốt giai đoạn truyền đạt truyền khẩu kéo dài ba thế kỷ từ 1100 tới 800 TCN. trong lịch sử Hy-lạp gọi là ‘thời kỳ đen tối’. Thời kỳ này trình độ văn hóa suy đồi thảm hại nên đa số sử gia tin có bộ lạc (bộ lạc Dorian) nói thổ ngữ khác thuộc tiếng Hy-lạp tách riêng đi cướp phá, chinh phục nhiều nơi trừ vài thành quốc của người Mycenaean. Sắt xuất hiện thay đồng, bánh xe lịch sử quay nhanh, tình trạng thay đổi mau chóng. Chữ viết người Mycenaean từng quen thuộc biến dạng khiến thời kỳ không còn phương tiện ghi chép. Thứ ba, Iliad và Odyssêy là tác phẩm cổ xưa được ghi chép khi người Hy-lạp lại làm quen với văn tự khoảng đầu thế kỷ VIII TCN.
Quan niệm ngày nay về ‘châu Âu’ và ‘Hy-lạp’ không đúng như thời kỳ buổi đầu vừa nêu. Khi chuyện Odysseus lang thang và chuyện Odysseus trở về được ghi lại thành văn, không ai coi các vùng đất khác biệt ngày nay xác định trên bản đồ bằng hai chữ ‘châu Âu’ là thực thể địa lý thống nhất, và cũng không ai chia sẻ gia tài văn hóa hợp nhất các dải đất đó với nhau. Dẫu thế Homer miêu tả rõ ràng nước Phoinicia (trong Kinh Thánh là Canaan, ngày nay là Lebanon) và Ai-cập như đối thủ và đồng sự lợi hại đối với vùng đất nói tiếng Hy-lạp. Trong khi Homer mặc nhiên công nhận bản chất ngôn ngữ và văn hóa phân biệt người nói tiếng Hy-lạp với người không nói tiếng Hy-lạp, tiếng nói lúc đó chia thành nhiều thổ ngữ đan kẽ, trà trộn lẫn lộn. Và mặc dù phân biệt như thế, đi trước lịch sử, Homer khẳng định Hy-lạp hình thành và thống nhất về mặt chính trị khoảng bốn trăm năm sau, dù đó là thống nhất tạm bợ do Philip II (382-336) và con ông Alexandre Đại đế (356-323) vương quốc Macedonia đại diện bộ lạc miền bắc chủ xướng, thủ lĩnh văn hóa Athens coi là man rợ, bán khai. Thế kỷ mù chữ trong thời kỳ đen tối của Hy-lạp khi chuyện Odysseus bắt đầu hình thành từ cửa miệng thi sĩ ca công dĩ nhiên sớm hơn sự hình thành nước Hy-lạp thống nhất. Khi kể chuyện Homer không có từ xứng hợp với chữ Hy-lạp ngày nay để gọi cùng lúc cư dân, ngôn ngữ, văn hóa và quốc gia. Ông gọi người ta gọi là Hy-lạp là Danaan, Argive hoặc Achaian, cả ba liên hệ với tên gọi nơi chốn có người nói tiếng Hy-lạp kéo tới sinh sống. Nói tới thế giới của Homer phải hết sức thận trọng, vì cần phân biệt với tình trạng và giả thuyết thời kỳ Hy-lạp-hóa, La-mã-hóa, Âu-châu-hóa đã vô tình ảnh hưởng đường lối đa số độc giả ngày nay tiếp cận thi phẩm. Vì chuyện đó nên câu ‘thế giới Homer’ tạo thành vấn đề: câu đó ám chỉ giai đoạn nào trong mấy giai đoạn lịch sử thi phẩm hình thành? Về vài phương diện chất liệu tạo thành thi phẩm có vẻ như bắt nguồn từ thời kỳ Mycenaean. Chẳng hạn thành quốc Pylos và Mycenae Homer xác định là vương quốc của Nestor và Agamemnon trở nên cường thịnh khoảng thời gian 1650-1400 TCN. Mốc thứ hai (1400) là thời gian tương ứng với di vật tìm thấy trong mộ phân thời Mycenaean. Khai quật năm 1879 nhà khảo cổ Heinrich Schliemann tưởng lầm là mộ phần Agamemnon. Mốc thứ nhất (1650) là thời gian thành phố của người Minoan ở Knossos trên đảo Krete, trước kia giữ vai trò quyền lực mạn đông bắc Địa-trung-hải, bắt đầu lu mờ và dường như bị người Mycenaean (dân thành phố Mycenae) đông bắc bán đảo Peloponnesos chinh phục. Hơn thế, nếu cuộc chiến thành Troa thực sự xảy ra, cuộc chiến đó xảy ra vào thời kỳ Mycenaean phát triển rực rỡ từ 1600 đến 1200 TCN, chứng liệu khảo cổ cho thấy thời kỳ phồn thịnh trong lịch sử thành Troa đã chấm dứt một cách đau thương vào cuối thế kỷ XIII TCN, học giả Tây Âu sau này không rõ do chiến tranh hay thiên tai. Vì thành Troa rơi vào cảnh điêu tàn, hoang phế khoảng từ 1100 đến 700 TCN nên hình ảnh xuất hiện trong thi phẩm, miêu tả là nơi giàu có, hùng cường, hẳn phải bắt nguồn từ thời kỳ Mycenaean (2000-1100 TCN). Dẫu vậy người sau chẳng thể miêu tả một cách chính xác thế giới Mycenaean là thế giới của Homer và cũng không thể khẳng định thi phẩm được ‘hình thành’ vào thời đó. Sau năm 1200 TCN khi văn hóa Myceanean suy thoái trầm trọng, chữ viết văn hóa đó sử dụng, dạng chữ B, bị lãng quên (đến nay vẫn chưa thấy bản văn nào theo dạng chữ đó). Lịch sử giai đoạn đó là lịch sử âm thầm, đen tối. Đó là thời gian trường ca của Homer bắt đầu thai nghén. Nhưng làm thế nào bảo tồn quá khứ Mycenaean trong thi phẩm? Và nếu bảo tồn thì bảo tồn tới mức nào? Câu hỏi đơn sơ mà hóc búa. Học giả Tây Âu trả lời ngắn gọn: trường ca sống được là nhờ bàn tay bà mụ truyền khẩu. Khoảng 1920 qua các cuộc ca hát, ngâm vịnh, do quan sát hình thức sáng tạo thi ca trực khẩu vẫn thực hiện thường xuyên trên mấy nước thuộc bán đảo Balkan, nhất là Nam Tư, học giả trẻ tuổi người Mỹ, ông Milman Parry kết luận trường ca Iliad và Odyssêy đã được sáng tác, lưu truyền dưới dạng truyền khẩu qua vô vàn thế hệ trước khi ghi lại thành văn. Theo phương thức sáng tác vừa kể, thi sĩ ca công từng quen thuộc huyền thoại, truyền thuyết ứng khẩu thành thơ ngân nga kể chuyện trước khán giả trong sinh hoạt văn hóa giải trí hàng giờ hết đêm này qua đêm khác. Để lấy cảm hứng đồng thời tạo cảm giác, thi sĩ ca công thường dựa vào câu, dòng tiền chế, âm vận theo hình thức thi ca quy ước. Lặp lại câu như ‘Rạng Đông non trẻ, ngón tay ửng hồng’, ‘Poseidon rung chuyển trái đất’, ‘lời như có cánh bay xa’ chứng tỏ Odyssêy xuất thân từ thi ca truyền khẩu gồm từ ngữ tiền chế và cú pháp công thức.
Mặt khác, cũng không nên nghĩ thi phẩm không thay đổi, chuyện Homer kể phản ánh thực trạng sinh hoạt xã hội thời Mycenaean. Thơ truyền khẩu theo công thức thay đổi theo bản chất và hoàn cảnh. Không những khi kể lại mỗi loại thay đổi đôi chút, mà vì miếng cơm manh áo thi sĩ ca công còn phải tìm đủ cách làm vừa lòng khán giả an tọa trước mặt. Cảm hứng dâng cao, thay lời đổi ý, thi sĩ ca công phải sáng tạo thế giới ý nghĩa đối với khán giả, không duy trì hay bảo tồn một cách chính xác, cứng ngắc nếp sống thuộc tiền nhân. Homer đặt chuyện của ông vào thời đại hoàng kim, ấy là quá khứ xa xôi, ngay cả đối với khán giả thế hệ đầu tiên, bằng cách khéo léo đưa vào thi phẩm phẩm chất cổ xưa như giao chiến bằng xe, vũ khí bằng đồng đã biến dạng khỏi thời đại ông sống. Việc ông làm khiến các nhà khảo cổ nại cớ khẳng định trường ca của ông không phản ánh trung thực thế giới Mycenaean. Chiến binh trong Iliad và Odyssêy chiến đấu như thời Homer: đi bộ, ném thương, cận chiến rút kiếm đâm chém. Khi bước lên xe ra chiến trường, chiến binh trong Iliad chỉ muốn chứng tỏ ta đây oai hùng. Tới chiến trường chiến binh xuống xe rút vũ khí giao chiến với quân thù. Trái lại, theo sử liệu, người Mycenaean dùng xe như pháo đài di động từ đó bắn tên nhắm thẳng quân thù. Bởi thế có học giả nghĩ họ chinh phục bán đảo Hy-lạp cơ bản là nhờ xe có khả năng áp đảo, khống chế chiến trường. Thế giới của Odyssêy không phản ánh trung thực thời kỳ Mycenaean ở chỗ xuất hiện cuối thời gian ba trăm năm không có chữ viết Homer không biết gì nhiều lối sống đã biến dạng. Hơn thế, Odyssêy cũng không phản ánh thế giới cuối thế kỷ VIII TCN khi trường ca dường như được ghi lại thành văn. Homer chỉ sáng tạo quá khứ huyền thoại, đối với ngày nay là tưởng tượng, song đối với khán giả ngày xưa là chân thực, tiếng nói phản ánh truyền thống nhằm chuyển dịch phong tục, tập quán thời mình thành hình ảnh, ước mơ mang giá trị phổ quát và ý nghĩa trường cửu.
Trái lại, tin tưởng là tài liệu chính xác về lịch sử dân tộc thuở lập quốc, kho tàng trí thức phong phú, rực rỡ người Hy-lạp trong các thành quốc coi trường ca Homer như tác phẩm quốc hồn quốc túy có khả năng rèn luyện tâm trí, thống nhất nhân tâm. Trực diện với cuộc xâm lăng vũ bão quân Ba-Tư thực hiện thế kỷ VI và V TCN, tìm tiền lệ trong huyền thoại, gạt khác biệt sang bên để đương đầu với kẻ thù chung, thành quốc lấy thi tâp làm nền tảng giáo dục thanh thiếu niên. Lý do thúc đẩy một phần vì chính trị. Tuy nhiên, ảnh hưởng sâu đậm của thi phẩm vượt xa giá trị tuyên truyền nhất thời. Quá khứ cho thấy không phải ai cũng nhắm mắt coi sáng tác của Homer là ích dụng. Trong triết phẩm Cộng Hòa (Politeia), đối thoại triết lý ra đời thế kỷ IV TCN bàn về cấu tạo và tổ chức nhà nước lý tưởng, Platon coi trường ca của Homer như đối thủ đáng gờm hơn hết trong việc giáo hóa người dân Athens: làm thế nào chỉnh lý, điều xử cuộc sống, chấp nhận cái hay, phủ nhận cái dở, công nhận giá trị chân thực của thần linh và con người. Đặc biệt khó chịu trước tác phong phi đạo đức của thần linh Homer miêu tả, không có cảm tình với cái triển diễn trước mắt, triết gia lên án thái độ tiêu cực núp bóng thi ca gợi nên cảm xúc nhớp nhúa trong tâm hồn khán giả! Thái độ hoàn toàn trực giải với đầu óc trí thức siêu việt, triết gia hầu như nhắm mắt, bịt tai đối với ý nghĩa bóng bẩy diễn tả trong thi phẩm. Mạn Tây vào hạ bán thế kỷ V sau khi đế quốc La-mã tan rã, việc bảo tồn nguyên cảo đình trệ, việc học hỏi tiếng Hy-lạp suy vi, bởi thế tiếng nói của Homer trầm lắng, im bặt đến thế kỷ XV mới ngoi ngóp, vang vọng trở lại. Suốt thời Trung cổ ở châu Âu không có thư viện nào có nguyên cảo hai trường ca. Văn chương Hy-lạp, nhất là văn chương phong phú thời kỳ cổ điển, không tồn tại ở Tây Âu dưới bất kể hình thức nào, trừ một số do ký lục triều đình Charlemagne (742-814) vô tình bỏ công lưu trữ. Mạn Đông (đế quốc Byzantin) tập trung quyền lực ở Constantinople thực hiện mọi dịch vụ bằng tiếng Hy-lạp, bảo tồn hai thi phẩm suốt thời gian tồn tại. Giữa thế kỷ VII và thế kỷ XV đạo Hồi càng ngày càng phát triển, tiến sâu lan rộng vào đế quốc, cùng thời gian Odyssêy cũng thẩm nhập huyền thoại Ả-rập mở đường cho bảy chuyến phiêu du của Sindbad trong Nghìn lẻ một đêm, trong đó thủy thủ khuất phục khổng lồ ăn thịt người bằng cách chuốc rượu rồi đâm lòi mắt. Trong khi đó trong Inferno đặt Homer trên hàng ghế danh dự trong số năm thi bá trường ca bất hủ, Dante thi sĩ Ý để Odysseus ở vòng thứ tám dưới địa ngục, vòng dành cho kẻ bịp bợm, dối lừa. Tóm lại, thi phẩm sau này coi như cột trụ xây dựng văn minh châu Âu đã văng bóng nhiều thế kỷ suốt thời gian kiến tạo văn hóa châu Âu, trừ ảnh hưởng gián tiếp thi sĩ La-mã, song về tư tưởng thẩm mỹ và đạo đức rất khác biệt. Tuy thế, việc khám phá Homer, sau khi các học giả bỏ chạy, vì Thổ-nhĩ-kỳ chinh phục chiến tuyến cuối cùng của đế quốc Byzantin năm 1453, đã tạo âm điệu đặc biệt khắp nước Ý thời Văn nghệ Phục hưng, âm điệu rền vang khắp lục địa, bây giờ vẵn còn ngân nga. Lúc thế kỷ XV từ từ chuyển bước sang thế kỷ XVI Giáo hội Ki-tô rạn nứt, chia thành giáo phái, bề ngoài cũng như bên trong, luôn luôn hục hặc, chống đối, kình địch lẫn nhau. Người châu Âu phát triển tầm hoạt động cả về địa lý lẫn khoa học, nhờ thế nhìn thế giới khác xưa, song tầm nhìn dường như vẫn chưa xuyên suốt để giải thích sự việc. Cùng thời gian chính quyền phong kiến địa phương liên hiệp kết hợp thành quốc gia. Trong thế giới như vậy bản chất và uy quyền trở thành vấn đề nhức nhối cần giải quyết dứt khoát. Tiêu chuẩn theo đó người dân quyết định họ là ai, họ làm gì trong cộng đồng không còn lý do tồn tại. Bởi thế vấn đề minh định bản thân, duy trì trật tự xã hội sẽ xác định năm trăm năm giữa lúc đó và bây giờ. Và bởi thế câu nói ‘châu Âu thời mới’ hàm ý tình trạng tiếp nối thời trước với thời nay nhiều sử gia Tây Âu đã thay bằng chữ ‘tái sinh’ hoặc ‘phục hưng’. Dù sao từ mới sử dụng ở phương trời ấy cũng thừa nhận thế kỷ XV là khởi đầu kỷ nguyên mới. Nên chỉ theo nghĩa nào đó lúc thế giới mới chào đời cũng là lúc Odyssêy tái sinh. Ngày nay đọc thi phẩm, mạn đàm của thi phẩm về vấn đề uy quyền và bản chất vẫn là sức mạnh lôi cuốn khác thường.
Odyssêy dài 12.110 câu chia thành 24 khúc, dài ngắn khác nhau, ngắn nhất 331câu (khúc 6), dài nhất 847câu (khúc 4), đánh số theo chữ thường từ alpha đến omega. Nội dung thi tập theo bố cục từng khúc có thể tóm lược như sau:
Khúc 1 (444 câu). Thi sĩ cất tiếng khẩn cầu Thi Thần. Chủ đề thi tập là ‘người trăm phương nghìn kế’ (1-10). Theo yêu cầu của Athena, trong khi hải thần Poseidon vắng mặt, thần linh họp hội đồng, Chúa tể quyết định để Odysseus trở về quê hương (11-95). Giả dạng là Mentes, quân vương người Taphian, Athena đến Ithaka. Telemachos tiếp đón nồng hậu. Muốn nâng cao tinh thần ủ dột, nữ thần khuyến khích Telemachos đi Pylos cát bạt ngàn gặp Nestor, rồi Sparta tới nhà Menelaos dọ hỏi tin tức thân phụ (96-324). Phấn khởi hơn bao giờ Telemachos gọi mẹ Penelope lên phòng vì bà xuống đại sảnh nghe thi sĩ ca công Phemios biểu diễn, ngâm nga, sau đó báo cho đám cầu hôn hay ngày mai sẽ ra quảng trường nói rõ quyết định trước nhân dân. Màn đêm buông, mọi người ra về nghỉ ngơi, Telemachos đi ngủ, vú già cần mẫn Eurykleia lo việc chăn giường (325-444).
Khúc 2 (434 câu). Hôm sau theo lời triệu tập của Telemachos rạng đông dân Ithaka tụ tập ở quảng trường. Telemachos tỏ ý than phiền về thái độ của đám cầu hôn ăn hại, phá phách, đồng thời tuyên bố sẽ đi Sparta và Pylos tìm thân phụ. Antinoos chống đối, Penelope lập kế, Chúa tể gửi điềm triệu, Halitherses tiên đoán tốt lành, nhưng Eurymachos bẻ queo chế giễu. Bất kể Halitherses và Mentor đưa ý kiến khuyên can, đám cầu hôn nhất định không rời lãnh trang Odysseus. Không những thế mặc dù Telemachos yêu cầu họ còn từ chối cấp thuyền và tay chèo. Hội nghị giải tán (1-259). Lẳng lặng ra bờ biển, Telemachos cầu khấn Athena. Giả dạng Mentor xuất hiện nguyên hình, nữ thần hứa trợ giúp (260-298). Trở về gặp đám cầu hôn, Antinoos mời mọc một cách mỉa mai, Telemachos khước từ, song ra lệnh vú già Eurykleia sửa soạn mọi thứ để ra đi. Athena cung cấp thuyền và tay chèo (299-404). Chiều xuống. Trời tối. Thực phẩm, vật dụng sẵn sàng, tạm biệt vú già tận tụy, Telemachos xuống thuyền rời Ithaka cùng Athena-Mentor ra khơi âm thầm trực chỉ Pylos (405-434).
Khúc 3 (497 câu). Tới Pylos trong lúc dân sở tại làm lễ tế sinh ngoài bãi biển dâng hải thần Poseidon, Athena và Telemachos được đón tiếp ân cần (1-66). Đáp lời Nestor vặn hỏi Telemachos nói mục đích chuyến đi, cùng lúc xin lão công cho biết có hay tin gì về thân phụ không (67-101). Nestor kể thử thách, gian nan, nguy hiểm, cực khổ quân lính Achaian gánh chịu trước thành Troa và trên đường trở về quê hương, song không hay biết gì về Odysseus (102-200). Trò chuyện thân mật hai người nói tới đám cầu hôn, cơ may trả thù và Odysseus trở về (201-238). Do Telemachos yêu cầu Nestor giải thích làm sao việc Menelaos vắng nhà lại tạo điều kiện cho việc mưu sát Agamemnon (239-328). Sau khi làm lễ tế sinh dâng thần linh, Nestor mời khách quý ở lại nghỉ đêm, Athena khước từ (329-370). Nữ thần biến dạng thành con chim. Nhận ra khách quý là thần linh Nestor quyết định cúng bái (371-403). Sáng hôm sau lão công làm lễ tế sinh dâng nữ thần (404-463). Sau bữa ăn theo nghi thức, cùng Peisistratos con út chủ nhân, Telemachos lên xe nhắm hướng Sparta, nghỉ đêm ở Pherai, hôm sau đi Lakedaimon (464-497).
Khúc 4 (847 câu). Chiều tối hai người tới Lakedaimon, đúng lúc Menelaos tổ chức đám cưới, dựng vợ cho con trai, gả chồng cho con gái. Quân vương tiếp đón nồng hậu (1-67). Telemachos ngây ngất trước vẻ đẹp cung điện vừa lộng lẫy, vừa nguy nga khiến quân vương kể lại ông sở hữu của cải như thế nào. Trong lúc chuyện trò ông khẳng định trong số đồng đội ra đi rồi trở về ông thương tiếc Odysseus hơn cả (68-112). Telemachos rơm rớm nước mắt. Menelaos và Helen nom thấy (113-154). Peisistratos nói rõ lý lịch hai người, đồng thời giải thích mục đích chuyến đi. Menelaos bày tỏ tiếc nuối, mọi người xúc động khôn nguôi, trừ Peisistratos (155-234). Helen mời nước, dược chất népenthès thơm phức nhằm xua đuổi kỷ niệm đau buồn, rồi kể lại thái độ can trường của Odysseus, Menelaos hồi tưởng chuyện ngựa gỗ, chiến công Odysseus thực hiện, sau đó mọi người đi ngủ (235-305). Hôm sau, Telemachos tỏ ý muốn biết tin thân phụ. Menelaos bắt đầu kể lại những gì ông biết về người vắng mặt, tiên đoán đám cầu hôn sẽ chết, bản thân trở về quê hương (306-350). Tới Ai-cập được nữ thần biển cả Eidothea giúp đỡ, gặp Proteus nhờ thế ông có cơ may vặn hỏi, Ông già Biển cả kể lại thủ lĩnh Achaian trở về sum họp gia đình, Aias con Oileus đắm tàu, Aigisthos ám sát Agamemnon (351-547). Odysseus còn sống, song bị nữ thần biển cả Calypso giữ gịt trên đảo (548-569). Telemachos ngỏ ý muốn trở về Ithaka. Tỏ lòng hiếu khách Menelaos trao tặng phẩm, Telemachos đón nhận (570-624). Trong thời gian đó vì hay Telemachos trốn đi, đám cầu hôn rủ nhau mai phục đón đường thanh toán (625-674). Ở nhà đã lo lắng lại buồn rầu, do biết đám cầu hôn âm mưu thực hiện ác ý, theo lời vú già, Penelope cầu nguyện Athena (675-794). Nữ thần phái bóng ma giả dạng Iphthime, vợ Eumelos, em Penelope, đến an ủi (795-841) đưa Penelope vào giấc mơ êm đềm. Đi phục kích, đám cầu hôn hy vọng nhìn tận mắt Telemachos gục chết (842-847).
Khúc 5 (493 câu). Thần linh lại họp hội đồng. Theo lời Athena cầu xin, Chúa tể quyết định để Odysseus trở về (1-42). Hermes đem lệnh trao Calypso bắt trả tự do cho tù nhân (43-147). Đứng không xa thần động là bao, đứng lẻ loi một mình, không sao cầm nổi nước mắt, Odysseus bật khóc. Nói rõ sự thể, nữ thần biển cả ngỏ ý biến đương sự thành bất tử, cùng lúc theo lệnh Chúa tể bảo đương sự đóng thuyền, song tìm đủ cách giữ lại sống với mình (148-227). Trong bốn ngày Odysseus đóng xong, sang ngày thứ năm ra đi, đến ngày thứ mười tám tới gần đất người Phaiakian (228-281). Bất đồ nhìn thấy hải thần Poseidon nổi phong ba nhấn chìm thuyền, giết sạch tay chèo, trừ Odysseus (282-332). Lênh đênh trên biển cả, nhờ nữ thần Leucothea (tức Ino) hộ mệnh (333-353) bám chặt sống thuyền Odysseus thoát hiểm. Chèo gãy phải bơi vào bờ, nhờ cánh buồm Leucothea đưa cho và Athena dang tay che chở, nhìn thấy đất liền, Odysseus lên đảo Scheria (354-423). Bờ biển lởm chởm khó leo, cố gắng hầu như tuyệt vọng, cuối cùng dạt vào cửa sông, Odysseus mò lên rừng nằm nghỉ dưới lùm cây rậm rạp, lấy lá khô phủ kín thân thể, lịm ngủ vì kiệt sức (424-493).
Khúc 6 (331 câu). Athena xuất hiện trong giấc mơ khuyên Nausikaa, con gái Alkinoos, quân vương người Phaiakian, nên ra sông giặt quần áo cho gia đình (1-47). Sáng ra thiếu nữ xin phép bố dùng xe la kéo và đem nữ tỳ đi theo (48-84). Giặt giũ, xuống sông tắm rửa xong xuôi, mấy thiếu nữ lên bờ chơi bóng chuyền, tiếng cười đùa khiến Odysseus tỉnh giấc (85-126). Nausikaa vào rừng xem khách lạ là ai. Luống cuống, khó xử trước thiếu nữ nhan sắc trong khi mình trần truồng, vội vàng lấy lá khô che thân, đứng cách xa Odysseus ngỏ lời xin giúp đỡ (127-197). Nausikaa bảo nữ tỳ đem quần áo và thực phẩm cho khách lạ (198-250). Sau đó Nausikaa cùng nữ tỳ ra về. Odysseus đi theo tới ven thành phố (251-315). Nhưng sợ cùng đi như thế sẽ bất tiện, Nausikaa đề nghị khách lạ vào rừng chờ lúc thuận tiện tới hoàng cung diện kiến hoàng hậu Arete. Vào rừng âm u, cây cối um tùm, rậm rạp, Odysseus khấn vái, cầu xin Athena phù hộ (316-331).
Khúc 7 (347 câu). Nausikaa về tới cung điện cũng là lúc Odysseus vào thành phố, lẩn mình trong sương mù theo bước thiếu nữ dẫn đường (Athena), ngẩn ngơ trước vị trí đặc biệt, kiến trúc ngoạn mục, nhất là hoàng cung và ngự uyển (1-132). Đi qua đại sảnh vào nội cung yết kiến hoàng hậu Arete, Odysseus thấy hoàng thân và thủ lĩnh Phaiakian tụ tập đông đảo trong cung điện, tất cả để mắt nhìn, im lặng và ngạc nhiên. Trưởng thượng Echeneos trịnh trọng giới thiệu, quân vương Alkinoos vừa ngỏ lời chào đón vừa đưa tay đỡ dậy. Thầm nghĩ khách lạ có lẽ là thần linh, quân vương hứa sẽ đưa về quê hương (133-232). Mọi người ra về, hoàng hậu hỏi chuyện: Chẳng hay mặc quần áo vừa đưa khách lạ thấy thế nào? Đáp từng lời, khách lạ nói lý do, tiếp theo kể gian truân, thuyền chìm, đồng đội chết hết, lên đảo ở với yêu mị Calypso bảy năm. Lúc khách lạ rời đảo Ogygia, biển vẫn nổi sóng dữ dằn, thuyền trôi dạt biền biệt. Nghe mà xúc động, quân vương lại khẳng định người Phaiakian sẽ đưa khách lạ trở về quê cha đất tổ, cùng lúc ngỏ ý muốn gả con gái. Màn đêm buông, mọi người đi ngủ (233-347).
Khúc 8 (586 câu). Giả dạng lệnh sứ Athena kêu gọi người Phaiakian ra gặp khách lạ. Sáng hôm sau triệu tập hội nghị, quân vương Alkinoos chỉ thị bầy tôi lo việc đưa khách lạ ra về (1-45). Trong khi sửa soạn thuyền cụ và mọi thứ cần thiết cho chuyến đi, cung điện tổ chức đại tiệc. Thi sĩ ca công Demodokos trình diễn, bắt đầu ca khúc miêu tả xích mích giữa Odysseus và Achilleus, rồi đến ca khúc kể chuyện cuộc chiến thành Troa, Odysseus xúc động khôn xiết, lệ tuôn ướt gò má. Nom thấy bèn an ủi, quân vương mời thực khách trở lại quảng trường tham dự cuộc đua tranh tài lực sĩ (46-103). Qua vài thử thách Euryalos cười khẩy tỏ ý giễu cợt; thái độ lỗ mãng của thanh niên khiến Odysseus quyết định tham dự. Ném đĩa Odysseus thắng tất cả. Bộ môn khác cũng vậy Odysseus bỏ xa đối thủ người Phaiakian. Không khí căng thẳng. Muốn xoa dịu tức giận trong lòng lực sĩ, quân vương ra lệnh vời thi sĩ ca công tới biểu diễn (104-265). Demodokos cất tiếng ngân nga ca khúc kể chuyện mối tình giữa thần linh chiến tranh Ares và giai thần tuyệt mỹ Aphrodite (266-366). Tiếp theo là khiêu vũ. Nhìn mọi người dặt dìu, thân hình nhịp nhàng nhún nhảy, Odysseus cảm thấy thích thú, mê mẩn. Quân vương giục hoàng thân và thủ lĩnh đem phẩm vật tặng khách lạ, làm vậy là muốn Euryalos giải hòa. Chiều bắt đầu buông. Mọi người trở lại cung điện. Nausikaa rảo bước tới chào Odysseus lần cuối (367-469). Dạ tiệc kết thúc. Demodokos hát bài ngựa gỗ thành Troa. Vì thấy khách lạ che mặt, nước mắt từ từ ứa ra, quân vương bèn hỏi tên tuổi và lý do vì sao nhỏ lệ (470-586).
Khúc 9 (566 câu). Sau khi ngỏ lời tán thưởng thi sĩ ca công, khách lạ xưng tên và nói rõ xứ sở cho người Phaiakian hay, đoạn kể chuyện phiêu lưu từ lúc rời đất Troad trở về quê hương (1-38). Gồm bốn khúc (từ 9 đến 12) phần này chiếm vai trò chính yếu trong thi phẩm và vị trí đặc biệt khách lạ vượt biển tuyệt vời nắm giữ. Khách lạ rời biển lên bờ đất Thrace, cướp phá thành phố Ismaros, bị người Kikon phản công đánh đuổi phải chạy thục mạng xuống thuyền. Lênh đênh trên sóng nước gặp gió nghịch chiều thổi như muốn nhận chìm, tới mũi Maleia định vượt, sau chín ngày ròng rã trên mặt biển, khách lạ dạt vào đất người ăn hạt sen, thực phẩm kỳ lạ ăn vào là mắc chứng lãng quên, mất ý định muốn trở về (39-104). Sợ mắc căn bệnh rùng rợn, vội vàng bỏ đi, khách lạ tới đảo đối diện đất người Cyclop (105-169). Để mười một thuyền ở lại, lấy một thuyền ra đi cùng mười hai đồng đội, khách lạ vào hang động Polyphemos, khổng lồ đã ăn thịt nhiều người, trong hai ngày nuốt tươi sáu tay chèo vừa tới, bắt giam tất cả. Nhưng chiều tối ngày thứ hai, tìm cách hạ thủ, chuốc rượu cho say, khách lạ đâm nát mắt, khổng lồ độc nhãn không nom thấy gì. Mù đặc, lồng lộn như điên như cuồng, khổng lồ kêu gọi thân phụ hải thần Poseidon cứu nguy (170-436). Sáng sớm hôm sau khách lạ cùng đồng đội vội lẻn xuống thuyền. Ra khơi khách lạ ‘vô danh’ quay lại cất tiếng cả cười chế nhạo khổng lồ đang loay hoay sờ soạng kiếm tìm đá tảng để đập nát mũi thuyền (437-566).
Khúc 10 (574 câu). Tới đảo thuộc quyền Aiolos, Odysseus và đồng hành được vua gió hiếu khách tiếp đón niềm nở, không những thế lại chỉ đường trở về. Nhưng do tò mò muốn tìm vàng bạc, tay chèo mở túi xem bên trong đựng gì, gió nghịch chiều vùn vụt bay đi, phong ba đổ tới, thuyền dạt trở lại đảo Aiolos, vua gió bất bình từ chối giúp đỡ (1-76). Odysseus và đồng hành đành nhổ neo, tới đất người Laistrygon, dân ăn thịt người, đến nơi mười một trong số mười hai thuyền bị sóng đánh chìm, tay chèo chết hết, vật dụng mất nhẵn (77-132). Odysseus quay thuyền trực chỉ đảo Aiaia, quê hương yêu phụ Circe. Sáng ngày thứ tư Odysseus phái mấy tay chèo do đồng hành thân tín Eurylochos dẫn đầu đi dò la tin tức, tìm hiểu tình hình. Gặp yêu phụ vốn là phù thủy cao tay, nàng cho tất cả uống thuốc lú, sau đó biến tất cả thành heo, trừ Eurylochos trở về kể đầu đuôi sự thể cho Odysseus hay (133-273). Nhờ thần linh lệnh sứ Hermes trợ giúp cho uống dược chất lấy từ cây môlu, cây kỳ diệu rễ đen, hoa trắng, có khả năng vô hiệu hóa mọi bùa phép yêu phụ yểm đặt, Odysseus giải thoát đồng hành trở lại thành người, không những thế còn chiếm được cảm tình vì yêu phụ muốn là người yêu muôn thuở (274-405). Ở lại đảo một năm, sau thời gian đó, tay chèo đòi về. Đồng ý, song yêu phụ nhẹ lời khuyên nhủ nếu quả thực muốn vậy trước hết Odysseus nên xuống âm phủ hỏi thầy đoán Teiresias đường đi nước bước. Hơn thế yêu phụ còn chỉ cách gọi hồn ma người quá cố (406-540). Đêm trước ngày ra đi bất đồ Odysseus mất tài công Elpenor, ngã từ nóc nhà lãnh trang rơi xuống đất, giãy đành đạch, chết đứ đừ (541-574).
Khúc 11 (640 câu). Đến xứ người Kimmerian, bước vào âm phủ, Odysseus cắt tiết vật tế thần cho máu chảy xuống hố vừa đào (1-50), kêu gọi hồn ma và ngỏ lời với Elpenor. Hồn ma đồng hành lù lù xuất hiện nằng nặc đòi mai táng, dựng mộ phần (51-83). Tách xa mẹ (83-89) Odysseus để tai lắng nghe thầy đoán Teiresias tiên báo thử thách, gian nan đang chờ đợi (90-149). Gặp thân mẫu bà nói cho hay tình hình đảo Ithaka (150-224). Sau bà hàng loạt mệnh phụ lừng danh hiện hình (225-332). Đàm đạo với Arete, Echeneos, Alkinoos, ba người yêu cầu Odysseus hoãn chuyến đi, ngày mai hãy lên đường, thay vì thế tiếp tục kể chuyện cho mọi người cùng hay (333-384). Odysseus kể đã chuyện trò với Agamemnon (385-464), Achilleus (465-540) và Aias lúc nào cũng im lặng vì lòng còn mang mối hận khó quên (541-567). Tiếp theo là miêu tả địa ngục trong đó có quan tòa Minos, thợ săn Orion, khổng lồ Tityos, hung thần Tantalos, quân vương Sisyphos, xạ thủ Herakles (568-626). Cuối cùng thấy người quá cố kéo tới ùn ùn, mỗi lúc một đông, bất giác hoảng sợ, Odysseus vội vàng quay về thuyền, rồi lẳng lặng xuống sông Đại Dương (627-640).
Khúc 12 (453 câu). Trở lại đảo Aiaia, Odysseus làm lễ mai táng tưởng nhớ Elpenor; yêu phụ Circe giải thích, chỉ lối nên theo, song báo động nguy hiểm Odysseus sẽ gặp trên đường trở về (1-141). Ra đi mới đầu thuyền xuôi gió thuận, về sau tới vùng yêu nữ Seirên, thuyền gặp trắc trở. Bỗng dưng tiếng hát đượm vẻ dụ hoặc, dối lừa, lôi cuốn quyết liệt, quyến rũ khác thường ngân vang, dẫu vậy bản thân không mảy may xao xuyến, Odysseus bảo đồng hành tất cả lấy sáp ong bịt kín lỗ tai, lấy thừng trói chặt mình vào cột buồm (142-200). Tới hải đảo nằm giữa hai chướng ngại rùng rợn, theo lời yêu phụ Circe khuyên nhủ, Odysseus lái thuyền gần hang ngầm Skylla để tránh xoáy nước Charybdis. Thuyền băng qua an toàn, nhưng quái vật Skylla nuốt mất sáu đồng hành (201-259). Thuyền tới đảo Đinh Ba thuộc quyền thần linh Mặt Trời. Nhớ lời thầy đoán Teiresias tiên báo, Odysseus chỉ ngừng lúc Eurylochos khẩn thiết yêu cầu (260-302). Gió ngược chiều ngăn không cho tiến tới, thuyền phải dừng một tháng trong bến đậu Messene khuất kín, đồ ăn thức uống cạn dần. Đúng lúc đó, trong khi Odysseus thiếp ngủ, đồng hành bắt bò của thần linh Mặt Trời làm thịt (303-373). Nổi giận vì hành động lỗ mãng, táo tợn, vả lại thần linh Mặt Trời lại yêu cầu, bèn ra tay trừng phạt, Chúa tể nổi bão đánh chìm thuyền, tất cả chết, chỉ có Odysseus thoát hiểm. Quay lại hang ngầm Skylla và xoáy nước Charybdis, Odysseus lách qua hải lộ, chuyển dòng mất chín ngày, cuối cùng nhờ gió nam thổi mạnh dạt tới đảo Ogygia, lên bờ yêu mị Calypso tiếp đón niềm nở; chuyện Odysseus kể cho người Phaiakian nghe kết thúc (374-453).
Khúc 13 (440 câu). Nghe chuyện Odysseus kể cử tọa vừa kinh ngạc vừa thán phục. Thấy thế quân vương Alkinoos vời thủ lĩnh, hoàng thân tỏ lòng hiếu khách tặng thêm phẩm vật, rồi sửa soạn thuyền đưa khách lạ về quê hương. Chiều hôm sau, sau lễ tế sinh và yến tiệc, Odysseus xin phép cáo lui. Ban đêm trong lúc ngon giấc Odysseus được tay chèo Phaiakian đem xuống thuyền chở về Ithaka (1-92). Tới đảo nằm giữa hai bến tay chèo men theo ven biển trước khi cập cảng Ông già Biển cả (Phorkys), sau đó đưa khách lạ lên bờ cùng tặng phẩm. Thấy trở về, không xa bến đậu, nổi giận vì người Phaiakian ra tay trợ giúp khách lạ, hải thần Poseidon tức thì biến chiếc thuyền thành khối đá. Người Phaiakian chấm dứt nhiệm vụ lái thuyền đưa đường (93-184). Tỉnh dậy không nhận ra xứ sở Odysseus thầm nghĩ bị đánh lừa. Thấy vậy Athena bèn lấy sương mù bao phủ. Nữ thần hiện hình dưới dạng mục phu trẻ tuổi. Phần mình, do nghi ngờ, Odysseus muốn biến thành người đảo Krete ham thích phiêu lưu (185-286). Hiện nguyên hình nữ thần cho khách lạ biết mình là ai, đoạn đánh tan sương mù. Odysseus cúi chào quê hương (287-360). Athena gợi ý trước hết Odysseus nên tới nhà nô bộc chăn heo Eumaios, từ đó đến nay vẫn một lòng một dạ, tiếp theo cải trang giả dạng Odysseus là ăn mày (361-438). Sau đó nữ thần lên đường tới Lakedaimon để đưa Telemachos trở về (439-440).
Khúc 14 (533 câu). Odysseus lóp ngóp mò tới nhà Eumaios, suýt nữa bị chó cắn nát thây, ngôi nhà đơn sơ, tiều tụy (1-47). Tỏ lòng hiếu khách tiếp đón niềm nở, nô bộc soạn bữa ăn thanh đạm mời khách lạ, trong lúc ăn thốt lời than phiền, chỉ trích cung cách cao ngạo của đám cầu hôn, lo sợ tính mạng Telemachos không an toàn, đặc biệt tỏ ý thương tiếc chủ nhân chẳng hiểu vì sao đi biền biệt (48-108). Giả dạng người đảo Krete ham phiêu lưu mạo hiểm, khách lạ khẳng định rồi ra thế nào Odysseus cũng trở về, bởi mới nghe tin lúc ở Thesprotia (109-161). Nghe vậy thì nghe, kể cả lời thề thốt, song trong thâm tâm nô bộc không tin chút nào (162-190). Odysseus liền thác lời kể chuyện phiêu lưu, nửa phần hư cấu, nửa phần hiện thực. Odysseus nói trong lúc lang bạt kỳ hồ nay đây mai đó góc biển chân trời có để ý theo dõi, dò la tin tức người vắng mặt (191-359). Nô bộc lại tỏ ý không tin. Dẫu vậy khách lạ vẫn khẳng định sự thật (360-408). Từ cánh đồng mục phu xua đàn trở về; nô bộc giết heo làm bữa tối, xử sự đúng cung cách người cha gia đình (409-456). Vì mùa đông bắt đầu trời trở lạnh, muốn thử lòng, Odysseus bịa chuyện khéo léo nhằm gợi ý nô bộc cho áo ấm đắp qua đêm. Chẳng chút ngần ngừ nô bộc chiều ý thật tự nhiên, khách lạ lẳng lặng ngon giấc bên đống lửa bập bùng (457-533).
Khúc 15 (557 câu). Pallas Athena lên đường tới Lakedaimon giải thích cho con Odysseus hay đám cầu hôn phục kích mưu sát làm thế nào thoát hiểm, đồng thời thúc giục đã đến lúc phải trở về. Quân vương và hoàng hậu sở tại tặng nhiều phẩm vật. Lúc tạm biệt Helen còn tiên báo điềm tốt: chim ưng cặp con ngỗng mang đi (1-181). Rời Pherai lên đường Telemachos trực chỉ Pylos. Tới nơi chia tay Peisistratos, không đến chào tạm biệt lão vương Nestor, Telemachos xuống thuyền. Nom thấy Theoklymenos bèn leo lên đi theo. Là con nhà có tài tiên tri, song vì vừa giết người, đương sự bỏ đất Argos trốn đi (182-300). Hôm sau sẩm tối Odysseus ngỏ ý muốn rời nơi tạm trú ra đi, nhưng nô bộc ngăn cản giữ lại. Dò hỏi tin tức, qua nô bộc chân thật, chất phác, Odysseus hay thân phụ sống cuộc đời buồn thảm, thân mẫu già nua qua đời vì thương nhớ. Nô bộc kể bản thân thuộc hàng vương giả, song lúc nhỏ bị bắt cóc đem bán ở Ithaka (301-492). Đêm sau Telemachos cập bờ phía nam Ithaka, lên đất liền an toàn. Để mặc Theoklymenos tự mình đi về thành phố, lại thấy điềm triệu, Telemachos lẳng lặng băng qua cánh đồng đến nhà nô bộc Eumaios (493-557).
Khúc 16 (481 câu). Rạng đông Telemachos tới nhà nô bộc lúc này đã dẫn heo ra đồng. Thoát chết không bị phục kích đám cầu hôn âm mưu thực hiện, Telemachos bước vào ngôi nhà tầm thường, đàn chó xổ tới quấn quít, quẫy đuôi rít kêu, cảnh khiến Odysseus mừng thầm (1-39). Nô bộc ngỏ lời nhờ khách lạ để ý trông nom chủ nhân trẻ tuổi, song can ngăn đừng về nhà, bởi cần cảnh giác đề phòng thái độ xấc xược của đám cầu hôn. Nô bộc ra thành phố báo tin cho Penelope hay quý tử đã trở về an toàn (40-155). Athena biến khách lạ trở lại nguyên hình. Theo lời nữ thần, Odysseus lộ diện cho Telemachos hay (156-219). Bố con gặp nhau lần đầu, bàn tính thanh toán đám cầu hôn. Telelemachos nói rõ số lượng, đồng thời can ngăn bố đừng hiện hình thực sự khi gặp đám này; bố con đồng ý để mặc Odysseus bị giễu cợt, lăng mạ, nhẫn nhục tới lúc trả thù (220-320). Nghe tin thuyền vào vũng đậu không có Telemachos, ngạc nhiên hết sức, đám cầu hôn lại tổ chức mưu sát. Biết sự thể Penelope nặng lời trách cứ Antinoos đã chủ mưu tìm cách giết con mình (321-451). Nô bộc quay về ngôi nhà lụp xụp. Odysseus lại trở thành ăn mày già nua (452-481).
Khúc 17 (606 câu). Sáng hôm sau Telemachos ra thành phố gặp thân mẫu, nói cho bà hay theo Menelaos kể Odysseus còn sống. Cùng đi với Theoklymenos đến nơi vừa bước vào cung điện Telemachos gặp nhũ mẫu và thân mẫu. Eurykleia và Penelope vui vẻ đón tiếp. Telemachos kể cho hai người hay Menelaos và Helen hiếu khách hết sức đã tiếp đón niềm nở. Sau đó Telemachos ra quảng trường. Telemachos muốn thân mẫu cư xử với Theoklymenos thật ân cần vì thầy đoán khẳng định Odysseus đã về Ithaka (1-165). Đúng lúc đó đám cầu hôn kéo vào đại sảnh, vì đã tính chuyện nhậu nhẹt linh đình. Trái lại, Odysseus và Eumaios âm thầm lết bước tới cung điện (166-178). Trên đường đi bất đồ gặp Melanthios, nô bộc chăn dê nhục mạ hai người, đánh đập Odysseus, trước khi nhập bọn với đám cầu hôn (179-260). Hai người tới cung điện, không ai nhận ra Odysseus, trừ chó già Argos (261-327). Thấy ăn mày đi theo Eumaios vào đại sảnh, Antinoos nặng lời mắng nhiếc, dọa nạt nô bộc chăn heo; hai bên cãi nhau, Telemachos phải can thiệp (328-404). Odysseus chìa tay xin đồ bố thí, Antinoos cười giễu, mạt sát, cầm ghế ném trúng đầu (405-491). Nghe tiếng ồn ào từ trên lầu vội vàng đi xuống, Penelope lên tiếng bênh vực, cùng lúc muốn hỏi khách lạ về tin tức phu quân. Nhưng tỏ ra ý tứ, thận trọng, nại cớ khá chính xác, khách lạ xin tới tối sẽ hầu chuyện (492-590). Bởi thế bây giờ chỉ còn một mình Eumaios lủi thủi đi qua cánh đồng về nhà (591-606).
Khúc 18 (428 câu). Odysseus chìa tay xin ăn mấy cầu hôn. Đúng lúc đó ăn mày Iros tới. Thấy vậy phần tức phần ghét Iros lớn tiếng gây chuyện đuổi đi. Odysseus cự nự chống lại. Antinoos khoái trí đổ thêm dầu vào lửa cho hai bên cãi nhau. Ẩu đả quyết liệt. Iros bị đánh nhừ tử. Odysseus cầm chân lôi ra ngoài cửa. Đám cầu hôn khen ngợi Odysseus (1-117). Quay lại dùng lời kín đáo Odysseus nói với cầu hôn Amphinomos người vắng mặt trở về thế nào cũng thẳng tay trừng trị, nhưng lời cảnh cáo chẳng khác gió thoảng ngoài tai (118-157). Penelope muốn xuống đại sảnh, song buồn ngủ. Athena gợi ý nương nương nên trang điểm cho thêm xinh đẹp. Penelope làm theo rồi đi xuống. Chuyện trò với Telemachos nương nương khuyên con tìm cách bảo mọi người đừng sỗ sàng với khách lạ đáng thương (158-242). Tiếp theo trước mặt đám cầu hôn, dáng vẻ quyến rũ, lời lẽ lôi cuốn, nương nương nói sẽ kết hôn với người tài ba hơn hết. Đám cầu hôn thi nhau trao phẩm vật, sau đó giải trí tìm vui qua trò chơi và khiêu vũ (243-301). Trời tối, Odysseus ngỏ ý muốn thay tỳ nữ lo việc đèn đuốc. Tỳ nữ Melantho quát tháo nhục mạ, Odysseus đe dọa sẽ trừng trị thẳng tay. Cầu hôn Eurymachos nặng lời sỉ vả, trong lúc chuốc rượu cầm ghế quăng, song không trúng. Telemachos và Amphinomos can thiệp, tìm lời xoa dịu. Cuộc rượu thỏa thuê. Telemachos giục đám cầu hôn ra về vì đêm xuống rồi (302-428).
Khúc 19 (604 câu). Đám cầu hôn đi rồi Odysseus mới rỉ tai con đem vũ khí từ đại sảnh qua nhà kho để chúng khỏi sử dụng. Tay cầm bó đuốc, bức tường sáng rực, Athena tỏ ý tán thành (1-46). Rời tư phòng xuống đại sảnh, Melantho theo sau, nghe nữ tỳ lại sỉ nhục ăn mày, Penelope tức thì trách mắng sao lại lỗ mãng đến thế (47-102). Penelope hỏi khách lạ từ đâu tới. Khách lạ im lặng. Penelope tỏ ý muốn biết (103-163). Khách lạ đành trả lời. Khách lạ nói khách lạ là người đảo Krete. Penelope lắng nghe, xúc động khôn xiết, nước mắt tuôn trào, khi khách lạ kể đã nom thấy Odysseus lang thang ở đó. Penelope thử lòng xem khách lạ nói thật hay nói dối (164-284). Khách lạ miêu tả quần áo và khẳng định Odysseus sắp trở về (285-307). Vẫn nghi ngờ, song Penelope sai vú già Eurykleia rửa chân cho khách lạ mặc dù là ăn mày (308-385). Nhìn vết sẹo trên chân nhận ra chủ nhân vú già rú kêu (386-475). Odysseus ra hiệu phải im lặng giữ kín (476-507). Penelope kể cho khách lạ hay nàng nằm mơ thấy chim ưng vồ đàn ngỗng. Đi qua hai cửa, cửa bằng ngà và cửa bằng sừng, giấc mơ cho thấy dường như bọn cầu hôn sẽ chết, phu quân sẽ trở về. Penelope đề nghị mở cuộc bắn cung tranh tài với đám cầu hôn, khách lạ đồng ý. Penelope lên phòng đi ngủ, song không hay mình sẽ trở thành phu nhân khách lạ, người thắng cuộc thi bắn (508-604).
Khúc 20 (394 câu). Nằm trong tiền sảnh không chợp mắt, nghe tiếng mấy tỳ nữ về phe đám cầu hôn, Odysseus nghĩ cách trừng phạt, song tự nhủ nên kiên nhẫn trước khi ra tay. Athena nhẹ ru, Odysseus thiếp ngủ (1-57). Tỉnh giấc cảm thấy tuyệt vọng, muốn chết cho rồi, Penelope cất lời cầu xin Artemis ái nữ Chúa tể phù hộ. Nghe tiếng Odysseus van vỉ muốn thấy điềm triệu thuận lợi để trả thù, Chúa tể chấp thuận lời cầu xin (58-121). Trời vừa sáng Telemachos tới quảng trường. Tỳ nữ lau dọn nhà cửa, mục phu mang tế sinh tới làm lễ dâng thần linh (122-163). Nô bộc chăn dê Melanthios muốn tống cổ ăn mày ra ngoài cổng; nô bộc chăn bò Philoitios tỏ vẻ thương hại khách lạ số phận hẩm hiu kể chuyện Odysseus, lời lẽ cảm động; cầu hôn Ktesippos hung bạo cầm chân bò ném Odysseus (164-239). Điềm báo rùng rợn khiến lo lắng, đám cầu hôn bỏ mưu đồ hạ sát Telemachos (240-256). Phát biểu trước mặt mọi người, Telemachos khẳng định là chủ nhân ngôi nhà, rất mong đừng ai xúc phạm khách lạ vô tội (257-274). Lễ tế sinh xong xuôi, ăn uống bắt đầu (275-319). Đám cầu hôn vừa cười vừa khóc, đưa thịt lên miệng, thịt rớm máu. Agelaos yêu cầu tất cả cầu hôn bình tĩnh, đồng thời đề nghị Telemachos hối giục thân mẫu quyết định lấy chồng (320-344). Theoklymenos, một trong số thực khách, lên tiếng tiên đoán bất hạnh sắp đổ lên đầu lên cổ đám cầu hôn, bị đuổi ra ngoài. Nghe tiếng ồn ào Penelope cảm thấy lòng dạ bồn chồn. Giờ trừng trị đã điểm (345-394).
Khúc 21 (434 câu). Mang cây cung của Odysseus ra đại sảnh, Penelope bật khóc. Sau đó mời tất cả cầu hôn tham dự cuộc đua, nàng dõng dạc nói sẽ kết hôn với người nào giương nổi cây cung, nhắm thẳng bắn qua lỗ hàng rìu (1-79). Nhìn vũ khí của chủ nhân mà nghẹn ngào, Eumaios sụt sùi xếp rìu thành hàng thẳng tắp (80-101). Ba lần Telemachos gắng sức nâng cung, kéo dây, đúng lúc dường như có thể thấy thân phụ ra dấu liền chùn tay (102-139). Leodes cũng nâng cung, kéo dây, nhưng thất bại; Antinoos lấy mỡ bôi cho dây chùng dãn, thử mấy lần đều không ăn thua (140-187). Odysseus rời đại sảnh cùng Eu-maios và Philoitios, ra ngoài mới cho nô bộc chăn heo và nô bộc chăn dê biết mình là ai, cùng lúc ra lệnh phải làm gì (188-244). Đến lượt giương cung, nhưng không sao giương nổi, Eurymachos bực tức ra mặt. Thấy vậy, muốn lấp liếm sự thật, Antinoos đề nghị rời cuộc tranh tài đến ngày mai (245-272). Odysseus xin phép thử sức xem sao; Antinoos phản đối quyết liệt. Telemachos tuyên bố khách lạ có quyền làm như mọi người, đồng thời bảo mẹ về phòng (273-358). Eumaios đưa cung cho Odysseus bất kể đám cầu hôn la ó. Đúng lúc đó Telemachos ra lệnh Eurykleia đóng hết cửa trong nhà, Philoitios đóng hết cửa ngoài sân (359-393). Odysseus giương cung bắn một phát, phát đầu tiên, mũi tên bay thẳng xuyên qua cán hàng rìu. Vũ khí sẵn sàng, Telemachos nhào tới đứng bên cạnh thân phụ (394-434).
Khúc 22 (501 câu). Odysseus nhắm bắn Antinoos trước tiên; đám cầu hôn tức thì kéo bè đe dọa: Odysseus khẳng định mình là ai (1-41). Eurymachos xin tha mạng sống, cùng lúc muốn xoa dịu tình hình nói sẽ đền bù bội hậu, nhưng bị khước từ (42-67). Odysseus bắn chết Eurymachos; Telemachos đánh gục Amphinomos, rồi đi lấy vũ khí cho thân phụ, cho Eumaios, cho Philoitios và bản thân (68-125). Do vô ý, thiếu cẩn trọng, Telemachos không khóa cửa nhà kho. Vốn phản bội Melanthios lẻn vào mang vũ khí cho đám cầu hôn; nhưng vừa quay lại y bị hai nô bộc xổ tới ôm chặt trói kỹ (126-199). Athena hiện hình giả dạng Mentor. Biến thành chim én nữ thần tuôn lời khuyến khích (200-235). Bất thình lình nữ thần vung thần khiên. Đám cầu hôn khiếp đảm, tàn sát tiếp tục (236-309). Leodes lạy van xin tha làm phúc, song vô ích, Odysseus tiếp tục hành hình. Chỉ có thi sĩ ca công Phemios và lệnh sứ Medon thoát chết (310-380). Mười hai nữ tỳ phản trắc bắt phải lau sạch máu lênh láng trên sàn đại sảnh, khênh xác chết ra ngoài sân, sau đó bị Telemachos treo cổ ngoài vườn (381-473). Sau nhục hình rùng rợn đưa Melanthios về chín suối, sàn đại sảnh phun lưu huỳnh, Odysseus sai gia nhân đi tìm Penelope và nữ tỳ chung thủy (474-501).
Khúc 23 (372 câu). Vú già Eurykleia lên đánh thức nói cho Penelope hay phu quân đã thực sự trở về, đám cầu hôn đã bị giết sạch, song nàng không tin (1-84). Rời tư phòng xuống đại sảnh, nơi phu quân đang ngồi, nàng ngập ngừng như không muốn bước, có lúc tưởng chừng nhận ra, có lúc vẫn còn nghi ngờ. Telemachos trách sao lại lạnh lùng đến thế. Hiểu sự tình, tỏ ra tế nhị, bảo con không nên hối thúc, rồi ra sự thật sẽ hiện hình, Odysseus đi tắm, thay quần áo. Đàn cy-tha ngân vang dìu dặt. Bố con bàn kế đối phó vì gia đình đám cầu hôn thế nào cũng kéo tới trả thù (85-152). Vẫn muốn thử lòng, Penelope hỏi chuyện chiếc giường tân hôn. Odysseus miêu tả chính xác, không những thế lại còn nêu rõ điểm bí mật. Hết nghi ngờ Penelope ôm chầm người từng chờ đợi bấy lâu (153-240). Odysseus kể cho Penelope hay lời thầy đoán Teiresias tiên tri ngày trước (241-287). Giọng đầm ấm, lời chân thật hai người kể cho nhau nghe nỗi đau khổ, cảnh buồn rầu hai người cùng chịu đựng bấy lâu (288-343). Sáng ra Odysseus rời nhà đi gặp thân phụ Laertes ở miền quê (344-372).
Khúc 24 (548 câu). Lệnh sứ thần linh Hermes dẫn vong linh cầu hôn xuống âm phủ trình diện Diêm Vương. Tới nơi tất cả gặp Agamemnon và Achilleus đang chuyện trò (1-97). Biết Odysseus đã thanh toán đám cầu hôn Agamemnon hắng giọng hỏi, hồn ma Amphimedon cất tiếng trả lời kể lại cuộc tàn sát trên trần gian, Penelope thủ tiết, chung thủy ngoài sức tưởng tượng, Klytaimestra hư thân mất nết quá độ (98-202). Odysseus về quê thăm lão nhân Laertes, song nói dối là con quân vương Apheidas. Thử chán chê rồi mới nói thực kể vết sẹo trên chân, số cây trong vườn, Odysseus chứng tỏ với thân phụ mình đã trở về. Bố con nhận ra nhau (203-360). Trong lúc mọi người dùng bữa, từ ngoài đồng trở về, nhận ra chủ cũ, nô bộc làm vườn cao niên Dolios và mấy người con vui mừng khôn tả (361-412). Cùng lúc tin thảm sát lan rộng. Eupeithes bố Antinoos dẫn thân nhân kéo tới tấn công nhà Odysseus (413-471). Athena hỏi ý kiến Chúa tể quyết định thế nào. Chúa tể nói lúc này muốn thấy hòa bình trở lại Ithaka (472-488). Giao chiến diễn ra, Eupeithes bị đâm chết. Hỗn loạn dâng cao. Athena can thiệp, giảng hòa hai bên (489-547).
Odyssêy là sản phẩm truyền thống thi ca phát triển qua nhiều thời kỳ trong lịch sử Hy-lạp buổi đầu, thời kỳ đó để lại dấu vết đậm nét trong trường ca. Huyền thoại thành Troa, chuyện tàn phá, chuyện chết chóc diễn ra với người Troian thất trận và người Achaian (Hy-lạp) thắng trận, là huyền thoại kể phần cuối giai đoạn đầu lịch sử Hy-lạp thời cổ xưa, gọi là thời kỳ đồ đồng, do đồng sử dụng rộng rãi (không phải sắt vẫn chưa sử dụng phổ thông) hoặc thời kỳ Mycenaean, gọi theo tên thành phố Mycenae, trung tâm quyền lực bấy giờ. Sau 2000 TCN văn minh Mycenaean phát triển kéo dài mấy thế kỷ, văn minh đó diễn ra xấp xỉ thời kỳ người nói tiếng Hy-lạp lần đầu đặt chân tới vùng đất cực nam bán đảo Balkan ngày nay ta hiểu là Hy-lạp. Theo thời gian số người đó tạo dựng ở đó nền văn minh trù phú, một số thành phố cường thịnh xây cất quanh cung điện nguy nga ảnh hưởng, chi phối. Số cung điện này có thời là thành lũy quân sự và trung tâm thương mại, đặc biệt buôn bán với các đảo nằm trong biển Aegean, mạn đông Hy-lạp đất liền. Lúc người Mycenaean tới Hy-lạp trên các đảo lớn, nhất là đảo Krete, đã có nền văn minh phát triển phong phú và rực rỡ, người sau gọi là văn minh Minoan, người Mycenaean chịu ảnh hưởng nặng nề, song cuối cùng khống chế.
Ngoài định chế và khá nhiều công nghệ tiếp thu từ người Minoan người Mycenaean còn đón nhận hệ thống chữ viết: bảng ký hiệu âm tiết, trong đó mỗi ký hiệu tiêu biểu một vần đặc biệt, khác với mẫu tự, trong đó mỗi ký hiệu tiêu biểu một âm đặc biệt. Viết tiếng Hy-lạp người Mycenaean phóng tác bảng ký hiệu âm tiết người Minoan sử dụng viết ngôn ngữ của họ, ngôn ngữ mặc dù ngày nay còn lưu trữ, song chưa thể đọc ra hay xác định. Hệ thống chữ viết này học giả Tây Âu ngày nay gọi là dạng B. Khai quật ở Krete, Mycenae, Pylos và nhiều nơi trên đất liền các nhà khảo cổ tìm thấy phiến đất sét ghi theo dạng đó. Theo các nhà khảo cổ phiến đất sét không ghi hiệp ước chính trị, thi ca huyền thoại, lễ nghi tôn giáo, mà ghi tỉ mỉ dịch vụ hành chính, hoạt động kinh tế trong cung điện: bản kê lúa gạo, gia súc, danh sách viên chức phục vụ trong cung điện, vai trò đặc biệt như ‘người nấu thuốc cao’, ‘người làm ghế’, ‘người đổ nước tắm’.
Văn minh Mycenaean phát triển huy hoàng khoảng năm 1600 TCN rồi suy đồi, do thiên tai và biến động chính trị diễn ra chừng 400 năm sau đó tức khoảng 1200 TCN Người sau không rõ cái gì thực sự xảy ra, song các nơi khảo cổ thăm dò cho thấy có sự đốt phá tan hoang, sự vội vã bỏ đi vào thời điểm này, văn hóa sau đó vì thế xuống dốc. Một trong số nơi khai quật là thành Troa. Dựa theo chi tiết trắc đồ trường ca Iliad cung cấp, Heinrich Schliemann tìm thấy cuối thế kỷ XIX. Qua khám phá ông đã xác định giá trị lịch sử của Homer, đồng thời góp phần xây dựng ngành khảo cổ.
Liên hệ tới chừng mực nào đó với tình trạng hỗn loạn chấm dứt thời kỳ đồ đồng là sự quật khởi của nhóm người mới nói tiếng Hy-lạp có khả năng áp đảo, khuynh loát trên lục địa. Người Hy-lạp thời cổ xưa gọi lớp người này là Dorian và tin rằng họ từ miền bắc kéo xuống xâm lấn Hy-lạp. Sử gia sau này không biết họ là di dân mới tới hay sắc dân đã cư ngụ ở Hy-lạp mới lên cầm quyền khi biến động diễn ra. Vì thế nhiều người bỏ đất liền sang mạn đông định cư trên các đảo trong vùng biển Aegean, dọc bờ biển Tiểu Á, trong vùng ngày nay là mạn tây Thổ-nhĩ-kỳ, nhưng lúc đó là phần đất thuộc Hy-lạp. Người Hy-lạp sống trên đất liền cũng như người Hy-lạp di dân sang Tiểu Á sống trong điều kiện nghèo nàn về mặt vật chất, yếu kém về mặt chính trị và quân sự thua xa thời kỳ Mycenaean. Thời kỳ của họ thường gọi là ‘thời kỳ đen tối,’ vì di vật họ để lại cho thấy văn minh ở mức độ tầm thường, vì họ không có gì để người sau tìm hiểu. Chuyển tiếp sang thời kỳ đen tối gây ra nhiều hậu quả, cụ thể là chữ viết, có lẽ trong thời kỳ Mycenaean chỉ số nhỏ chuyên nghiệp sử dụng, chữ viết biến dạng, người Hy-lạp lại trở thành khối dân với nền văn hóa không chữ viết. Thay vì thế họ dựa vào và tiếp tục dựa vào khả năng truyền khẩu như phương tiện chính yếu để ghi chép, bảo tồn, truyền đạt hồi ký lịch sử, tín ngưỡng tôn giáo, chia sẻ văn chương. Đặc biệt người Hy-lạp ở Tiểu Á, gọi là người Ionian, phát triển truyền thống trường ca, qua đó họ ghi lại lịch sử dân tộc, hồi tưởng quá khứ, kinh nghiệm thời kỳ không còn nữa. Loại thơ này xoay quanh nhân vật huyền thoại, sự tích huyền thoại. Nổi bật là sự tích bao quanh cuộc chiến thành Troa, có vẻ như phản ánh giây phút cuối cùng của văn minh Mycenaean.
Thời kỳ đen tối chấm dứt vào giai đoạn tương ứng xấp xỉ với thế kỷ VIII TCN. Chuyển đổi văn hóa người sau mệnh danh cuối thời kỳ đen tối và khởi đầu thời kỳ cổ điển không liên can tới biến động như cuối thời kỳ đồ đồng, mà liên hệ tới hoạt động mới trong nhiều môi trường. Dân số gia tăng dẫn tới làn sóng di dân lập ấp, người Hy-lạp thiết lập thuộc địa ở những nơi như Hắc Hải, Sicile, mạn nam Ý, mạn nam Pháp. Thêm vào đó là tiếp xúc rộng rãi giữa các cộng đồng, về mặt chính trị khác biệt hàng thế kỷ. Kết quả dẫn tới việc phát triển định chế nhằm thống nhất các cộng đồng về mặt văn hóa, đồng thời củng cố di sản quốc gia, như lập đền thờ Apollo ở Delphi, tổ chức cuộc đua thể dục toàn quốc (776 TCN). Khoảng thời gian này người Hy-lạp bắt đầu xây đền thờ đồ sộ bằng đá, đắp tượng cỡ lớn, làm đồ sứ loại mới họa hình rất kỳ khu, khúc chiết, chính xác. Nhiều đặc trưng văn hóa người Tây Âu sau này kết hợp với thời kỳ cổ điển - thời kỳ tương đối xấp xỉ thế kỷ V và IV trước công nguyên - bắt nguồn từ thế kỷ VIII.
Thêm vào việc di dân lập ấp là thời kỳ gia tăng thương mại, do đó tiếp xúc rộng rãi với văn hóa Địa-trung-hải. Hậu quả của việc buôn bán là tái lập liên hệ với văn hóa Cận Đông phát triển mãnh liệt thời kỳ Mycenaean. Qua tiếp xúc với người Phoinician, dân Semite sống trên phần đất ngày nay là Lebanon, người Hy-lạp học hệ thống chữ viết mới, không phải bảng ký hiệu âm tiết như dạng B, mà là mẫu tự, mẫu tự áp dụng để viết chữ Hy-lạp, rồi cải biên trở thành mẫu tự La-tinh, ngày nay nhiều ngôn ngử sử dụng, kể cả chữ quốc ngữ của ta. Chữ mới mau chóng trở thành phổ biến, phát triển hơn dạng B, đem ra ứng dụng rộng rãi. Cụ thể là ghi chép thi ca. Học giả Tây Âu bấy lâu thường nghĩ Odyssêy, Iliad của Homer, Thần Phả, Việc và Ngày của Hesiod, một số bài thơ lưu truyền, một nhóm thần ca bảo là của Homer ra đời dưới hình thức chữ viết ta biết xuất hiện từ thời đó.
Chuyển dịch Odyssêy cũng như Iliad trước đây tôi cố xóa bỏ lằn ranh ngăn cách nguyên tác với dịch phẩm. Trước sau tìm cách đưa rung động, cảm xúc, tư tưởng, phô diễn của Homer tới thẳng độc giả, một cách đơn giản, song vẫn trung thực và chính xác; đặc biệt trình bày nét vẻ khách quan, hồn nhiên, hiện thực, nôm na trong chuyện nguyên thủy, kể lại biến sự với mọi vẻ ý nhị Homer kể lại, biểu lộ thái độ của thi sĩ đối với biến sự, và dẫn tới cảm nghĩ ông sáng tạo: sự việc xảy ra thế thật. Về ngôn từ tôi sử dụng ngôn ngữ bình dân, ngôn ngữ văn xuôi thay vì ngôn ngữ thơ mộng, ngôn ngữ thi ca, ngôn ngữ vương giả như ông, mặc dù hiểu thơ bao giờ cũng cần thi vị, hoa mỹ, văn trước sau phải sáng sủa, khúc chiết. Dẫu vậy tôi thấy tác phẩm không phải cuốn sổ ghi sự kiện, mà từ đầu chí cuối như áng thơ bồng bềnh, lấp lánh với niềm vui nhẹ lẩn bên trong. Bởi thế trong quá trình lột tả thi phẩm, cần phải lột tả thực chất, ngõ hầu trút món nợ tình cảm đè nặng tâm hồn đối với thân hữu vong niên cách biệt không gian quá xa, thời gian quá lâu như bông hoa quý hiếm bừng nở đầu mùa mấy chục năm qua đã cho tôi thấy cái đẹp tuyệt vời trong ông và cái đẹp ý nhị trên trần gian.
Nhìn nguyên tác, nghĩ đến dịch phẩm tôi thấy mình mang trong lòng trách nhiệm lưỡng diện; trách nhiệm đối với tác giả và trách nhiệm đối với độc giả. Tôi tự nhủ đối với người thứ nhất phải chân thành kẻo ông buồn lòng; đối với người thứ hai tôi nghĩ cũng phải chân thành nếu không họ thất vọng. Trong quá trình chuyển dịch thi phẩm ai cũng biết là hay, là khó, là cao siêu, là phức tạp tôi cố viết lại trung thực như Homer sáng tác ngày xửa ngày xưa. Không thêm, không bớt, không xa vời, không lạc điệu. Nếu không nâng cao thì duy trì, chứ nhất định không hạ thấp giá trị tác phẩm. Chỗ nào khúc mắc, nghi ngờ tôi chú thích để độc giả tự mình nhận định. Nhằm tránh thiếu sót, sai lầm, mặt khác học hỏi kinh nghiệm, tôi bỏ thì giờ tìm hiểu nhiều người đã làm việc mình đang làm; tôi lần lượt xem hàng chục bản dịch tiếng Tây-ban-nha, tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Anh. Đối chiếu hai bên tôi thấy người nào cũng cố đạt mức thi phẩm phô diễn, song có người đạt nhiều, có người đạt vừa, có người đạt ít. Hơn thế, tôi cũng thấy, do vần điệu đòi hỏi, âm tiết quyết định, dịch phẩm bằng thơ nhiều lúc có vẻ cường điệu, thiếu chính xác, không gần nguyên tác, ngược lại dịch phẩm văn xuôi đôi khi kém vẻ đậm đà, lôi cuốn. Và trong khi tìm hiểu tôi còn thấy có chỗ vụng về, thiếu sót, dư thừa, thậm chí sai lầm có người phạm phải. Phần mình theo nguyên tác xuất bản năm 2003 ở Cyprus, tôi cố gắng trung thực, đơn giản, óng ả, lánh xa vết xe đổ hằn sâu trên mặt đường chữ nghĩa. Dẫu thế, xin thưa, nếu chẳng may vấp phải, do nhận thức còn hạn hẹp, vì phô diễn còn non nớt, tôi cúi đầu nhận lỗi. Trân trọng.
Maple, Ontario, Canada mùa thu năm 2008
Đỗ Khánh Hoan
Iliad Và Odyssey Iliad Và Odyssey - Homer Iliad Và Odyssey