Fear keeps us focused on the past or worried about the future. If we can acknowledge our fear, we can realize that right now we are okay. Right now, today, we are still alive, and our bodies are working marvelously. Our eyes can still see the beautiful sky. Our ears can still hear the voices of our loved ones.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Alex Ferguson
Thể loại: Tùy Bút
Biên tập: sach123
Số chương: 14 - chưa đầy đủ
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1456 / 108
Cập nhật: 2019-05-14 10:22:18 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3 : “Giải Nghệ Ư? Không Phải Bây Giờ!”
êm Giáng Sinh năm 2001, tôi thiếp đi khi xem tivi mà không biết rằng trong bếp, một cuộc họp gia đình bất thường đang diễn ra. Và không lâu sau đó tại nơi này - phòng khách của gia đình, một bước ngoặt với cuộc đời tôi đã đến. Căn phòng lịch sử này có sự hiện diện của tôi, Cathy và tất cả các con trai tôi.​
“Tôi và các con đã vừa thống nhất,” Cathy nói. “Ông muốn giải nghệ ư? Không phải bây giờ. Thứ nhất, sức khỏe của ông vẫn còn tốt. Thứ hai, tôi chưa muốn giữ ông ở nhà. Và thứ ba, ông còn quá trẻ.” Sau khi Cathy ‘nổ phát súng’ đầu tiên, đến lượt các con tôi lên tiếng: “Bố lẩm cẩm rồi, bố ơi. Đừng làm vậy. Bố còn rất nhiều việc phải làm. Bố có thể xây dựng một thế hệ mới ở Manchester United.” Những câu nói đó khiến tôi phải suy nghĩ trong năm phút. Và kết cục thì ai cũng đoán được, tối tiếp tục công việc của mình thêm hơn 11 năm nữa.​
Có nhiều lý do khiến tôi nghĩ đến quyết định giải nghệ năm đó. Một trong số đấy đến từ bình luận của Martin Edwards (Chủ tịch Manchester United từ năm 1980 đến 2002) sau trận chung kết Champions League năm 1999 ở Barcelona. Martin được hỏi, liệu tôi sẽ đóng vai trò như nào sau khi không làm HLV. Ông ta trả lời: “Thực ra, chúng tôi không muốn trường hợp của Matt Busby xảy ra một lần nữa.” Tôi khá thất vọng với câu trả lời này. Sẽ là khập khiễng khi so sánh hai thời kỳ với nhau. Tại thời kỳ của tôi, bạn sẽ phải đối mặt với những rắc rối không đâu. Có thể nó đến từ người đại diện của các cầu thủ, chuyện hợp đồng, và cả đám truyền thông háu tin. Tôi nghĩ, số người muốn tiếp tục tham gia vào những hoạt động đó sau khi giải nghệ chỉ đến trên đầu ngón tay. Tôi cũng vậy, tôi không muốn dính dáng đến những trận đấu hay sự phức tạp của những chuyện bên lề.​
Vậy còn điều gì nữa khiến tôi muốn chia tay bóng đá? Đó chính là cảm giác tôi đã chạm tới đỉnh của thành công sau đêm kỳ diệu ở Barcelona. Trước đây, các đội bóng của tôi thường không đạt thành tích cao ở Champions League, nhưng tôi vẫn giữ trong mình một niềm tin. Và một khi bạn đã được tham vọng của đời mình, bạn sẽ tự hỏi, liệu mình còn có thể lặp lại nó một lần nữa. Với những phát biểu trên của Martin Edwards, ý nghĩ đầu tiên của tôi là “Thật vớ vẩn”. Và tiếp theo: “Có lẽ mình nên dừng ở tuổi 60.”​
Tóm tại, có ba nhân tố chính hiện hữu trong tâm trí tôi: sự thất vọng về Martin; hoài nghi về chức vô địch châu Âu lần thứ hai; và con số 60, đừng quên tôi bắt đầu huấn luyện từ năm 32 tuổi.​
Bước sang tuổi 60 tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ lên tôi. Bạn sẽ cảm thấy cuộc đời mình đã sang một chương mới. Khi 50, đó cũng là một thời điểm quan trọng. Bạn đã sống được một nửa thế kỷ, nhưng lại không nghĩ rằng mình đã 50. Nhưng khi 60, bạn sẽ phải thốt lên rằng: “Lạy chúa, tôi đã 60. Tôi đã 60 tuổi rồi!”. Bạn sẽ phải đương đầu với những thử thách, với những thay đổi. Có thể giờ đây, tôi không cảm nhận gánh nặng của tuổi tác. Nhưng khi đó, 60 là một rào cản tâm lý trong đầu tôi. Thật khó để tôi huyễn hoặc rằng mình vẫn còn trẻ. Vì trên thực tế, tôi hiểu thể lực, sức khỏe của mình đã khác. Giành ngôi vương châu Âu giúp tôi cảm thấy giấc mơ của mình đã hoàn thành và không còn gì nuối tiếc.​
Những lời nói của Cathy và các con có tác động mạnh mẽ lên tôi, khiến tôi nghĩ tới khả năng thay đổi quyết định giải nghệ. Tuy nhiên, trong đầu tôi vẫn còn một vài vướng mắc.​
“Tôi không nghĩ tôi có thay đổi. Tôi đã nói với CLB rồi.”​
Cathy nói: “Vậy ư? Tại sao ông không nghĩ họ sẽ thể hiện sự kính trọng ông, bằng cách cho phép ông đổi ý?”​
“Bây giờ, có lẽ họ đã dành vị trí đó cho người khác mất rồi,” Tôi nói.​
“Nhưng với những thành tựu ông đạt được - chả lẽ họ không muốn trao cho ông cơ hội thứ hai?” Bà ấy nhấn mạnh.​
Ngày tiếp theo, tôi gọi điện cho Maurice Watkins (Giám đốc Manchester United thời bấy giờ). Khi nghe ý định thay đổi quyết định của tôi, ông ta bật cười. Theo như kế hoạch, BLĐ United đã chuẩn bị gặp gỡ ứng viên nhằm kế nhiệm tôi tuần sau đó. Lẽ ra, Sven-Goran Eriksson đã là HLV mới của Manchester United. Nhưng, dù sao đó chỉ là suy đoán của tôi, bởi Maurice chưa bao giờ xác nhận nó.​
“Tại sao lại là Eriksson?” Tôi hỏi ông ta.​
“Anh có thể đúng, nhưng cũng có thể đã sai,” Maurice trả lời lấp lửng.​
Tôi nhớ từng đặt câu hỏi với Paul Scholes: “Scholsey, Eriksson có gì nổi trội?”, nhưng câu trả lời của Scholsey cũng không khiến tôi thỏa mãn.​
Tiếp sau đó, Maurice liên lạc với Roland Smith (Giám đốc của Plc). Khi nghe quyết định của của tôi, Roland cũng không giấu được niềm vui mừng. “Tôi đã bảo cậu rồi mà. Quyết định đó thật ngốc nghếch. Chúng ta cần phải ngồi xuống và thảo luận chuyện này.” Điều đầu tiên tôi muốn truyền đạt tới ông ấy, chính là bản hợp đồng của tôi. Bản hợp đồng hiện tại sẽ chỉ kéo dài tới mùa hè năm kế tiếp. Mọi thủ tục cần phải diễn ra thật nhanh. ​
Khi đưa ra quyết định giải nghệ, tôi đã dừng lại và không nghĩ gì tới tương lai. Nhưng ngay sau khi đổi ý, các kế hoạch thay nhau xuất hiện trong đầu tôi. Tôi tự nhủ: “Chúng ta cần một đội bóng mới.” Năng lượng lại tràn trề trong tôi, như nó chưa từng mất đi.​
Trong nghiệp cầm quân, đôi lúc bạn sẽ cảm thấy thật nhỏ bé. Bạn tự hỏi, giá trị của mình là bao nhiêu. Tôi nhớ Hugh McIlvanney, một người bạn của tôi, tham gia sản xuất series film tài liệu Arena, từng thực hiện phóng sự về bộ ba Stein, Shankly và Busby. Theo Hugh, thì so với CLB, những HLV này còn có tầm quan trọng lớn hơn rất nhiều. Nhưng theo một cách nào đó, họ buộc phải tự ‘thu nhỏ’ mình, để phù hợp với đội bóng. Tôi nhớ, Jock Stein từng chia sẻ với tôi về các ông chủ và giám đốc của CLB: “Alex, hãy nhớ này, chúng ta không phải là họ. Chúng ta không phải là họ. Họ điều hành đội bóng, còn chúng ta chỉ là những người công nhân mà thôi.” Jock luôn cảm thấy như vậy. Nói một cách mỉa mai hơn, thì chúng tôi và họ, giống như địa chủ và nông nô, nô lệ vậy.​
Những gì họ đã làm với Jock Stein ở Celtic thật lố bịch. Họ đề nghị ông ấy tham gia vào công ty cá độ. Vậy đấy, bạn có tin được không - 25 danh hiệu cùng Celtic và họ đề nghị Jock điều hành công ty cá độ. Trong khi đó, Bill Shankly chưa bao giờ được mời vào ban điều hành của Liverpool và sự oán giận dần tích tụ trong ông. Ông ta thậm chí còn bắt đầu tới xem các trận đấu của Manchester United, hoặc của Tranmere Rovers. Ông ấy xuất hiện ở sân tập cũ The Cliff của chúng tôi rất nhiều, và thậm chí ở cả Everton.​
Sẽ có lúc, dù bản CV của bạn tốt đến đâu đi chăng nữa, bạn vẫn có thể cảm thấy bị tổn thương. Đơn cử như tôi, trong những năm cuối cùng làm việc với David Gill, với bộ sậu hàng đầu thế giới. Không có gì phải phàn nàn về mối quan hệ của chúng tôi, nó quá tuyệt vời. Nhưng luôn có một nỗi sợ hãi vô hình trong tôi, nỗi sợ sự cô đơn. Có những buổi chiều, tôi ở một mình trong phòng làm việc, và không ai, đúng vậy, không một ai đến gõ cửa, bởi họ nghĩ rằng tôi đang bận. Nhiều lúc, tôi chỉ muốn tiếng ‘cộc cộc’ đó vang lên. Tôi chỉ cần Mick Phelan hay René Meulensteen đến và hỏi: “Ông có muốn một tách trà không?”. Chỉ vậy là đủ. Và khi chạm tới ngưỡng của sự chịu đựng, tôi đành phải tìm kiếm ai đó để nói chuyện. Trong cuộc đời huấn luyện, bạn sẽ phải đối mặt với những trường hợp như vậy. Bạn cần nói chuyện. Nhưng họ lại nghĩ bạn bận với những công chuyện quan trọng, và tốt hơn hết là không làm phiền bạn.​
Nhưng như đã nói, trường hợp trên chỉ đôi khi xảy ra. Thực tế thì vào khoảng 1 giờ chiều, tôi liên tục phải ‘tiếp khách’. Các HLV của đội trẻ, Ken Ramsden - thư ký của đội bóng, và tất nhiên không thể thiếu các cầu thủ của đội Một. Với tôi, sự xuất hiện của các thủ đội Một có ý nghĩa lớn lao. Bởi họ đến văn phòng của tôi, nghĩa là họ đặt niềm tin vào tôi. Tôi luôn muốn họ chia sẻ những khó khăn, kể cả khi họ cần một ngày nghỉ ngơi hoàn toàn, hoặc giải quyết vấn đề hợp đồng.​
Nếu một cầu thủ muốn một ngày nghỉ phép, hẳn phải có nguyên nhân chính đáng, vì tôi tin các buổi tập ở United luôn có sức hút rất lớn. Tôi sẽ đồng ý mà không cần nghĩ ngợi. Tôi tin họ. Vả lại, nếu bạn nói: “Không, tại sao cậu lại muốn vậy?” và họ trả lời: “Vì bà tôi đã qua đời”, thì khi đó bạn sẽ gặp rắc rối lớn. Nếu họ gặp phải vấn đề trong cuộc sống, tôi luôn sẵn sàng giúp họ tìm giải pháp.​
Tôi từng làm việc với những cộng sự tuyệt vời. Trong số đó, phải kể đến Les Kershaw, Jim Ryan và Dave Bushell. Tôi đưa Les về United từ năm 1987. Phải thừa nhận, đó là quyết định sáng suốt nhất. Bobby Charlton đã giới thiệu Les cho tôi, bởi khi tiếp quản United, tôi chưa thực sự hiểu rõ bóng đá Anh. Quả thực, lời khuyên đó là vô giá. Les từng hoạt động ở Học viện bóng đá của Bobby, và đã làm tuyển trạch viên cho Crystal Palace. Cậu ấy cũng là đồng nghiệp của George Graham và Terry Venables. Bobby tin Les sẽ yêu thích công việc ở Manchester United. Với tôi, như vậy là đủ sức thuyết phục. Và thực tế chứng minh, cậu ấy làm việc rất năng nổ, hiệu quả. Dương như cậu ấy không bao giờ hết chuyện để nói. Cậu ấy sẵn sàng gọi cho tôi vào lúc 6:30 tối Chủ Nhật hàng tuần chỉ để cập nhật thông tin về các tài năng trẻ. Không ít lần Cathy vì quá sốt ruột mà phải thốt lên: “Ông vẫn đang nói chuyện điện thoại ư?”​
Bây giờ, hãy nói tới những trợ lý của tôi. Thông thường, HLV và trợ lý HLV là một cặp và luôn sát cánh bên nhau. Nhưng ở United, câu chuyện hoàn toàn khác. Vì các trợ lý của tôi luôn cần một bản lý lịch hoàn hảo. Lẽ thường tình, họ là mục tiêu của các CLB khác cho vị trí HLV trưởng. Tôi từng mất Archie Knox cho Rangers chỉ hai tuần trước trận chung kết cup C2 năm 1991. Không còn nhiều thời gian để chọn lựa, tôi đã đưa Brian Whitehouse đến Rotterdam (nơi diễn ra trận chung kết năm 1991) để sẵn sàng cho trận đấu.​
Đương nhiên, đó chỉ là giải pháp tạm thời, và tôi bắt đầu tìm kiếm ‘cánh tay phải’ vào mùa hè năm đó. Nobby Stiles (HLV đội trẻ thời bấy giờ, ông có công lớn trong việc đào tạo ra Class of ’92) nói: “Tại sao ông không lựa chọn Brian Kidd?”. Brian hiểu rất rõ đội bóng và đã triển khai mạng lưới tìm kiếm tài năng trẻ trong vùng Manchester. Đó là những thành tích đáng nể nhất của Brian. Và không do dự, tôi đã trao công việc cho Brian. Do luôn giữ được mối quan hệ thân thiện với các cầu thủ, cùng những bài tập hay, nên cậu ấy hoàn thành khá tốt nhiệm vụ mới. Brian cũng từng đến xem những trận bóng ở Serie A và mang về cho đội bóng những kinh nghiệm quý báu.​
Khi Brian chuyển tới Blackburn năm 1998, tôi đã nói với cậu ấy: “Tôi hy vọng cậu hiểu mình đang làm cái gì.” Khi một trợ lý rời đội bóng, họ luôn hỏi: “Ông nghĩ như nào?”. Với Archie, tôi tiếc vì không thể can thiệp được gì giữa giao kèo của Martin Edwards và Rangers. Còn Brian, tôi cảm thấy cậu ấy không phù hợp với vị trí HLV trưởng. Đừng vội nghĩ vì tôi không muốn cậu ấy ra đi. Chỉ cần những gì tốt cho các trợ lý nhất, tôi sẽ thực hiện. Ví dụ như Steve McClaren. Khả năng tổ chức tốt, mạnh mẽ và luôn tìm kiếm ý tưởng mới, Steve sở hữu rất nhiều tố chất của một HLV cần có. Tôi từng bảo cậu ấy: Điều đặc biệt quan trọng là cậu nên lựa chọn kỹ để tìm một CLB phù hợp, một vị chủ tịch phù hợp. West Ham và Southampton từng theo đuổi cậu ấy rất ráo riết. Nhưng bỗng nhiên, Steve nhận được lời đề nghị từ Steve Gibson, chủ tịch Middlesbrough. Tôi lập tức đưa ra lời khuyên: “Đừng chần chừ, hãy nhận nó ngay.” Dù từng mất việc ở đây, như Bryan Robson vẫn thường xuyên khen ngợi Steve Gibson, một vị chủ tịch trẻ, có tâm với đội bóng và không ngại ‘mở két’. Bên cạnh đó, họ còn có một khu tập luyện đáng mơ ước. “Đó là nơi cậu nên làm.” Tôi nói với Steve.​
Còn ai nữa nhỉ? Carlos Queiroz. Nói về cậu ấy, có lẽ phải dùng đến mỹ từ: hoàn hảo. Một người tỉ mỉ, nhưng cũng rất thông minh. Khi chúng tôi đang muốn nhiều hơn những cầu thủ, và có thể là cả HLV đến từ nam bán cầu, Andy Roxburg đã giới thiệu Carlos Queiroz cho tôi. Cậu ấy từng dẫn dắt Nam Phi, vậy nên tôi hỏi ý kiến của Quinton Fortune.​
“Xuất sắc,” Quinton nói.​
“Theo cậu thì tới mức độ nào?”​
“Bất cứ mức độ nào ông muốn,” Quinton trả lời.​
“Được rồi, vậy là đủ,” tôi nghĩ thầm.​
Năm 2002, Carlos đến Anh theo lời mời của tôi. Với những ấn tượng mạnh mẽ, tôi không ngần ngại mà đề nghị cậu ấy vị trí trợ lý HLV. Dù chưa giành bất cứ danh hiệu nào, nhưng tôi nghĩ cậu ấy hoàn toàn có khả năng trở thành HLV của Manchester United, nếu cậu ấy kiên nhẫn hơn.​
“Tôi muốn nói chuyện với ông,” Carlos gọi cho tôi vào mùa hè năm 2003, khi tôi đang đi nghỉ ở phía nam nước Pháp. Lại chuyện quái quỷ gì nữa đây? Đội bóng nào lại theo đuổi cậu ấy vậy? “Tôi chỉ cần nói chuyện với ông,” cậu ta nài nỉ.​
Và cuộc hẹn của chúng tôi được ấn định. Cậu ấy bay sang Nice, còn tôi bắt taxi tới sân bay Nice. Tìm một góc yên tĩnh ở sân bay, chúng tôi đi vào việc chính.​
“Real Madrid đã đề nghị tôi làm HLV trưởng,” Carlos nói.​
“Có hai thứ tôi muốn nói với cậu. Thứ nhất, thật khó để cậu từ chối nó. Thứ hai, cậu đang rời một đội bóng hàng đầu đấy. Có thể công việc của cậu ở Real Madrid chỉ kéo dài trong chưa đầy một năm. Nhưng tại Man United, cậu có thể ở đây cả đời.”​
“Tôi biết chứ,” Carlos nói. “Nhưng tôi thấy đây là một thử thách hấp dẫn."​
“Carlos, tôi không thể thuyết phục cậu ở lại. Bởi nếu tôi làm vậy, và năm tới Real Madrid vô địch Champions League, thì cậu sẽ tự nhủ: ‘lẽ ra mình nên ở đó’. Nhưng tôi muốn cậu biết rằng, đó là một vị trí cực kỳ đáng sợ.”​
Và quả thực, ba tháng sau, Carlos đã có ý định rời Real Madrid. Tôi từng bay tới Tây Ban Nha để gặp cậu ấy. Thông điệp của tôi rất rõ ràng: cậu không thể bỏ cuộc, hãy tiếp tục đương đầu với khó khăn, và trở lại với tôi vào năm tới. Mùa giải đó, tôi để trống vị trí trợ lý, bởi tôi chắc chắn Carlos sẽ trở lại. Jim Ryan và Mick Phelan, họ đều ít nhiều thể hiện năng lực của mình, nhưng tôi không muốn chỉ định ai trong số họ. Tôi chờ Carlos. Thậm chí, tôi từng phỏng vấn Martin Jol. Tôi rất ấn tượng với cậu ấy và thỏa thuận đã gần như được hoàn tất. Nhưng một tuần sau, Carlos gọi và thông báo không thể tiếp tục công việc ở Madrid. Cuộc gọi đó thay đổi mọi thứ. Tôi đành nói với Martin: “Nghe này, tôi đã tìm được cho mình một trợ lý mới.”​
Như đã nói ở trên, trợ lý HLV ở Manchester United là một vị trí có yêu cầu năng lực rất cao. Thậm chí, họ tạo nên nền tảng cho trận đấu. Khi Carlos lần thứ hai rời đội bóng năm 2008, tôi hoàn toàn thông cảm cho cậu ấy. Bồ Đào Nha đang nằm trọn trong tim Carlos. Nhưng cậu nhầm rồi, Carlos. Cậu có đủ hầu hết yêu cầu để trở thành người kế vị tôi ở Manchester United. Có thể cậu ấy sống có phần hơi cảm tính, nhưng so với tất cả những trợ lý của tôi, Carlos là người xuất sắc nhất, chắc chắn rồi. Cậu ấy sẵn sàng đến và nói trực tiếp với bạn: Tôi không hài lòng với điều này, hay điều kia. Thẳng thắn là tính cách mà tôi rất thích ở cậu ấy.​
Chúng tôi có một bộ khung khá mạnh trong năm tôi hủy bỏ kế hoạch giải nghệ, dù không còn Peter Schmeichel và Denis Irwin. Đúng rồi, hãy nói tới Irwin. Chúng tôi thường gọi cậu ấy ‘tám phần mười’ Denis. Nhanh nhẹn và cực kỳ thông minh, cậu ấy sẽ không bao giờ khiến bạn thất vọng. Tôi không nhầm thì cậu ấy chưa từng dính vào một vụ scandal nào. Tôi nhớ, trong một trận đấu với Arsenal, Irwin đã mắc lỗi và để Bergkamp ghi bàn ở những phút cuối cùng. Sau trận, giới báo chí giật tít: “Có lẽ bạn sẽ phải thất vọng với Denis,” và tôi lập tức bảo vệ cậu ấy: “Đừng vậy chứ, cậu ấy đã cống hiến cho CLB trong tám hoặc chín năm qua mà chưa bao giờ mắc sai lầm. Tôi nghĩ chúng ta hoàn toàn có thể thứ lỗi cho cậu ấy một lần.”​
Thách thức lớn nhất của tôi nằm ở vị trí thủ môn. Kể từ thời điểm Schmeichel chuyển tới Sporting Lisbon năm 1999, tôi bắt đầu phải loay hoay tìm lời giải cho bài toán này. Raimond van der Gouw có thể là một thủ môn tốt, rất trung thành và luôn nỗ lực luyện tập, nhưng cậu ấy không thể là sự lựa chọn số 1. Mark Bosnich, cậu ấy không có đủ sự chuyên nghiệp. Massimo Taibi, chỉ sau 4 trận đá chính, cậu ấy đã phải ‘khăn gói’ trở lại Italy. Fabien Barthez từng vô địch World Cup, sở hữu phản xạ tuyệt vời, khả năng dùng tay điêu luyện. Nhưng sự tập trung lại là một điều xa xỉ với cậu ấy. Mà ai cũng biết, sự tập trung quan trọng đến nhường nào ở vị trí thủ môn.​
Trở lại một chút với chủ đề chính, United là một phần của tôi, và tôi không biết mọi chuyện sẽ ra sao nếu tôi ra đi. Đó thực sự là một sai lầm. Tôi hiểu điều đó vào khoảng tháng Mười năm 2000. Lúc đó, tôi muốn mùa giải kết thúc ngay lập tức. Tôi không thể chịu nổi nữa rồi. Tôi tự trách: “Mình thật ngớ ngẩn. Mình nhắc đến nó làm gì cơ chứ?” Mọi thứ trên sân không còn diễn ra theo ý muốn của tôi nữa. Tôi bắt đầu lo lắng cho tương lai. Tôi sẽ đi đâu, tôi sẽ làm gì? Tôi hiểu rằng thời gian làm việc ở United đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm.​
Mùa giải 2001-02 là một năm ‘thất bát’ với chúng tôi. Chúng tôi kết thúc Premier League ở vị trí thứ ba, lọt đến bán kết Champions League trước khi để thua Bayer Leverkusen. Và quan trọng nhất, chúng tôi không có được một danh hiệu nào. Vậy đấy, sau hat-trick danh hiệu Premier League, chúng tôi đã trắng tay.​
Mùa hè năm đó, chúng tôi tích cực ‘shopping’ hơn bao giờ hết. Hai bom tấn Ruud van Nisterooy và Juan Sebastan Veron đã nổ. Bên cạnh đó còn Laurent Blanc. Nhưng tôi lại mắc phải một sai lầm, một sai lầm mà tôi từng rất nhiều lần thừa nhận - bán Jaap Stam. Lý do tôi chiêu mộ Blanc khá đơn giản - tôi cần một cầu thủ có thể nói chuyện và định hướng cho các cầu thủ trẻ. Nửa đầu mùa giải đó thực sự rất đáng nhớ. Roy Keane ném bóng vào mặt Shearer (đương nhiên sau đó bị truất quyền thi đấu) trong trận thua ở Newcastle, và cuộc lội ngược dòng ‘vô tiền khoáng hậu’ với tỷ số 5-3 trước Spurs. Không ai có thể quên ngày 29 tháng Chín năm 2001 đó ở White Harte Lane.​
Đó là một kỷ niệm khó phai. Hết hiệp một, chúng tôi bị dội tới ba ‘gáo nước lạnh’. Các cầu thủ, họ bước vào phòng thay đồ với tâm lý sẵn sàng hứng chịu những màn ‘sấy tóc’ từ tôi. Nhưng không, tôi ngồi xuống và nhẹ nhàng nói: “Nghe này, tôi sẽ nói cho các cậu chúng ta sẽ làm gì. Chúng ta sẽ ghi một bàn thắng trong những phút đầu hiệp hai, và chờ đợi mọi thứ diễn ra theo quy luật của nó. Hãy nhớ đấy, bàn thắng ở những phút đầu tiên.”​
Teddy Sheringham khi đó là đội trưởng của Spurs, đã không quên truyền kinh nghiệm cho các đồng đội. Tôi nhìn thấy Teddy dừng lại và nói: “Bây giờ, đừng để họ có bàn thắng sớm.” Tôi luôn luôn nhớ nó như in. Chúng tôi ghi bàn ở ngay phút đầu tiên.​
Nếu xem trực tiếp, bạn có thể thấy tinh thần của hai đội thay đổi một cách chóng mặt. Trong 44 phút còn lại của trận đấu, chúng tôi hoàn tất cuộc lội ngược dòng với bốn bàn thắng. Không thể tin được. Nó còn có ý nghĩa nhiều hơn một trận thắng. Trong phòng thay đồ, các cầu thủ ôm đầu, và dường như không tin vào những gì mình đã làm.​
Lời cảnh báo của Teddy có lẽ là minh chứng rõ rệt nhất cho sự đáng sợ của chúng tôi với những bàn thắng được ghi vào thời điểm nhạy cảm. Nếu chúng tôi bị thủng lưới trước, thì đồng nghĩa đó là một lời khiêu chiến, và các đối thủ hãy chờ đón những ‘cơn thịnh nộ’. Hầu hết các đội đều phải chịu áp lực khủng khiếp. Họ luôn đếm từng giây để nghe hồi còi kết thúc trận đấu.​
Ở Manchester United, 15 phút cuối trận luôn mang lại cảm xúc khó tả. Đôi lúc, khung thành như bị ‘ma ám’, bóng không chịu đi vào lưới. Các học trò của tôi hiểu rằng họ phải tìm kiếm được bàn thắng. Dù đôi lúc nó không xảy ra, nhưng toàn đội không bao giờ mất niềm tin. Đó là một phẩm chất tuyệt vời.​
Tôi luôn luôn mạo hiểm. Kế hoạch của tôi là: đừng hoảng sợ cho tới 15 phút cuối cùng, hãy kiên nhẫn trước khi chơi ‘tất tay’.​
Tôi còn nhớ, trong một trận đấu Cup với Wimbledon, Peter Schmeichel dâng lên tham gia tấn công và chỉ còn duy nhất Denis Irwin ở sân nhà kèm John Fashanu. Peter đã ở trên được hai phút. Bỗng, Wimbledon có bóng và họ chuyền ngay cho Fashanu. Tình huống cực kỳ nguy hiểm. Nhưng Denis đã can thiệp đúng lúc, chặn bóng và lại nhồi nó vào trung lộ. Nếu bạn muốn tìm kiếm sự giải trí trong những trận đấu, thì đó là điều bạn chờ đợi. Schmeichel có sự liều lĩnh kỳ lạ. Cậu ấy và Barthez thường không ngại dâng cao. Đặc biệt là Barthez, cậu ấy hoàn toàn có thể đá cao hơn trên sân. Trong tour du đấu tại Thái Lan, cậu ấy đã năn nỉ tôi để được chơi ở hàng tấn công, và tôi đã xiêu lòng trong hiệp hai.​
Không đội bóng nào đặt chăn tới Old Trafford mà lại nghĩ rằng đó sẽ là trận đấu dễ dàng. Chúng tôi không bao giờ nản lòng. Một khi dẫn trước chúng tôi với tỷ số 1-0 hay 2-1, thì HLV của đội khách đều hiểu rằng họ sẽ phải chịu ‘cực hình’ ở 15 phút cuối cùng. Nỗi sợ hãi này luôn xuất hiện. Bằng sự dồn ép lên tới đỉnh điểm, chúng tôi liên tục thử thách hàng phòng ngự của họ. Đương nhiên, họ biết điều đó. Bất cứ sai lầm nào đều sẽ phải trả giá. Có thể đôi lúc bạn thất bại, nhưng khi nó thành công, niềm vui sướng còn tăng lên gấp bội.​
Sau hiệp một với Spurs, hy vọng gần như đã tắt với chúng tôi. Nhưng như tôi từng nói ở cuối mùa giải đó: “Trong cơn khủng hoảng, tốt hơn hết là bạn nên giúp mọi người bình tĩnh trở lại.” Hiệu quả tức thì, chúng tôi có năm bàn thắng để giành trọn ba điểm, với hai pha lập công cuối cùng khá đẹp mắt của Veron và Beckham.​
Tuy nhiên, trong khoảng thời gian đó, chúng tôi gặp phải vấn đề nghiêm trọng ở vị trí thủ môn. Hồi tháng Mười, Fabien Barthez mắc hai sai lầm ngớ ngẩn. Chúng tôi để thua Bolton 2-1 ngay trên sân nhà, và 3-1 ở sân Liverpool. Trong hai trận đấu đó, Barthez đều đấm trượt bóng. Nhưng đó chưa phải là những gì tồi tệ nhất. Một tháng sau, Barthez lại chuyền thẳng vào chân Henry, và sau đó là một pha vồ bóng hụt. Henry cùng Arsenal có hai bàn thắng ‘từ trên trời rơi xuống’, còn chúng tôi để thua 3-1.​
Tháng Mười Hai năm 2001 khởi đầu cũng không khá khẩm hơn là bao. Tiếp tục là một trận thua 3-0 trước Chelsea ở sân nhà. Đó đã là trận thua thứ năm ở Premier League trong 14 vòng đầu tiên. Thật may, đó là đáy của hình sin. Chúng tôi dần trở lại và tăng tốc. Ole Gunnar Solskjaer cùng Van Nistelrooy trở thành bộ đôi sát thủ (Andy Cole chuyển tới Blackburn hồi tháng Một năm sau), và chúng tôi vươn lên ngôi đầu bảng vào đầu năm 2002. Trong chiến thắng 2-1 trước Blackburn, Nistelrooy đã lập kỷ lục 10 trận liên tiếp ghi bàn. Đến cuối tháng Một, chúng tôi bỏ cách đội đứng sau bốn điểm.​
Và tháng Hai năm 2002, tôi đã đưa ra thông báo: Tôi vẫn sẽ tiếp tục.​
Khi mọi chuyện đã rõ ràng, phong độ của chúng tôi tốt hơn một cách đáng kể. Chúng tôi giành 13 chiến thắng trong 15 trận. Trong đầu tôi đã nghĩ về trận chung kết Champions League 2002 ở Glasgow. Thậm chí, tôi còn đi khảo sát các khách sạn ở đây. Tôi đã rất cố gắng, tuy vậy không thể kiềm chế nổi ý nghĩ sẽ dẫn toàn đội ra khỏi đường hầm sân Hampden Park. Nhưng rồi, trong trận bán kết lượt về với Bayer Leverkusen, chúng tôi ba lần bị phá bóng trên vạch vôi, để rồi cuối cùng chấp nhận dừng cuộc chơi bởi luật bàn thắng sân khách.​
Nhưng ít nhất, công việc của tôi vẫn tiếp tục. Trong đêm giao thừa - ngày sinh nhật của tôi, toàn bộ gia đình tôi đã tới khách sạn Alderley Edge. Đây là lần đầu tiên chúng tôi được đoàn tụ cùng nhau. Mark thường xuyên ở London, nhưng vẫn có mặt ở khách sạn cùng Darren, Jason và Cathy.​
Khi các cầu thủ hay tin tôi dừng kế hoạch giải nghệ, tôi đã sẵn sàng cho những lời trêu chọc. Tôi biết, với tầm quan trọng của thông báo này, những cái đầu tinh quái của các học trò sẽ lại có dịp phát huy tác dụng.​
Ryan Giggs là ‘kẻ cầm đầu’ trong số đó: “Ồ không, tôi không thể tin được. Tôi vừa mới gia hạn hợp đồng mà.”​
Hồi Ký Ferguson : Leading Hồi Ký Ferguson : Leading - Alex Ferguson Hồi Ký Ferguson : Leading