No person who can read is ever successful at cleaning out an attic.

Ann Landers

 
 
 
 
 
Tác giả: Canh Tân
Thể loại: Lịch Sử
Số chương: 220 - chưa đầy đủ
Phí download: 13 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 776 / 3
Cập nhật: 2017-09-25 02:23:11 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 246-249
hương 246: Bàn Dã Lão (2)
Lưu Khám cũng cực kì coi trọng Bàn Dã Lão.
Nguyên nhân chính là do Khổ Hành Giả nói cho Lưu Khám biết Bàn Dã Lão nắm giữ lấy một môn kỹ nghệ cực kỳ trân quý, tên là “thất thập nhị luyện”!
Thất thập nhị luyện là cái gì? Nói đơn giản, đó chính là một loại kỹ thuật dùng để tinh luyện kim loại. Trong thời Xuân Thu, kỹ thuật tinh luyện kim loại tương đối nguyên thủy, gọi là khối luyện pháp. Dùng than củi làm nhiên liệu, nhiệt lượng rất yếu, thêm vào đó là lò đúc thể tích cũng nhỏ. Thiết bị thông gió cũng kém, bởi vậy độ nóng trong lò rất thấp, không đạt được yêu cầu tối thiểu dùng để dung luyện. Cho nên sắt thép luyện ra, phần lớn đều có bọt khí ở bên trong. Dùng loại kĩ năng khối luyện pháp này chế tạo ra binh khí, hiển nhiên những thứ vũ khí đó không thể sử dụng được. Mà tới những năm cuối của thời kì Chiến Quốc, trải qua năm trăm năm phát triển, kỹ thuật tinh luyện kim loại cũng được đột nhiên tăng lên. Mặc dù ở thời kì này, binh khí chủ yếu được chế tạo từ đồng thau, nhưng có một ít luyện sư cũng không ngưng tìm tòi nghiên cứu để nâng cao phẩm chất. Trong quá trình rèn sắt cùng tôi sắt, không ngừng đun nóng nhiều lần. Sắt thép hấp thu khí cacbon bên trong than củi, đề cao đầy lượng khí Co2, đẩy các tạp chất ra bên ngoài, trở thành thép. Loại thép này có cấu trúc chặt chẽ, lượng cacbon được phân đều, và nó đã được áp dụng để chế tạo binh khí cùng dụng cụ cắt gọt.
Bàn gia trải qua mười hai đời lao tâm khổ tứ nghiên cứu, dựa trên cơ sở Cửu luyện chi pháp, sáng tạo ra loại kỹ thuật ”Thất thập nhị luyện” này. Tại thời điểm chế tạo đồ vật, gia tăng số lần rèn thép. Một khối thép thông thường chỉ cần đốt đốt đánh đánh, đánh đánh đốt đốt rất nhiều lần. Những năm cuối thời kì Chiến Quốc, mọi người có khả năng nắm giữ tài liệu cùng thiết bị, Bàn gia cuối cùng cũng xác định rèn “Thất thập nhị thứ” đã là cực hạn. Thông qua thủ đoạn này chế tạo ra binh khí, sắt thép càng thêm tinh mịn, các thành phần cấu tạo càng thêm phân bố đều với nhau, phẩm chất cũng tăng đến mức tuyệt phẩm.
Có một rắc rối duy nhất đó là, loại kỹ thuật này quá mức rườm rà, tốn cực nhiều công sức cùng với thời gian. Muốn chế tạo ra một kiện binh khí tốt, chẳng những cần phải hao phí rất nhiều tiền bạc, càng cần rất nhiều kinh nghiệm và thời gian. Người bình thường e rằng không chịu được mức hao phí này, cho nên không được lưu hành rộng rãi. Hơn nữa, lúc này đang là thời kì đỉnh cao của khí cụ bằng Thanh Đồng, dùng phương pháp “Thất thập nhị luyện” và thời gian để chế tạo ra được một kiện binh khí thì có thể chế tạo ra trăm kiện binh khí Thanh Đồng. Mặc dù là vương công quý tộc, cũng không muốn dùng tới kĩ thuật ”Thất thập nhị luyện.”
Bàn Dã Lão sống không được ý, một mặt là bởi vì luật pháp, nhưng quan trọng nhất là ông lại hi vọng thông qua hai tay của mình có thể đem kĩ thuật Thất thập nhị luyện” lưu truyền rộng rãi ra bên ngoài. Hơn nữa ông lại có yêu cầu rất cao đối với chất lượng binh khí, một kiện binh khí nếu người khác đánh giá là tốt, có lẽ trong mắt ông cũng chỉ là một kiện hạ phẩm mà thôi. Kể từ đó, người tìm ông chế tạo binh khí càng ngày càng ít, cho tới hôm nay toàn bộ thanh danh lúc trước vất vả tạo dựng cũng đã mất.
Vậy thì kỹ thuật “Thất thập nhị luyện” có tốt đến đâu đi nữa cũng để làm gì? Lưu Khám cũng không rõ ràng lắm. Nhưng thông qua Khổ Hành Giả giới thiệu, Lưu Khám tinh tế cảm thấy được cái kỹ thuật “Thất thập nhị luyện” này chỉ sợ sẽ là mấy trăm năm về sau, mọi người sẽ gọi đây là hình thức ban đầu của Bách luyện thép. Cho nên sau khi dò xét được thời điểm Bàn Dã Lão từ Thủy Chất trở về, Lưu Khám suất lĩnh bộ hạ thân tín, ra bên ngoài cách Lâu Thương thành mười dặm để nghênh đón. Khiến cho Bàn Dã Lão cảm động, lúc ấy lệ rơi đầy mặt, cung kính làm lễ tạ ơn với Lưu Khám.
Trong đời sống có nhiều người rất giảo hoạt, nhưng là có lẽ hậu thế không có bao người thuần phác trung hậu.
Quan niệm vì người tri kỷ có thể dùng cái chết để đã khắc sâu vào tâm khảm của rất nhiều người. Càng là người thuộc tầng dưới chót của xã hội, càng là người không được như ý, lại càng dễ dàng bị cảm động. Về sau, Bàn Dã Lão nghe nói Lưu Khám trong tay có Thần Binh, xin được xem xét và đánh giá. Nào biết được sau khi Lưu Khám lấyXích kỳ ra, Bàn Dã Lão lại nhịn không được òa khóc. Xích Kỳ này... thế mà lại được làm ra từ tay của Tổ phụ của Bàn Dã Lão.
Năm đó Tổ phụ Bàn Dã Lão vì rèn xích kỳ mà hao hết tâm huyết.
May mắn Khám gia lúc đó cũng có chút vốn liếng đã dùng nghìn vàng mới cầu được một thanh Thần Binh, nên mọi phương diện đều ủng hộ Tổ phụ Bàn Dã Lão. Lúc đó Tổ phụ Bàn Dã Lão đã là Đại mạt luyện kim sư, lại sử dụng một khái niệm mới là bách luyện chi pháp, chế tạo ra được Xích kỳ. Tuy thế sau khi Xích kỳ được chế tạo thành công năm thứ hai, Bàn Kim ốm mà chết. Phương pháp bách luyện này cũng từ đó đã bị thất truyền. Bàn Dã Lão được chứng kiến Thần Binh mà năm đó tổ phụ hao tận tâm huyết mới rèn được nên cực kì kích động.
Cũng chính vì thanh Thần Binh này, khiến cho Bàn Dã Lão khăng khăng một mực đi theo làm tùy tùng cho Lưu Khám. Lưu Khám lại phái người đi đón toàn bộ gia đình của Bàn lão về Lâu Thương, khiến cho Bàn Dã Lão giống như được sống lại lần thứ hai, tinh thần cả ngày vô cùng phấn chấn, cực kì kích động. Sau khi Lưu Khám xem xong bản vẽ cải tạo lại chiến xa của Bàn Dã Lão, thì đưa trả lại cho ông.
- Bàn lão!
Lưu Khám lo nghĩ, trầm giọng nói:
- Lúc này Lâu Thương sở hữu năm mươi tư chiếc chiến xa, đều giao cho ngươi cải tạo lại. Mặt khác, ta hi vọng sẽ do ngươi đích thân tới khống chế lò luyện, ta còn có một chút đồ vật, cần ngươi hao tâm tổn trí. Những vật này, tuyệt không thể lưu truyền ra bên ngoài được. Tốn bao nhiêu tiền vàng bạc, hao phí bao nhiêu thời gian...ta đều không để ý! Ta chỉ có một yêu cầu, trước khi được ta cho phép, bí mật ở bên trong Lò luyện sắt, tuyệt đối không được để cho người khác biết.
Ta sẽ mệnh lệnh Lữ Thích Chi cảnh giới bên ngoài Thiết Lư. Không có mệnh lệnh của ta, trừ sáu cha con ngươi ra, bất luận kẻ nào cũng không được đi vào Lò luyện. Ta sẽ truyền tin tức ra ngoài, nói là ngươi chế tạo nông cụ cho ta, nếu có người hỏi thăm, ngươi lập tức báo cho Hành Giả, Hành Giả sẽ biết phải xử trí như thế nào.
Ngụ ý của việc này, chính là muốn đề phòng gian tế.
Tuy không biết rõ ý đồ chân chính trong mệnh lệnh này, nhưng Bàn Dã Lão cùng Khổ Hành Giả đều cảm nhận được trong lời nói của Lưu Khám có một sự trịnh trọng.
Bàn Dã Lão lập tức đứng dậy trả lời:
- Mong Đô Úy yên tâm, chỉ cần ta còn sống một ngày, tất sẽ không để cho người khác biết được bí mật của Thiết Lư.
Chương 247: Lưu Cự chuẩn bị thành thân
Lò luyện sắt là thứ mà Lưu Khám đã có sự tính toán chuẩn bị đã lâu. Tính chính xác thì từ trước khi Lưu Khám đi chinh phạt Bắc Cương, trong đầu hắn đã có khái niệm cơ bản rõ nét về Lò luyện sắt. Giờ đây, hắn đã có thân phận, địa vị, cũng đã có năng lực để thực hiện hành động, cộng thêm với sự gia nhập của cha con Bàn Dã Lão càng khiến cho hắn thêm kiên định ý tưởng của mình. Kỹ thuật là yếu tố hàng đầu của sản xuất! Lưu Khám, người có những ký ức của thế kỷ hiện đại, càng hiểu rõ điều này hơn. Kỹ thuật sản xuất trong thời đại này đương nhiên là rất lạc hậu, hơn nữa những kẻ sĩ một bụng văn thư lại không phải là người nắm giữ kỹ thuật sản xuất.
Nói một cách chính xác thì kỹ thuật sản xuất của thời đại được duy trì và phát triển trong tay của những người thợ. Tuyệt đối không thể coi thường sự thông minh, trí tuệ của cổ nhân. Chỉ vì do có sự gây dựng phát triển của văn hóa Nho học, sự hình thành quan niệm: “Vạn bàn giai hạ phẩm, Duy hữu độc thư cao” đã khiến cho vị trí của những người thợ ngày càng bị hạ thấp, năng lực sáng tạo sản xuất cũng theo sự tiến bộ của thời đại dần dần bị bóp nghẹt, bị tiêu diệt.
Lưu Khám không mong đợi Bàn Dã Lão bọn họ có thể phát minh ra những thứ như thuốc nổ, đèn pháo v.v...Thứ mà hắn cần là trên cơ sở những thứ đã có tiến hành cải tiến sửa đổi. Hôm nay cải tiến một ít, ngày mai lại sửa đổi thêm một ít... Theo đó mà địa vị của những người thợ sẽ nhận được sự công nhận của xã hội, thêm một bước kích thích sự sáng tạo và làm chủ kỹ thuật của những họ. Tích tiểu thành đại, mười năm, hai mươi năm... cũng có thể là một trăm năm sau, lịch sử cuối cùng sẽ có sự biến đổi. Lưu Khám luôn luôn nhận định rằng, cần có một quá trình cho sự biến đổi từ lượng đến chất. Hơn nữa hiện tại mới chỉ là khởi đầu của quá trình thay đổi.
Trình Mạc được nhận mệnh làm Tổng quản lò rèn sắt, chức vụ này đối với hắn mà nói quả thật là đúng người đúng việc. Vốn không phải là người thích quanh quẩn với việc nhà quan, Trình Mạc càng thích thú hơn với những thứ cổ quái kỳ lạ. Ít nhất là trong mắt nhiều người khác, những việc mà hắn thích thú đều rất khó có thể hiểu được. Nhưng buộc phải thừa nhận rằng để cho Trình Mạc quản lý lò rèn sắt là một lựa chọn rất tuyệt! Bàn Dã Lão thuộc vào tuýp lao động, còn Trình Mạc thuộc tuýp lý luận. Sắp xếp cho hai người đó làm việc cùng nhau, Lưu Khám thấy vô cùng yên tâm. Nhờ đó hắn có thể đầu tư thêm nhiều tâm huyết để dự tính những chuyện quan trọng hơn.
Năm Thủy Hoàng thứ 8, cũng là năm Tần Vương Chính thứ 35. Cùng với sự bình ổn của chiến trận Bắc Cương, Đế quốc Đại Tần đón một năm an lành nhất trong lịch sử thống nhất.
Cùng với đại thắng của chiến trận Bắc Cương, hậu duệ sáu nước cũng theo đó mà nguội lạnh tinh thần chống phá trả thù. Trong vòng chưa đầy một năm quét sạch quân Hung Nô, giành được vùng đất đai màu mỡ của Hà Nam, ép đuổi tàn quân Hung Nô lui về cố thủ núi Lang Cư Tư. Nếu còn muốn bắt lỗi thì chỉ còn việc Mông Điềm chặt đầu hơn 50 vạn người... Trận Trường Bình năm xưa, Nhân đồ Bạch Khởi cũng chỉ giết 40 vạn người. Thủ đoạn tàn nhẫn lạnh lùng của Mông Điềm, cùng với sự tinh nhuệ thiện chiến của quân Tần khiến cho những kẻ đang ôm mộng toan tính giang sơn xã tắc Đại Tần đều cảm thấy một chút sợ hãi bất an.
Đầu năm, Mông Điềm lại một lần nữa hưng binh.
Nhưng lần này Mông Điềm không tự thân cầm binh, mà mệnh cho Vương Ly làm chủ tướng, lãnh ba vạn quân Tần tiến đánh Âm Sơn. Sau khi phát hiện ra động tĩnh của quân Tần, Nguyệt Thị quốc không hề xuất binh đánh chặn. Ngược lại, quốc vương Nguyệt Thị còn lệnh cho binh mã của Nguyệt Thị lùi về phương Bắc 300 dặm, thậm chí còn không có bất cứ một sự phản kháng rõ rệt nào. Sau khi Vương Ly chiếm được Âm Sơn, quân Tần không tiếp tục tiến đánh nữa. Tháng 3 năm đó, quốc vương Nguyệt Thị phái sứ giả sang Hàm Dương cầu hòa. Ngoài việc cắt thêm 300 dặm vùng đất Bắc Cương tính từ phía bắc Âm Sơn, Nguyệt Thị quốc còn cống nạp vạn ngàn mỹ nữ.
Nguyệt Thị quốc rất lớn mạnh! Nhưng cái lớn mạnh ấy còn phải xem là so với đối tượng nào. Trên thực tế, người Nguyệt Thị “mềm nắn rắn buông”; khi quân Hung Nô chiếm đất Hà Nam, cũng là lúc bọn chúng cường mạnh nhất, binh lực của hai bên gần tương đương nhau. Nhưng Nguyệt Thị quốc không dám đối đầu với Hung Nô, ngược lại còn cắt đất và tặng trâu, ngựa để cầu hòa.
Lúc đó Đầu Man cũng không dám thúc đuổi quân Nguyệt Thị. Nói cho cùng thì binh lực của hai bên cũng tương đương nhau, ép quân Nguyệt Thị quá thì quân Hung Nô cũng chẳng được dễ thở. Nhưng khi Hung Nô vừa mới thất trận, Nguyệt Thị quốc lập tức trở mặt, phái quân binh đi đòi lại đất đai và ngựa, trâu năm đã tặng cho người Hung Nô năm xưa. Nếu Nguyệt Thị quốc nhân lúc chiến trận vừa kết thúc lợi dụng mặt sông bị đóng băng, thúc binh mã đánh đất Hà Nam, Mông Điềm chưa chắc đã có thể cầm cự được. Dù sao thì cũng vừa mới trải qua một cuộc đại chiến, binh lực Đại Tần bị hao tổn nguyên khí, lại cộng thêm mối đe dọa từ Đông Hồ, không đủ khả năng để điều động binh mã.
Nhưng Nguyệt Thị quốc không công kích phản kháng mà ngược lại quyết định cắm lều dựng trại bên bờ sông phía bắc. Sự công kích mạnh mẽ hung dữ của quân Tần khiến cho người Nguyệt Thị kinh khiếp sợ hãi. Mặc dù xét về binh lực thì người Nguyệt Thị có phần chiếm ưu thế, nhưng cũng không dám tuyên chiến với Đại Tần, quân Tần quả thật quá thiện chiến và hung hãn! Nghe nói năm xưa sáu nước vùng Sơn Đông binh lực hùng mạnh, khiên cứng giáo nhọn, người Tần mình không áo giáp, binh lực yếu kém.
Hai bên đánh nhau thừa chết thiếu sống, kết quả bất ngờ là quân Tần đã chém đầu biết bao nhiêu giáp sĩ sáu nước vùng Sơn Đông mà sống sót chiến thắng. Với binh lực và khả năng chiến đấu như quân Hung Nô mà còn bị quân Tần đánh bại dễ dàng như bẻ gãy cành cây khô. Vậy nên người Nguyệt Thị không muốn đánh, cũng không dám đánh! Hơn nữa quân Tần nghiễm nhiên có được vùng đất màu mỡ nên cũng không từ chối lời đề nghị cầu hòa của Nguyệt Thị quốc.
Kỳ thực hòa hay không hòa cũng chẳng có ý nghĩa gì, cũng không phải là mục đích cuối cùng của việc ký hiệp ước, dù cho có xé bỏ hiệp ước… Có điều hiện tại không phải là lúc làm điều đó.
Lưu Khám đọc xong văn thư mà Lê Thành phái người mang tới, lông mày cau lại thành hình chữ xuyên.
Đối với người Nguyệt Thị, Lưu Khám không hề lo lắng. Điều mà hắn lo lắng là Mạo Đốn ở núi Lang Cư Dã và còn A Lợi đang tạm cư trú tại Đông Hồ.
Hai người này mới là mầm mống hiểm họa của Đại Tần. Mạo Đốn vẫn luôn án binh bất động, cũng rất khiêm nhường. Hắn không xâm chiếm xuống phương Bắc mà yên lặng tĩnh dưỡng. A Lợi cũng như vậy, có điều nay hắn vẫn còn sống dưới trướng của người khác, Đông Hồ Vương mặc dù là cậu của A Lợi, nhưng hắn cũng có rất dè chừng đứa cháu này, nên A Lợi cũng hết sức khiêm nhường. Trong văn thư báo cáo của Lê Thành, A Lợi chỉ xuất hiện có hai lần, điều này khiến cho Lưu Khám cảm thấy vô cùng bất an.
Càng như vậy, thì càng phải cẩn thận!
Lưu Khám viết thư hồi âm cho Lê Thành, nhắn hắn tiếp tục chú ý đến động tĩnh của Mạo Đốn và A Lợi.
Nói tóm lại, Lưu Khám về Lâu Thương đã được hơn nửa năm, quãng thời gian ấy cũng coi như được sống thanh nhàn. Mặc dù công vụ bận rộn, nhưng với sự trợ giúp của Tào Tham và Trần Bình, Lưu Khám cũng không phải quá mệt nhọc. Con trai thì lớn nhanh như thổi, chuyện to nhỏ trong nhỏ LữLữ Tu đều quản lý rành rọt trôi chảy. Kể từ sau khi Lưu Khám giết chết mấy tên môn khách đó, những thực khách trong nhà hắn cũng lần lượt bỏ đi. Một trăm bảy mươi hai người, ngoại trừ ba người bị Lưu Khám giết chết và Hàn Tín thì chỉ còn có hơn ba mươi người ở lại. Môn khách tuy ít, nhưng Lưu Khám cũng chẳng bận tâm. Chỉ có điều thấy hơi ngại ngùng, hơi có chút mất mặt.
Lữ Tu từng khuyên nhủ rằng:
- A Khám, kỳ thực huynh không cần thiết phải làm như vậy.
Dù đến hơn nghìn người chúng ta cũng đều có thể nuôi được, sao phải làm căng thế làm gì? Huynh nhận môn khách để cầu danh... Mạnh Thường Quân có đến ba nghìn môn khách, trong số đó có không ít những kẻ phàm phu vô dụng, chẳng lẽ ông ta lại không biết rõ điều này? Nhưng ông ta vẫn vờ như không có chuyện gì.
Về điểm này, huynh có chút không bằng tỷ phu. Tỷ phu tuy không có được bản lĩnh như huynh, nhưng trong vấn đề đối nhân xử thế lại luôn “hiểu chuyện làm ngơ”, huynh nên học hỏi huynh ấy.
Lưu Khám có chút không vui!
Nhưng hắn cũng biết rằng những điều mà Lữ Tu nói là đúng.
“Muốn ngồi kiệu ắt phải có kiệu phu”... Mạnh Thường Quân nuôi ba nghìn thực khách với mục đích cầu danh tiếng để tự bảo vệ bản thân. Còn Lưu Bang ra vẻ “hiểu chuyện làm ngơ” vì cơ bản hắn không có được bản lĩnh để “hiểu chuyện”, nên chỉ có dùng cái thủ đoạn như vậy để thu phục lòng người phục tùng hắn.
Nhưng Lưu Khám không thể làm như vậy.
Lưu Khám vô cùng hiểu rõ đạo lý “Chân nhân bất lộ tướng”, nay hắn đã là Đô úy Tứ Thủy, đã trở thành cái đích của mọi mũi tên. Trong hoàn cảnh này, hắn có thể cầu tài, cầu quyền, nhưng duy nhất không được cầu danh. “Khiêm nhường thụ lợi, tự mãn gặp hại”, nếu như hắn còn muốn cầu danh thì hoạn nạn sẽ càng đến gần hơn.
Hoàn cảnh hiện tại rất tốt, việc mà Lưu Khám cần làm lúc này là giữ vững hoàn cảnh hiện tại.
Lưu Khám giả thích một cách kín đáo với Lữ Tu về đạo lý này. Dù gì Lữ Tu cũng không phải là ngốc, cô ta ngay lập tức nhận thức được tình cảnh của Lưu Khám.
- A Khám, chuyện của đại ca và Vương Cơ huynh định tính thế nào?
Lữ Tu đột ngột chuyển chủ đề:
- Mẹ có vẻ không vui rồi, thời gian gần đây, muội thấy Vương Cơ hình như cũng rất buồn bã. Đại ca mệnh khổ nhiều nạn, cuộc sống của Vương Cơ cũng nhiều thăng trầm, hai người bọn họ ở bên nhau cũng là ý trời tác hợp. Hôm qua mẹ cũng nói với muội rằng không biết huynh rút cục còn lo lắng chuyện gì... Không quan tâm trước kia đại ca là người như thế nào, nhưng hiện giờ huynh ấy là con của mẹ.
Lưu Khám cau mày, không biết phải trả lời Lữ Tu như thế nào.
Hắn cũng hiểu rằng nếu cứ kéo dài mãi như thế này cũng sẽ làm tổn thương Vương Cơ.
Nhưng...
Lưu Khám nghĩ một lúc, ôm lấy bờ vai của Lữ Tu, hắn nói:
- A Tu, nàng thấy đại ca là người như thế nào?
- Đại ca?
Lữ Tu nghĩ một lát rồi nói:
- Mặc dù đại ca bị mất trí, nhưng có thể nhận thấy huynh ấy là người vô cùng đôn hậu.
Huynh ấy thật sự coi mẹ là mẹ ruột, coi chàng là huynh đệ ruột thịt của mình, càng xem cả nhà là gia đình của huynh ấy.
Muội cho rằng cho dù sau này đại ca có hồi phục trí nhớ cũng sẽ không làm điều gì có lỗi với chúng ta. Nếu như chủ cũ của huynh ấy có đến tìm người, thì với địa vị hiện nay của chàng lẽ nào không giải quyết được? Tóm lại, muội thấy để đại ca và Vương Cơ chung sống với nhau rất hợp lý.
- Hum
Lưu Khám nhẹ nhàng xoa tay nói:
- Mọi người đều cho rằng phù hợp thì ta cũng không có ý kiến gì nữa. Uhm, nàng nói đúng, có lẽ do ta quá cẩn thận. Ta luôn lo lắng nếu như có một ngày đại ca hồi phục trí nhớ thì sẽ làm tổn thương đến tất cả chúng ta... Vậy thì nàng đi hỏi ý kiến của Vương Cơ, đợi lúc ăn cơm tối, ta sẽ nói chuyện này với mẹ. Mọi người đều thống nhất ý kiến rồi thì nên nhanh chóng quyết định sắp xếp mọi việc.
- Vâng, muội lập tức đi tìm Vương Cơ tỷ tỷ!
Lữ Tu đứng dậy chuẩn bị bước ra khỏi cửa thì gặp Tư Mã Hỉ vội vàng bước từ ngoài vào...
- Chủ nhân, ngoài kia có một người nói rằng hắn nhận nhờ vả của một cố nhân của chủ nhân xin vào cầu kiến.
Chương 248: Thần y An Kỳ Sinh vùng Phạm Dương (1)
Lưu Khám nhìn vị khách lạ đang đứng trước mặt mình, trong đầu đang nghĩ xem cố nhân mà người đó nói đến rút cục là ai?
Vị khách lạ cao tầm bảy thước bảy thốn, thân hình có phần gầy gò, nhưng rất tinh nhanh mạnh khỏe. Trên người mặc một chiếc áo choàng màu trắng, toàn thân toát lên khí phái thần tiên thoát tục của một tiên nhân. Gương mặt chính trực, dưới cằm có một bộ râu đẹp, trên lưng đeo một thùng gỗ màu đen, nét mặt tươi tắn.
- Xin hỏi quý tính của tiên sinh, chẳng hay tiên sinh nhận mệnh của ai tới đây?
Tuy cổ nhân có câu, “Không được trông mặt mà bắt hình dong”. Nhưng nếu như may mắn có được một diện mạo tốt đẹp thì vẫn rất dễ dàng lấy được thiện cảm của người khác. Vị khách lạ trước mặt tuy không thể nói được đẹp trai đến mức độ nào, nhưng cái khí chất nho nhã thoát tục của hắn khiến cho Lưu Khám cũng phải nể trọng vài phần, ngôn ngữ giao tiếp cũng thêm phần kính trọng. Lưu Khám không quen người này, nhưng hắn có thể cảm nhận thấy người này tuyệt đối không phải là kẻ tầm thường, ắt hẳn phải là người hiền tài.
- Tiểu dân là An Kỳ Sinh vùng Phạm Dương, xin dâng cho Đô úy bức thư do cố nhân của ngài nhắn chuyển.
Nói đoạn, hắn lấy trong người một cuốn giấy, hai tay dâng lên đưa cho Tư Mã Hỉ.
Tư Mã Hỉ nhanh chóng đỡ lấy, cung kính đặt nó lên thư án của Lưu Khám, sau đó lễ phép chắp tay lui sang một bên.
An Kỳ vùng Phạm Dương?
Lưu Khám cầm cuốn giấy trên tay, cảm thấy cái tên này nghe có phần quen tai, dường như đã từng nghe ai đó nhắc đến nhưng nhất thời không nhớ ra được.
Lướt nhìn những dòng chữ trên cuốn giấy, mắt hắn bất giác rực sáng.
- Tiên sinh gặp gỡ Đường Lệ ở nơi nào?
An Kỳ trả lời:
- Hai năm trước, tiểu dân gặp Đường Sinh ở quận Nam, sau đó kết thành bạn cùng đi chu du, đi tới Kiềm Trung, Quế Lâm, quận Tượng v.v…
Chừng nửa năm trước, tiểu dân chia tay Đường Sinh ở Lâm Trần (nay thuộc thành phố Sùng Tả, Quảng Tây). Đường Sinh đi chu du vùng Ba Thục, còn tiểu dân thì chuẩn bị để về nhà. Lúc chia tay, Đường Sinh có nhờ tiểu dân đến gặp Đô úy, nói rằng nhà Đô úy có một bệnh nhân, nói không chừng tiểu dân có thể chữa trị giúp.
Bệnh nhân?
Lưu Khám ngạc nhiên, trong đầu nghĩ: “Tên Đường Lệ này hắn muốn ám chỉ cái gì chứ? Nhà ta làm gì có bệnh nhân nào? Có điều lần đi chu du này của hắn quả thật là quá xa… Đi tận đến quận Tượng. Chỉ có điều giờ này hắn vẫn còn chưa về, không chừng hắn đi thành quen rồi, không muốn về hay sao?”
Nghĩ đoạn, Lưu Khám cúi đầu cẩn thận đọc từng chữ trong bức thư Đường Lệ viết.
Những hàng chữ Tiểu Tiện thời Tần thật đẹp, Lưu Khám nhìn qua là biết ngay là bút tích của Đường Lệ. Đọc xong bức thư, Lưu Khám hiểu ngay bệnh nhân mà Đường Lệ nói chính là Lưu Cự. Trong thư Đường Lệ có nói An Kỳ là một thần y có tài “Bạch cốt sinh nhục, Khởi tử hồi sinh”. Đường Lệ do ngẫu nhiên có cơ hội cùng An Kỳ vô tình nói đến chuyện tỏa nô.
Không ngờ An Kỳ nói với Đường Lệ rằng hắn đã từng giúp người khác lấy chiếc xích đồng ra khỏi người.
Đường Lệ ngay lập tức nghĩ đến Lưu Cự, vậy là bèn nhờ An Kỳ trên đường về nhà rẽ qua Lầu Thương giúp Lưu Cự lấy sợi xích đồng ra khỏi người.
Đường Lệ, người sinh sống trong thời đại này nên y hiểu rất rõ ý nghĩa của chiếc khóa đồng đó.
Chiếc xích đồng không được lấy ra, thân phận tỏa nô của Lưu Cự sẽ không còn cách nào có thể xóa bỏ. Chỉ cần chủ nhân của gã phát hiện ra, sẽ không tránh khỏi một vụ phiền phức.
Đường Lệ không biết rõ thân phận thật của Lưu Cự!
Bao gồm cả Khám phu nhân, những người xung quanh Lưu Khám ngoại trừ Quán Anh và Trình Mạc là hiểu rõ, Lưu Khám không tiết lộ cho bất cứ một ai thân phận lai lịch của Lưu Cự. Đường Lệ hiểu rõ tâm tư của Khám phu nhân, mỗi lần nhìn thấy sợi xích đồng trên người Lưu Cự, bà lại cảm thấy phiền lòng.
Hơn một năm đi chu du cùng Đường Lệ, An Kỳ thường xuyên nghe Đường Lệ nhắc đến Lưu Khám.
Phần vì y đức trách nhiệm của người thầy thuốc, phần vì y cũng muốn đến Lầu Thương để nhìn xem người được Đường Lệ tích cực khen ngợi rút cục có hình dạng ra sao.
Lưu Khám đọc xong thư bèn vội vàng đứng dậy, cung kính chắp tay hành lễ với An Kỳ.
- Thần Y đại giá quang lâm, Khám ta không nghênh tiếp từ xa, có phần thất lễ.
An Kỳ mỉm cười nói:
- Đô úy không nên khách sáo như vậy, chi bằng có thể đưa ta đi xem bệnh nhân? Ta cần phải đích thân nhìn thấy mới xác định có thể làm được hay không.
- Vậy thì mời Thần y đi theo ta!
Lưu Khám vội vàng mệnh cho Tư Mã Hỉ đi thông báo với Khám phu nhân, sau đó hắn cùng với An Kỳ đi vào nhà trong.
Khám phu nhân đang nói chuyện cùng với Vương Cơ và Lã Tu, còn Lưu Cự thì quỳ gối ngồi bên cạnh phu nhân, ngơ ngẩn nhìn Vương Cơ cười ngượng.
Chỉ nhìn thấy Vương Cơ ngượng đỏ mặt, cúi đầu, không nói gì.
Khi Lưu Khám đưa An Kỳ đến nơi, Tư Mã Hỉ đã nói qua sự tình với lão phu nhân.
Lão phu nhân nghe xong, vui mừng tột độ, vừa nhìn thấy Lưu Khám và An Kỳ bước vào bèn vội vã dẫn ba ba người bọn Lưu Cự đến trước mặt An Kỳ hành lễ.
- Nghe con trai ta nói, Thần y có thể lấy được chiếc xích đồng trên người Lưu Cự nhà chúng ta, xin hỏi có thật vậy không?
Khám phu nhân cũng vì quá yêu thương Lưu Cự nên hỏi thẳng luôn vào chuyện.
An Kỳ cười nói:
- Lão phu nhân xin đừng quá khách sáo. An Kỳ cũng chỉ là tinh thông đôi chút y thuật, tình hình của đại công tử cần phải xem xong rồi mới xác định được.
Nói đoạn, An Kỳ liếc nhìn người đứng sau lão phu nhân, Lưu Cự. Trông hắn tựa như một con mãnh sư.
- Cự, mau tới đây để cho Thần y khám bệnh!
Lão phu nhân vội vàng mời An Kỳ vào trong phòng, Lã Tu và Vương Cơ theo phép xin lui xuống. Đợi cho An Kỳ ngồi xuống, lão phu nhân kêu Lưu Cự qua bên An Kỳ.
- Đại ca, huynh cởi áo ngoài ra đi!
Lưu Cự mặc một chiếc áo khoác ngắn không có tay áo, nghe Lưu Khám nói vậy hắn bèn cởi áo khoác ra, để lộ một thân hình cơ bắp cuồn cuộn. Gã quỳ gối ngồi trước mặt An Kỳ, nhìn một cách hiếu kỳ lạ lẫm, dường như đến lúc này gã vẫn chưa hiểu sự tình là như thế nào.
- Một con mãnh sư dũng mãnh!
An Kỳ bất giác thốt lên một câu khen ngợi.
rồi lại liếc nhìn Lưu Khám một cái, thầm nghĩ: “Thật không hổ là huynh đệ. Lúc trước nhìn thấy Đô úy ta cho rằng thiên hạ này mấy người có được thân thủ phi phàm như vậy. Nhưng không ngờ, huynh trưởng của hắn cũng không kém hắn phần nào. Chỉ có điều… bọn họ không giống nhau, trừ phi không phải là anh em ruột.”
Đương nhiên rồi, thắc mắc này không thể biểu hiện ra ngoài mặt.
An Kỳ chăm chú xem xét một lượt chiếc xích đồng trên người Lưu Khám, cặp mày bất giác từ từ cau lại.
Chiếc xích đồng trên người Lưu Cự đã quện hòa cùng với máu thịt… Đặc biệt là cái xích đồng trước ngực gã, càng gắn chặt với sự phát triển thân hình của Lưu Cự hình thành chút dị hình. Nếu muốn lấy chiếc xích đồng đó, cần phải mất công sức rất lớn. Trường hợp của Lưu Cự hiển nhiên phức tạp hơn rất nhiều những tỏa nô mà An Kỳ đã gặp trước kia. Thật không hiểu nổi người chủ nhân dùng xích đồng trói buộc Lưu Cự mang tâm lý gì mà có thể làm được như vậy?
- Thần Y, xin hỏi xích đồng trên người con ta có thể lấy ra được không?
An Kỳ không trả lời, kêu Lưu Cự đưa tay cho hắn bắt mạch.
- Này, mẹ ta đang hỏi ngươi đó sao không trả lời?
Lưu Cự ồm ồm nói, giọng điệu có phần tức giận. Chỉ từng đấy giận giữ cũng đủ làm cho An Kỳ giật mình đánh thót, sợ hãi.
- Lão phu nhân, chiếc xích đồng trên người đại công tử…
Không đợi cho Khám phu nhân trả lời, Lưu Khám bèn nhanh chóng tranh lấy cơ hội kể lại tình trạng của Lưu Cự. Đương nhiên những điều mà hắn nói đều đã được chuẩn bị từ trước, còn về lai lịch thật sự của Lưu Cự dĩ nhiên là không thể nói ra được. An Kỳ vừa nghe vừa gật đầu, sắc mặt trầm ngâm.
- Đại ca, huynh đi ra ngoài chơi với Tín đi!
Đợi cho An Kỳ kiểm tra cho Lưu Cự xong, Lưu Khám mới nói.
Vương Tín đang đứng hầu ngoài cửa. Nó vốn đang cùng với Lã Thích Chi thí nghiệm xe ngựa chiến đã được cải thiện. Vương Cơ sai người tìm nó về, kêu nó đứng hầu ngoài cửa. Lưu Cự là một đứa trẻ to xác, nghe thấy Lưu Khám nói vậy bèn gật đầu đứng dậy đi ra ngoài.
Chương 249: Thần y An Kỳ Sinh vùng Phạm Dương (2)
An Kỳ nhìn thấy Vương Tín, bất giác giật mình một cái.
Vương Tín mới có 15 tuổi, nhưng thân thể đã vạm vỡ khiến cho người khác phải kinh ngạc. Nó cao tới tám thước, chắc chắn nổi trội hơn hẳn đám bạn cùng lứa.
An Kỳ cho rằng Vương Tín là con của Lưu Cự, trong bụng thầm nghĩ: “Quả đúng là hổ phụ sinh hổ tử. Ba người nhà Lưu Thị đều là những nhân vật anh hùng. Nhìn hình dáng thằng nhỏ đó, mới có 15 tuổi thôi mà đã như vậy rồi, đợi một hai năm nữa chẳng phải là càng khiến cho người khác thêm kinh ngạc?”
- Thần y, đại ca ta huynh ấy…
An Kỳ tức thì tập trung trở lại, nghiêm nét mặt nói:
- Đô úy, An Kỳ xin được nói thẳng, muốn xóa bỏ vết tích của tỏa nô vốn không phải là một việc quá khó, chỉ cần mổ tách phần thịt, lấy sợi xích đồng ra là được… Nhưng vấn đề là cái xích đồng đã buộc trên người đại công tử một thời gian quá dài, máu thịt thậm chí là các kinh mạch đều quện hòa vào với nó. Muốn lấy cái xích ra sẽ có những nguy hiểm nhất định… Lỡ không may sẽ khiến cho đại công tử mất mạng.
- A!
Khám phu nhân lo lắng, vội vàng hỏi:
- Chẳng lẽ không còn cách nào khác sao?
Cách thì có cách, tiểu dân trước kia từng nhìn thấy ở vùng quận Côn Minh phương Nam một loài cỏ đặc biệt có tác dụng cầm máu sinh cơ rất tốt. Ta có thể dùng loại cỏ đó để giữ lấy tính mạng của đại công tử. Nhưng trong quá trình phẫu thuật, đại công tử tốt nhất nên ở trong trạng thái hôn mê bất tỉnh. Bằng không cho dù huynh ấy có một cử động nhỏ đi chăng nữa cũng đều có thể dẫn đến tổn thương kinh mạch… Nếu như vậy thì cho dù đại tài ta cũng không thể cứu được mạng sống của đại công tử.
Lưu Cự phải hôn mê bất tỉnh?
Hơn nữa còn cần bất tỉnh trong thời gian dài…
Đó là một chuyện vô cùng khó khăn.
Lưu Cự là một tay uống rượu cừ khôi, nghìn ly không biết say. Đã từng có một lần, bọn Trung Li Muội, Quán Anh âm mưu chuốc rượu Lưu Cự nhưng kết quả lại bị huynh ấy chuốc cho say bất tỉnh nhân sự. Hơn nữa rượu không làm say được Lưu Cự trong thời gian quá dài.
Lưu Khám nghe An Kỳ nói vậy lại thở phào nhẹ nhõm.
Lưu Khám mỉm cười, đứng dậy bước ra ngoài. Một lúc sau hắn quay trở lại trên tay cầm một cuốn giấy đặt trước mặt An Kỳ.
- Tiên sinh, ngài quen biết Đường Lệ ắt hẳn cũng nghe nói rằng Khám ta có đôi chút hiểu biết về y thuật. Đây là bài thuốc ta có được từ một vị thần y trước kia từng gặp; nghe nói sắc uống những vị thuốc trong đơn thì sẽ có tác dụng làm cho bệnh nhân tạm thời mất đi tri giác nhưng đầu óc thì vẫn tỉnh táo.
Nếu như là bất tỉnh thì e cũng khó có thể phẫu thuật thành công.
Vì dù sao con người sau khi bất tỉnh cũng có rất nhiều hành động theo bản năng, cơ bản là không thể khống chế được. Vậy thì chi bằng khiến cho huynh ấy mất đi tri giác, hiệu quả có thể sẽ tốt hơn. Ta có thể tham gia trợ giúp cho Thần y. Nhưng… Ta không biết đơn thuốc này có tác dụng hay không.
An Kỳ ngạc nhiên nhận lấy đơn thuốc xem một lát.
- Dương trịch trục, vinh lị hoa căn, Đương quy, Bồ xương, Sơn gia tử…
An Kỳ đọc thầm. Lưu Khám với bộ dạng rất thản nhiên đứng bên cạnh.
Đơn thuốc này chính là Ma Phất Tán của hậu thế. Lưu Khám tìm thấy nó trong quyển sách “Những đơn thuốc thần kỳ của Hoa Đà” được xuất bản năm 1979 của Nhà xuất bản Trung Ngoại. Đơn thuốc này không hẳn chính xác là công thức gốc của Ma Phất Tán. Bởi vì Hoa Đà, người sáng chế ra Ma Phất Tán, trước khi qua đời đã không có cơ hội truyền lại đơn thuốc này cho hậu thế. Công thức mà Lưu Khám đọc được là đơn thuốc được lưu truyền bởi Tôn Tư Mục, một danh y nổi tiếng nhà Đường, có thể nó không giống với đơn thuốc gốc của Hoa Đà.
Nhưng trong thế kỷ hiện đại trước kia Lưu Khám từng thử dùng, thấy hiệu quả rất tốt.
Sau khi lạc vào thời đại này, hắn luôn giữ kín đơn thuốc này, chưa từng nói với ai.
- Đô úy, đơn thuốc này… cần phải kiểm nghiệm một chút. Nhưng đơn thuốc này là của ai vậy?
Tuy là lần đầu tiên An Kỳ nhìn thấy đơn thuốc Ma Phất Tán, nhưng có thể do trực giác của người hành nghề y, làm y có một linh cảm mạnh mẽ rằng nó có thể sẽ có tác dụng.
- Ồ, của một thần y tên là Hoa Đà.
Khám phu nhân ngạc nhiên hỏi:
- Hoa Đà… A Khám, sao ta không nhớ trước kia ở nhà Lữ lão gia có một người như vậy nhỉ?
A…
Quên mất rồi!
Trước đó Lưu Khám thường xuyên sử dụng danh tiếng của người khác để nói dối, chưa có lần nào thất bại. Nhưng hôm nay hắn quên mất sự có mặt của Khám phu nhân, tình hình của Lữ gia hắn sao có thể hiểu rõ bằng phu nhân. Nhưng chuyện đó cũng không làm khó được Lưu Khám, hắn vội giải thích:
- Mẹ, người quên rồi sao? Hai năm trước khi chúng ta chuyển tới huyện Bái, Lữ gia từng có một môn khách chỉ ở có hai ngày rồi đi… Hôm sau con đi dọn chăn đệm cho hắn thì phát hiện ra đơn thuốc này…
Nói thực thì những lời nói dối của Lưu Khám đầy lỗ hổng.
Nhưng phần vì Khám phu nhân đang thương xót Lưu Cự, lại do thời gian đã quá lâu, hơn nữa môn khách vốn thường xuyên đến đến đi đi, lão phu nhân quả thực cũng không còn nhớ rõ nữa.
Còn về An Kỳ, lúc này y đang đặt hết tâm trí vào đơn thuốc.
- Đô úy, xem ra đơn thuốc rất có khả năng sẽ có tác dụng. Nhưng cần phải kiểm chứng lại… Uhm, tiểu dân cần ba mươi ngày.
Dù gì thì xích đồng trên người Lưu Cự cũng chẳng phải là mới có một hai ngày, An Kỳ nói rất có lý, Khám phu nhân cũng chẳng có ý kiến gì thêm.
- Nếu đã vậy thì xin làm phiền Thần y rồi!
Khám phu nhân sau khi cảm ơn An Kỳ xong bèn kêu Lưu Khám sắp xếp chỗ ở cho hắn cho chu đáo.
Lưu Khám đương nhiên vâng lời, cung kính mời An Kỳ ở lại. Để tiện cho An Kỳ sớm thực hiện phẫu thuật, Lưu Khám sắp xếp cho Tư Mã Hỉ theo hầu y, có chuyện gì xảy ra Tư Mã Hỉ cũng dễ bề ra mặt giải quyết. An Kỳ không hề tỏ ra khách khí, liệt kê một danh sách đưa cho Lưu Khám đi chuẩn bị.
Cầm tờ danh sách trên tay, Lưu Khám đang bước ra khỏi phòng thì bỗng dưng đứng khựng lại.
- Đô úy, còn chuyện gì nữa vậy?
Lưu Khám quay người lại, nhìn An Kỳ một cách kỳ lạ, một lúc sau mới nhẹ nhàng hỏi:
- Thần y, lúc trước ngài có nói ngài là người Phạm Dương?
An Kỳ lắc đầu cười nói:
- Tổ tiên của ta là người Lang Nha, sau này mới chuyển đến Phạm Dương.
Lâu dần bèn coi mình là người Phạm Dương… Ha ha, Đô úy đột nhiên hỏi vậy phải chăng là có điều gì không đúng sao?
Lưu Khám không kìm được cười lớn!
.
Hình Đồ Hình Đồ - Canh Tân