Nghị lực và sự kiên nhẫn cần có cho bất kỳ ai, ở bất kỳ vị trí nào.

Theodore F. Merseles

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 31
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 297 / 18
Cập nhật: 2019-12-06 08:59:16 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 26 - Săn Ngỗng Trời
ại phòng tranh Gallerie dell’Accademia ở Venice, Philippa ngồi một mình trước bức tranh cung điện bằng vàng của các Doge. Bốn người nông dân đang săm soi viên đá đặt nền với phép tính cộng chữ số La Mã có phần vô lí trong bức tranh nhìn có vẻ cũng lâm vào bế tắc như cô. Cô bẻ bộ não của mình sang đông rồi lại sang tây, chắc chắn rằng câu trả lời nằm trong lời giải của phép toán thoạt nhìn có vẻ không thể nào giải được XI + I = X. Và vì không thể giải được, nên tìm ra đáp án sẽ không phải là một việc dễ dàng gì. Làm sao 11 cộng 1 lại có thể bằng 10 chứ? Không hợp lí chút nào. Dĩ nhiên, vấn đề nằm ở đó. Nếu hợp lí, nó sẽ không còn là một câu đố. Cô đã bỏ ra cả ngày chỉ để nhìn vào bức tranh và suy nghĩ về nó.
Philippa chỉ có một mình trong phòng tranh Gallerie vì cô đã bảo Marco Polo ở lại khách sạn để không làm cô bị phân tán tư tưởng. Sau khi nếm thử món kem Ý – ông quả quyết mình chính là người mang công thức món đó từ Trung Quốc về đây vào cuối thế kỉ thứ 13 – Marco Polo đã nói liên tục không dứt về việc nó ngon hơn món kem Trung Quốc như thế nào. Nói thẳng ra thì Philippa cũng không mấy ngạc nhiên trước nhận xét đó. Bản thân cô cũng khá thích món kem Ý mà. Marco Polo còn rất say mê món pasta[35], cà phê, cocktail Bellini, và dĩ nhiên không thể thiếu phụ nữ thành Venice, một trong những đóa hoa xinh đẹp nhất của nước Ý. Tuy nhiên, ông lại không hứng thú lắm với truyền hình. Ông đã tuyên bố:
– Có lẽ sẽ tốt hơn nếu người ta không phải lúc nào cũng chiếu cùng một thứ trên tivi. Thằng nhóc phù thủy Jonathan Tarot gì ấy, nó thật sự làm ta phát bực.
Philippa cũng không có ý định phản đối ý kiến này.
Xơ Cristina xuất hiện vài lần ở phòng tranh Gallerie và hỏi thăm tình hình đến đâu rồi. Bà thậm chí còn mang cho Philippa một cuốn sách về bí ẩn của Hồng y Marrone được viết bởi một người mang tên Michel Bustinadité, và nó đã giúp cô có thể dễ dàng ghi chú lại những chữ số được sơn dọc theo phần đáy bức tranh:
Tự hỏi không biết đây có phải là một dạng mật mã nào đó hay không, giống như những con rắn nhảy múa trong bức tranh đã mang cô, John và Dybbuk vào một chuyến phiêu lưu đến Kathmandu và Lucknow, Philippa đã bỏ ra vài giờ cố gắng sắp xếp những chữ số thông dụng nhất với những chữ cái phổ biến nhất để giải mã. Phương pháp này mang đến cho cô một thông điệp bắt đầu bằng “ee”, và vì từ duy nhất bắt đầu bằng hai chữ e mà cô có thể nghĩ ra là “eel”[36], cô không nghĩ mình đã đi đúng hướng. Ở Venice làm gì có con lươn nào.
Mệt mỏi vì phải động não liên tục suốt mấy tiếng đồng hồ, Philippa nằm vật xuống cái ghế dài lót da thoải mái – giống như một cái giường – và sau một lúc, cô ngủ thiếp đi.
Philippa thức dậy với một cái cổ đau ê ẩm. Đầu cô đã trượt khỏi ghế trong khi ngủ, và khi cô mở mắt ra, tất cả mọi thứ đều lộn ngược. Vì một lí do gì đó, bức tranh nhìn theo chiều này có vẻ hợp lí hơn. Nghĩ mình còn đang mơ ngủ, Philippa lúc lắc đầu và ngồi dậy. Phải một, hoặc hai phút sau đó, cô mới thình lình nhận ra dù đã thử nhìn ngắm bức tranh theo nhiều cách, nhiều hướng, cô vẫn chưa hề thử nhìn nó theo chiều lộn ngược.
Lột áo khoác ra, Philippa cuộn nó lại làm gối, đặt nó lên sàn, sát bên vách tường. Đưa lưng về phía bức tranh, cô đặt đầu vào cái nệm dã chiến, và rồi đá chân lên cao để trồng cây chuối bằng đỉnh đầu. Philippa hi vọng cô có thể tránh được sự soi mói của một trong những nhân viên phòng tranh đủ lâu để tìm ra lời giải cho câu đố mà cô đang cảm thấy sắp nắm được trong tay đến nơi.
Khi cảm giác máu dồn xuống đầu xuất hiện cũng là lúc Philippa đột ngột hiểu ra ý nghĩa của công thức toán học La Mã bí ẩn trong tranh. Cô thầm thì:
– Eureka! Tìm ra rồi!
Và đúng là cô đã tìm ra nó. Khi nhìn theo chiều lộn ngược, XI + I = X trở thành X = I + IX – một phép tính dĩ nhiên hoàn toàn hợp lí, vì 10 bằng 1 cộng 9. Điều này có nghĩa, bức tranh chỉ có nghĩa như một thông điệp khi nó bị lộn ngược. Và chắc chắn nó đồng nghĩa với việc, những chữ số ở dưới đáy bức tranh cũng nên được đọc theo chiều lộn ngược.
Với tâm trạng đầy phấn khích, Philippa thả người xuống sàn, mò ra tờ giấy mà cô đã dùng để ghi chú lại những chữ số ở đáy bức tranh, và quay nó một vòng một trăm tám mươi độ để phần đáy tờ giấy trở thành phần đầu. Và chỉ sau một, hai giây, cô nhận ra họa sĩ của bức tranh đã thực hiện cùng một mẹo vặt ngớ ngẩn mà John từng có lần làm cho cô xem với một cái máy tính bỏ túi: khi bạn bấm vào số 07734 rồi lật ngược máy tính lại, bạn sẽ có từ hello.
Thông điệp bí ẩn của Hồng y Marrone thì dài hơn và không được tường minh cho lắm.
Thông điệp đó như sau:
XIN CHÀO. ĐI XEM NHỮNG ĐỊA CẦU CỦA CÁC ÔNG CHỦ.
ĐẢO THÁNH. LỖ ĐƠN. CHIẾM LẤY VỎ LỎNG LẺO. VUI SƯỚNG LỚN.
Dĩ nhiên, đọc được thông điệp là một chuyện, còn hiểu được nó lại là một chuyện hoàn toàn khác. Rõ ràng đây là những từ chỉ phương hướng. Và nhiều khả năng là về một thứ gì đó có liên quan đến lâu đài hoàng kim. Tuy nhiên, Philippa cũng hiểu rõ cô cần tham khảo một cái đầu lão làng, gạo cội. Cô quyết định quay lại Giáo đường Thánh Mark và nhờ đến sự hỗ trợ của xơ Cristina.
Vội vã băng qua quảng trường Thánh Mark – đuổi chạy tán loạn bầy bồ câu đang thơ thẩn ở đó – Philippa nhìn thấy bên ngoài lâu đài là một dãy người đứng xếp hàng dài nhất cô từng thấy, và dường như kéo dài đến tận kênh Grand. Cô dừng lại trong giây lát để tự khen ngợi bản thân vì đã thông minh chọn tham quan lâu đài trước đó. Và đó là lúc cô chợt nhận ra một số câu trong thông điệp bí ẩn kia có lẽ cũng không khó hiểu cho lắm. Ai khác ngoài các vị công tước thành Venice có thể là ông chủ của Venice được chứ? Và chẳng phải lâu đài của các Doge có hai trong số những quả địa cầu to nhất mà cô từng thấy hay sao?
Hồng y Marrone dường như đang nói với cô:
– Xin chào, đây là nơi để bắt đầu. Còn nơi nào khác tốt hơn để bắt đầu cuộc tìm kiếm một báu vật mầu nhiệm ngoài một phòng bản đồ cổ đại?
Thay đổi hướng đi ở giữa quảng trường, Philippa hòa vào dòng người đứng xếp hàng ngoài lâu đài. Sau một tiếng đồng hồ chờ đợi, cuối cùng cô cũng có thể chạy lên cầu thang, băng qua lâu đài để đến phòng bản đồ, nơi cô nhớ có trưng bày hai quả địa cầu.
Có thể nói những quả địa cầu này lớn hơn những quả cầu Philippa từng thấy rõ. Mỗi quả cao ngang ngửa một cây piano tủ, to bằng một chiếc xe hơi, và mang màu của vải da cũ. Nhiều khả năng chúng rất đắt giá. Chắc chắn chúng rất cổ.
Philippa đi vòng vòng quanh hai quả cầu như một điêu khắc gia xem xét tác phẩm của mình và tự hỏi tại sao có người cần đến hai quả địa cầu khổng lồ, dù là ở trong một lâu đài. Được chế tạo vào thế kỉ thứ 18 và được đặt cạnh nhau trên sàn nhà lát cẩm thạch, hai quả địa cầu được bảo vệ bởi một hàng rào nhỏ bằng kim loại để ngăn khách tham quan chạm vào chúng. Đó chính xác là điều Philippa muốn làm. Không thì làm sao cô có thể tìm được đảo thánh? Còn có một vấn đề khác: với chiều cao không vượt quá đường xích đạo của hai quả địa cầu là mấy, làm sao cô có thể tìm kiếm trên hai bán cầu bắc?
Hiện tại, cô đành phải tìm kiếm trên hai bán cầu nam trước. Xích lại gần nhất có thể, cô từ từ đi vòng vòng xung quanh hai quả địa cầu để tìm kiếm một thứ mà đến giờ cô vẫn chưa biết chính xác là gì. Tuy nhiên, cô tự tin rằng Hồng y Marrone chắc hẳn sẽ để lại một gợi ý nào đó trên hai quả địa cầu về đảo thánh.
Khi cuộc tìm kiếm trên hai bán cầu nam kết thúc, Philippa bắt đầu cân nhắc việc quay lại khách sạn rủ Marco Polo đi chung để cô có thể đứng trên vai ông, nhưng rồi lại loại bỏ ý tưởng đó. Marco đã quá già để có thể làm một việc như thế. Ngoài ra, lâu đài cũng sắp đóng cửa đến nơi. Không có thời gian để quay về khách sạn, rồi xếp hàng chờ lần nữa. Cái cô cần hiện giờ là một cái cầu thang…
Ngay khi ý nghĩ cuối cùng này vừa xuất hiện trong đầu Philippa, một người thanh niên cao ngang ngửa một cái cầu thang bước vào trong phòng bản đồ. Có nước da đen với nét mặt dễ nhìn, anh mặc cái áo thun của New York Giants, khiến Philippa nghĩ đến việc anh là một cầu thủ bóng đá. Cụ thể là một cầu thủ bóng đá người Mĩ. Cô đi theo anh vòng quanh căn phòng một lúc, chú ý việc cuốn sách hướng dẫn du lịch của anh được viết bằng tiếng Anh, rồi bắt đầu tiếp cận.
Cô mỉm cười rạng rỡ và chào:
– Hi. Anh đến từ Mĩ hả?
Người thanh niêm mỉm cười lại:
– New York. Như áo anh đã nói. Em thì sao, cô bé?
– New York. Ừm… em đang tự hỏi, không biết có thể nhờ anh một chuyện được không ạ?
– Tất cả vì đồng hương New York.
Cô cho biết:
– Em đang cần nhìn phần đỉnh của hai quả địa cầu này. Chỉ có điều em lùn quá. Anh có thể nhấc em lên không ạ? Trên vai anh ấy.
Người thanh niên cười sảng khoái:
– Dĩ nhiên là được. Sao không chứ?
Rồi anh quỳ xuống đất và bảo:
– Em leo lên đi. À, anh tên John Nevada.
Ngay cả một người như Philippa cũng đã nghe nói đến John Nevada.
– Cầu thủ bóng đá?
– Ừ.
– Rất vui được gặp anh, John. Em là Philippa Gaunt.
Philippa trèo lên vai Nevada, và rồi khẽ kêu ré lên một tiếng khi anh đứng thẳng dậy, mang cô lên đến độ cao hơn hai mét mốt. Ở độ cao này, cô có thể dễ dàng trông thấy đỉnh của hai quả địa cầu.
– Hi vọng em không quá nặng.
Công kênh Philippa chầm chậm đi vòng quanh hai quả địa cầu, Nevada bảo:
– Đâu có nặng gì. Mà, em đang tìm cái gì vậy?
Cô thú nhận:
– Em cũng không biết chính xác. Nhưng em chắc chắn sẽ biết một khi thấy nó.
Nevada đưa mắt nhìn cô và nói:
– Hi vọng đây không phải là một trò đùa.
– Không có. Em hoàn toàn nghiêm túc đấy. Anh thấy đó, em phải viết về hai quả địa cầu này. Một bài luận nộp cho trường. Chỉ là, có hơi khó nghiên cứu chúng nếu em chỉ có thể trông thấy một nửa dưới của chúng.
Rồi cô bịa đại một lí do:
– Em chỉ muốn biết kĩ thuật làm bản đồ của thế kỉ thứ 18 chính xác như thế nào thôi.
Anh gật đầu:
– Ra vậy. Thế nó chính xác thế nào?
– Châu Âu nhìn vẫn giống nhau ạ.
– Đó cũng là điều anh nghĩ từ khi bước chân vào đây.
Philippa chợt gọi:
– Khoan. Anh ngừng ở đây một chút giùm em.
Rồi cô cúi người về phía trước để có thể nhìn kĩ hơn. Một cái gì đó màu vàng trên đỉnh một quả địa cầu đang lấp lánh trong ánh nắng chiếu qua cửa sổ lâu đài. Đó là một hình thập tự vàng nhỏ xíu được sơn trên quả địa cầu. Ở ngay bên ngoài bờ biển phía tây của Scotland.
Chắc chắn là nó. Một vị hồng y có thể đánh dấu một đảo thánh bằng gì khác ngoài một hình thập tự chứ? Và một hình thập tự vàng đại diện cho một tấm kim bài. Điều đó cũng hoàn toàn hợp lí. Một khi quay lại khách sạn, cô sẽ lên Internet tìm kiếm thông tin về đảo thánh đó, và xem thử còn có manh mối nào khác để soi sáng phần còn lại trong thông điệp của Marrone.
Cô nói với Nevada:
– Em nghĩ em xem đủ rồi ạ.
Nevada quỳ xuống để cô leo xuống khỏi bờ vai to lớn của anh.
Philippa bảo:
– Cám ơn anh nhé. Nhờ anh, em đã tìm được nhiều điều thú vị.
Đứng thẳng dậy lần nữa, Nevada cười nói:
– Không thành vấn đề. Công việc của anh vốn là mang đến sự khai sáng mà.
Cảm thấy khá là tự hào với bản thân và hào hứng bởi khám phá mới nhất, Philippa nhanh chóng quay về khách sạn và đi thẳng đến trung tâm thương mại, chọn đăng nhập vào một máy vi tính và bắt đầu tìm kiếm thông tin về đảo thánh trên Internet.
Chỉ có hai hòn đảo thánh trên thế giới: một nằm ở ngoài bờ biển Đông Bắc nước Anh, và một – cái mà cô đang tìm kiếm – nằm ở vịnh Firth xứ Clyde, bên ngoài bờ biển phía tây miền Trung Scotland, bên trong vịnh Lamlash trên đảo lớn Arran. Hòn đảo này có một lịch sử lâu đời như một địa điểm linh thiêng, với một dòng suối được tương truyền có khả năng chữa bệnh. Nó còn nổi tiếng với một hang động của một ẩn sĩ thế kỉ thứ 16 có tên Thánh Laserian.
Hang động của một ẩn sĩ?
Philippa nhìn lại bức thông điệp được cất giấu trong những chữ số viết ngược. Nếu ẩn sĩ là một người chọn cách sống đơn độc, thỉnh thoảng là trong một hang động, vì niềm tin tôn giáo của mình, vậy thì điều đó có thể giải thích câu “Lỗ đơn” trong thông điệp được chăng?
Chắc chắn phải là thế, dù cùng lúc, Philippa nghĩ đến việc một hòn đảo ở Scotland tách biệt có vẻ là một nơi quá xa để lặn lội từ Venice đến giấu tấm kim bài hiệu lệnh. May mắn là, cuốn sách của Michel Bustinadité có nhắc tới việc, về cuối đời, Hồng y Marrone đã có một kì nghỉ tại đảo Arran. Từ chi tiết đó, Philippa đã quyết định có lẽ cô và Marco nên bỏ công bay đến Scotland và tìm tấm kim bài ở đó.
Philippa đặt hai vé máy bay. Hai giờ sau, cô và Marco Polo đã trên đường đến sân bay Venice. Marco đã rất bất ngờ khi biết sân bay thành Venice được đặt theo tên ông. Và còn bất ngờ hơn nữa khi biết họ sẽ du hành đến Scotland trên một chiếc máy bay.
Ông hỏi Philippa:
– Đi máy bay thì mất bao lâu để bay từ đây đến Trung Quốc?
Philippa trả lời:
– Khoảng mười, hay mười hai tiếng đồng hồ ạ.
Ông lắc đầu bảo:
– Ta đã mất đến mười tháng để đến được đó đấy. Vậy có lẽ cũng may cho ta. Ta không thể tưởng tượng được có ai đó hứng thú với quyển sách du hành của ta nếu ta chỉ mất có mười tiếng để đến Trung Quốc.
Philippa bảo:
– Cháu nghĩ đó chính là điểm dở của thế giới ngày hôm nay. Nó dường như quá nhỏ bé.
Trước khi lên máy bay, Philippa gọi điện cho cậu Nimrod để thông báo tin tốt cho cậu, tuy nhiên cô đã thất vọng khi điện thoại không kết nối được. Cho nên, cô đã gọi về nhà với hi vọng nhận được vài tin tốt về mẹ mình. Và dù vẫn không có tin tức gì về bà Gaunt, ít nhất Philippa được nói chuyện với cha. Ông Gaunt phục hồi từ chú trói buộc Methuselah đủ để thực hiện một cuộc đối thoại đúng nghĩa với con gái.
Muốn dành bất ngờ thú vị cho cha, Philippa không cho ông biết bà Layla đang trên đường về nhà – như vậy có lẽ là tốt nhất, sau chuyện đã xảy ra. Cô chỉ nhận xét chung chung vài câu về Venice, Scotland và Trung Quốc. Ông Gaunt nói với cô rằng, ông rất nhớ cô và John, và giục cô nhanh về nhà. Điều này khiến cô phải rơi lệ, vì cô thật sự nhớ nhà, nhớ cha mẹ, và nhớ cả ông anh sinh đôi. Sức mạnh djinn cũng là một thứ cô rất nhớ, không phải vì cô muốn làm gì đặc biệt với nó, mà vì nó mang đến cho cô cảm giác khỏe mạnh và sự tự tin, những thứ mà cô đã không cảm thấy trong một thời gian dài.
Trước sự ngạc nhiên vô cùng của Philippa, Marco Polo không có vẻ lo lắng mấy trong chuyến bay đầu tiên của ông. Dù vậy – không tính chuyện ông vốn nổi danh là một nhà thám hiểm vĩ đại – Marco nhanh chóng tiết lộ rằng ông là một bạn đồng hành khó tính. Ông than phiền về hầu hết mọi thứ: có quá nhiều người trên xe buýt ra sân bay; ghế ngồi trên máy bay quá nhỏ; bữa ăn giữa chuyến bay chả có vị gì hết; rượu cứ như giấm; du hành bằng máy bay quá chán vì chẳng có gì để xem ngoài… không khí. Suốt chuyến bay, nhiều lúc Philippa nghĩ cô sẽ phát điên lên vì ông phàn nàn quá nhiều.
Nhưng chỉ đến khi họ đặt chân xuống phi trường với cái tên không mấy sáng tạo Glasgow City Airport của Scotland, Philippa mới biết những lời phàn nàn của Marco Polo suốt chuyến bay so với hiện tại chỉ là chuyện nhỏ: Scotland quá ẩm ướt và quá lạnh lẽo; người ở đây mặt mày khó chịu và bốc mùi rất lạ; không ai mặc vải len kẻ ô vuông như trong mong đợi của ông; Glasgow xám xịt, bụi bặm và không có đủ ánh mặt trời; thức ăn – đặc biệt là món kem – vừa rẻ vừa dở; không khí nồng nặc mùi bia; trong taxi đầy mùi nước xịt phòng và mùi thuốc lá – phải thừa nhận rằng ấy là một hỗn hợp mùi không mấy dễ chịu; ông không thể hiểu được một từ tiếng Anh nào được nói ở Scotland.
Philippa khó lòng phản đối lời phàn nàn cuối cùng này. Ngay cả cô cũng phải công nhận, thật khó để hiểu được thứ tiếng Anh sứt sẹo được nói bởi người Scotland. Tài xế của chiếc taxi họ thuê chở họ đến Ardrossan ở hướng tây nam – từ đó họ dự định đáp phà ra đảo – đặc biệt khó giao tiếp. Thân thiện, nhưng hoàn toàn không có khả năng thực hiện một cuộc đối thoại nào với họ. Ông dường như không gặp rắc rối nào trong việc hiểu được những gì Philippa nói. Vấn đề là, cô không thể nào hiểu nổi ông nói lại với họ những gì.
Đến thị trấn Ardrossan nhỏ bé sau một chuyến đi mệt mỏi vì những hiểu lầm trong ngôn ngữ kéo dài một tiếng đồng hồ, Philippa và Marco Polo đáp phà đến đảo Arran. Một tiếng đồng hồ du hành trên biển nữa, họ cuối cùng cũng đến được hòn đảo trước khi trời tối, và qua đêm tại khách sạn Broons ở Brodick, hải cảng chính của hòn đảo.
Giống khách sạn, buổi sáng ngày hôm sau chào đón họ với sự lạnh lẽo không hiếu khách. Mặt trời chiếu xuống những căn nhà màu sa thạch một thứ ánh nắng gay gắt hằn học, khác xa với ánh nắng thành Venice. Tuy nhiên, ở khía cạnh nào đó, nó cũng rất xinh đẹp. Họ thuê một chiếc xuồng nhỏ với động cơ lắp ngoài, và lướt qua làn nước biển lạnh lẽo, phẳng lặng như gương để đến đảo thánh. Philippa cảm thấy như họ đang du hành đến rìa thế giới, và Marco Polo càng làm trầm trọng thêm suy nghĩ đó khi khăng khăng khẳng định trái đất hình dẹp và họ chắc chắn sẽ chết khi thuyền của họ rớt khỏi rìa đại dương. Nhưng rồi, sau một lúc, hòn đảo hiện rõ trước mắt họ trong cái thở phào nhẹ nhõm của Marco.
Đảo thánh thuộc quyền sở hữu của các thầy tu Tây Tạng, và có một thiền viện Phật giáo to lớn. Điều này làm Philippa cảm thấy hơi lạ và – sau những gì đã xảy ra với cô tại Jayaar Sho Ashram ở Ấn Độ – có phần ngờ vực. Giống như những tín đồ của guru Masamjhasara, các thầy tu ở Peace Centre trên đảo thánh cũng mặc áo chùng màu cam và tập yoga rất nhiều. Nhưng sự tương tự chỉ có chừng ấy. Những thầy tu ở đây rất tử tế, hiếu khách, và thủ lĩnh tinh thần của họ, Thầy Yes, một người Trung Quốc, có vẻ đặc biệt hài lòng khi được nói chuyện bằng ngôn ngữ mẹ đẻ với Marco, mặc dù, vì những lí do hiển nhiên, Philippa nghĩ tốt nhất Marco không nên nói ra tên thật của ông.
Cô và Marco chỉ nói với Thầy Yes rằng họ muốn đến thăm hang động của ẩn sĩ Thánh Laserian xứ Leighlin, và Thầy Yes đã cử một thầy tu dẫn đường cho họ đến cái hang ở phía bên kia hòn đảo.
Khi họ đang hết lên đồi rồi lại xuống dốc, Philippa nói với Marco:
– Cháu chưa bao giờ thấy được mục đích của việc làm một ẩn sĩ. Ý cháu là, chính xác các ẩn sĩ làm gì để trở nên thần thánh vậy?
Marco cười bảo:
– Ta nghĩ mục đích ở đây là không làm gì nhiều. Ngăn cản bản thân không ăn chơi phí thời gian thôi.
Philippa nhận xét:
– Việc đó đúng là quá dễ nếu họ sống trong một hang động, trên một hòn đảo tách biệt ở Scotland.
Marco thầm thì:
– Ta nghĩ họ chỉ là những người ít có khả năng chống lại cám dỗ. Đó có lẽ là lí do đầu tiên khiến họ đến những nơi như thế này.
– Ý kiến hay!
Họ tìm thấy cái hang ở gần bờ biển. Không có gì nhiều để nhìn ngắm, và thật khó để tưởng tượng ra ai đó sống ở đây, ngoại trừ một vị hồng y muốn cất giấu một thứ đồ quý giá. Nó được che phủ bởi rêu, cỏ và một tảng đá dẹp lớn hình tròn nhìn như thể nó là địa điểm làm tổ yêu thích của loài ngỗng trời từ thời thượng cổ. Đến quá gần tổ bảo đảm sẽ khiến bọn ngỗng kêu rít hung hăng liền.
Marco quỳ xuống, chắp hai tay vào nhau, và sau một hoặc hai phút, vị thầy tu dẫn đường cho họ lịch sự rời đi. Thêm mấy phút nữa trôi qua, rồi Marco giục:
– Ok, chúng ta đã ở đây. Phần tiếp theo của thông điệp là gì? Cháu nói đi.
Philippa bảo:
– Cháu xin lỗi. Sau những gì ông nói ở trên thuyền – về trái đất hình dẹp – cháu cứ nghĩ ông đang cầu nguyện.
Marco nói:
– Không. Ta chỉ làm vậy để đuổi người dẫn đường của chúng ta đi chỗ khác thôi. Người ta luôn để cho cháu yên nếu cháu nhìn như đang cầu nguyện.
– Ông thật thông minh!
Không cần phải giở tờ giấy ghi thông điệp bí ẩn trên bức họa Hồng y Marrone ra đọc lại, Philippa nói:
– CHIẾM LẤY VỎ LỎNG LẺO. VUI SƯỚNG LỚN.
Đưa mắt nhìn xung quanh, Marco hỏi:
– Cháu có thấy cái vỏ nào ở đây không?
Philippa lắc đầu:
– Không ạ.
Cái hang khá nhỏ, và Marco buộc phải cúi người để đi vào trong. Ông nhận xét:
– Vị Thánh Laserian này chắc phải thấp lắm đây.
Philippa bảo:
– Nhưng cháu nghĩ ông ấy phải là một người dai sức lắm. Ông nghĩ ông ấy có cửa hay tường nào chặn ở lối vào không? Để ngăn gió, mưa và nước biển tạt vào ấy?
Marco cho biết:
– Ta nghĩ là không. Vào cuối thế kỉ thứ 13, khi ta còn sống, châu Âu đầy ắp những ẩn sĩ. Vài người trong đó suốt ngày đứng ngoài trời. Những người khác thì ngồi trên một cây cột. Cũng không ít người chọn cách tự nhốt mình trong một nhà giam. Khá điên khùng, gần như tất cả. Ta nghĩ họ đều thích một chút gió, một chút mưa. Để tự khảo nghiệm bản thân.
Một cơn gió vỗ vào mặt họ với những giọt mưa lạnh như băng, như thể linh hồn của Thánh Laserian đang cố nhắc nhở họ về khoảng thời gian khổ hạnh của ông. Bầy ngỗng trời làm tổ trên nóc hang kêu gào ầm ĩ như một chiếc taxi New York, cảnh báo họ biết điều mà giữ khoảng cách với nó.
Chạm tay vào một số chữ viết cổ đại trên vách hang, Philippa lẩm bẩm:
– Không biết đây là ngôn ngữ gì nhỉ?
Marco nói:
– Ta không biết. Nhưng ta dám nói những dòng chữ này được viết ở đây từ trước khi Thánh Laserian đến trú ngụ.
Ngừng lại trong giây lát, ông hỏi:
– Bene[37]. Cháu nghĩ chúng ta nên làm gì bây giờ?
Rút một cái xẻng ra khỏi ống tay áo khoác, Philippa nói ngắn gọn:
– Đào.
Marco hỏi:
– Cháu lấy cái này ở đâu ra thế?
Philippa thú nhận:
– Cháu mượn tạm nó từ vườn của các thầy tu.
Rồi quỳ xuống đất, cô bắt đầu đào bới.
Nửa tiếng trôi qua. Và rồi một tiếng. Philippa tìm thấy một đồng xu cổ, một cái nút áo, và một mảnh sắt rỉ nhìn như thể nó từng thuộc về một cái hàng rào sắt. Nhưng không có dấu hiệu gì của một cái vỏ, hay một tấm kim bài hiệu lệnh. Bực bội và nản chí, cô ra khỏi cái hang và ném mảnh sắt rỉ ra biển.
Cô nói:
– Cháu không hiểu. Chúng ta biết Hồng y Marrone đã đến đây nghỉ. Có một hình thập tự vàng đánh dấu đảo thánh trên quả địa cầu trong lâu đài các Doge. Và chỉ có một hang động ẩn dật trên cái đảo thánh này. Chúng ta chắc chắn đã đến đúng nơi. Nhưng không có một cái vỏ lỏng lẻo nào để chiếm lấy cả.
Marco gợi ý:
– Hay là có người đã vô tình nhặt được nó rồi?
Philippa lắc đầu:
– Hồng y Marrone quá khôn khéo để chuyện đó có thể xảy ra. Ông ấy chỉ muốn tấm kim bài được tìm thấy. Bởi những người giải được những manh mối của ông.
Marco bảo:
– Vậy có lẽ cháu đã nhầm lẫn gì đó. Trong trường hợp đó, chúng ta đã phải chịu đựng một hành trình khốn khổ và lặn lội tới tận đất nước bị Chúa từ bỏ này mà không được gì.
Rồi thở dài, ông nói:
– Chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy tấm kim bài. Đây đúng là một cuộc săn ngỗng trời.
– Ông vừa nói gì cơ?
– Ta nói, chúng ta đã lặn lội đến tận đây mà không được gì.
– Không, không phải. Ông nói một thứ khác cơ…
Có một cái gì đó vừa gõ nhẹ trong đầu Philippa. Nhưng đó là gì mới được?
– … Một thứ gì đó có liên quan.
Marco chỉ nhún vai mà không nói gì.
Philippa nói:
– Cháu không nhầm lẫn gì cả. Không thể nào. Nhưng có lẽ ai đó đã nhầm lẫn chăng. Người viết cuốn sách về Hồng y Marrone. Michel Bustinadité. Cháu đã sử dụng cuốn sách của ông ấy làm tư liệu tham khảo về những chữ số bên dưới bức tranh – những chữ số đã đưa cho chúng ta thông điệp khi bị lộn ngược – vì không giống ông ấy, cháu không thể tự tay chạm vào bức tranh đó.
Cô bắt đầu lục túi tìm cuốn sách.
– Nhưng nếu ông ấy đã nhầm lẫn khi chép lại chúng, vậy có khả năng chúng ta đang tìm sai thứ.
Tìm thấy cuốn sách mà xơ Cristina đã đưa cho cô khi còn ở Venice, Philippa chúi đầu vào nghiên cứu một bức ảnh chụp cận cảnh những chữ số bên dưới bức tranh trong một lúc lâu, và rồi huýt sáo một tiếng lớn.
Marco hỏi:
– Gì thế?
Cô cho biết:
– Cái số 35007 này. Nó rất mờ. Nhưng đó không phải là số 7. Là 6! 35006. Ông nhìn nè.
Marco thừa nhận:
– Cháu nói đúng. Nhưng nó giúp ích được gì cho chúng ta chứ?
Philippa tuyên bố:
– Được nhiều chứ ông.
Rồi cô viết chữ số 35006 lên giấy và lộn ngược nó lại.
– Thứ chúng ta cần tim không phải là vỏ “lỏng”. Mà là vỏ “ngỗng”[38]. Ông thấy không? Tấm kim bài không ở trong hang. Nó ở trên nóc hang.
Họ do dự đưa mắt nhìn con ngỗng làm tổ trên nóc hang có kích cỡ của một con chó chăn cừu Đức – hoặc có thể một người chăn cừu Đức – con ngỗng nằm trong cái tổ to nhất trên tảng đá. Và cảm nhận được mối nguy hiểm, nó rít lớn và đập cánh như một lời cảnh báo. Tiếng đập cánh nghe như ai đó rũ một cái khăn đi biển nặng nề trong gió.
Philippa và Marco Polo tiếp tục nhìn. Và càng nhìn, Philippa càng nghĩ đó chính là một nơi hoàn hảo để che giấu một thứ quý báu gì đó. Đặc biệt khi loài ngỗng trời nổi tiếng về sự hung dữ khi đang bảo vệ tổ.
Philippa cho biết:
– Cái tổ của con ngỗng to đùng đằng kia là nơi chúng ta cần tìm.
Marco gật đầu đồng ý:
– Ngỗng là một loài xấu tính. Nhưng ăn cũng rất ngon.
Con ngỗng trừng mắt nhìn hai người bọn họ với cặp mắt tròn và sáng như viên bi, đầy ngờ vực. Philippa không nghi ngờ gì chuyện nó sẽ tặng cho họ những cú mổ đau điếng nếu dám đến quá gần. Một cú mổ, hoặc một cái gì đó tệ hơn. Đòn đập cánh nặng nề từ một con ngỗng trời có thể làm gãy tay người chứ chẳng chơi.
Philippa hỏi:
– Làm sao chúng ta có thể dời con ngỗng đi chỗ khác đủ lâu để kiểm tra cái tổ bên dưới đây?
Philippa là một cô bé thông minh, nhưng không tàn nhẫn, đặc biệt là với những chuyện có liên quan đến động vật.
Nhưng Marco Polo, người đến từ một thời đại khác, lại không có những trói buộc về đạo đức như vậy.
Ông nói:
– Dễ thôi.
Rồi ông bắt đầu ném đá con ngỗng.
Con ngỗng đứng dậy, rít lớn, ăn một cục đá vào ngực, đập đập cánh, ăn thêm một cục đá ném khá chuẩn nữa vào đầu và, trước khi Philippa kịp phản đối sự tàn nhẫn của Marco, nó bay đi với bộ dạng có vẻ không bị thương tổn mấy.
Marco giục:
– Đi thôi. Hãy xem chúng ta có gì ở đó. Trước khi nó quay lại.
Họ cố hết sức di chuyển cái tổ cùng những quả trứng bên trong qua một bên, để con ngỗng mẹ tí nữa có thể quay về chăm sóc. Cố gắng của họ gặp nhiều trở ngại từ số lượng phân ngỗng trên tảng đá; và chẳng mấy chốc, họ không mấy vui vẻ khi nhận ra con ngỗng đã làm tổ trên địa điểm đặc biệt này trong một thời gian rất, rất dài. Philippa một tay bịt mũi, một tay bắt đầu dùng xẻng đào bới.
Cô bảo:
– May là cháu có mang theo cái này. Cháu ghét phải làm việc này bằng tay không lắm.
Tảng đá bên dưới cái tổ lõm xuống theo hình cái đĩa, và sau một khoảng thời gian hì hục đào lớp phân ngỗng đổ đi, cuối cùng họ cũng thấy được một tảng đá hình vuông, giống nút chặn bể chứa, nhìn như thể nó đã được cố ý đặt ở đó để che giấu một thứ gì đó.
Cầm lấy cái xẻng, Marco nạy tảng đá cho lỏng ra, rồi nhấc nó lên. Bên dưới nó là một cái lỗ sâu. Philippa rất ghét ý tưởng phải đưa tay vào lỗ, nhưng cô hít một hơi thật sâu, thò tay vào trong lỗ, sờ soạng chung quanh một lúc, và rồi rút ra một vật thể hình chữ nhật được gói kín trong lớp vải dầu và da thuộc. Đó là một vật nặng, và nhìn nó như thể đã ở đây trong ít nhất một trăm năm.
Philippa hét lên một cách đắc thắng:
– Đúng! Đúng, đúng, đúng! Chúng ta đã tìm được nó. Cháu chắc chắn về điều đó.
Marco nhận xét:
– Nhìn kích cỡ thì đúng là vậy thật.
Lùi vào dưới sự che chắn của cái hang, họ mở gói đồ ra. Bên trong là một vật thể có kích cỡ như một thanh chocolate lớn, với những chữ viết tiếng Hán phủ đầy trên bề mặt. Lấp lánh bên dưới ánh mặt trời buổi sáng lạnh lẽo và khắc nghiệt của Scotland, nó nhìn giống như một thứ gì đó rơi xuống từ thiên đàng. Đó chính là tấm kim bài hiệu lệnh.
Nước mắt thấm ướt khóe mắt, Marco hổn hển nói:
– Sau chừng đó thế kỉ, ta đã nghĩ mình sẽ không bao giờ được trông lại nó. Bây giờ, nhờ có cháu, ta cuối cùng cũng được toại nguyện.
Nhưng ông không chạm vào tấm kim bài.
Lau tay, Philippa giục:
– Ông nhặt nó lên đi.
Marco thú nhận:
– Nó luôn làm ta cảm thấy bất an. Ta nghĩ đó có lẽ là một trong những lí do ta đánh mất nó lần trước. Trách nhiệm gánh vác một sức mạnh lớn lao như thế quá nặng nề đối với ta. Không, cháu hãy giữ nó đi.
Vốn đã quá quen chịu trách nhiệm về sức mạnh, Philippa nhấc tấm kim bài lên. Nó khá nặng. Không chỉ với trọng lượng. Có một cái gì đó về nó – một cảm giác như luồng điện chạy trong người – khiến cô cảm thấy mình đang nắm trong tay một sức mạnh siêu nhiên. Như sức mạnh djinn.
Cô hỏi Marco Polo:
– Cái này quyền năng như thế nào mới được?
Marco cho biết:
– Không ai có thể cưỡng lại nó. Bất cứ việc gì cháu yêu cầu, nó sẽ được thực hiện. Những người cháu ra lệnh, họ sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc phục tùng mệnh lệnh của cháu. Tấm kim bài này là vậy. Luôn luôn là vậy.
Cô nói:
– Ok, giờ đã tìm ra nó rồi, tốt nhất chúng ta nên nghĩ cách quay lại Trung Quốc thôi.
Marco bảo:
– Đó là một hành trình ta đã thực hiện trước đây. Nhưng giờ đây, khi cháu có tấm kim bài hiệu lệnh trong tay, mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
Marco thở dài và đi lang thang xuống sát bờ biển, hít một hơi thật sâu và phóng tầm mắt ra xa. Philippa nghĩ nét mặt ông thể hiện nỗi buồn.
Ông nói:
– Va bene[39]. Thật tốt khi được quay lại thế giới sự sống sau ngần ấy năm. Ta rất trân trọng nó. Nhưng công việc của ta ở đây đã hoàn thành. Thông điệp đã được chuyển giao, và tấm kim bài hiệu lệnh đã thuộc quyền sở hữu của cháu. Đến lúc ta phải đi rồi.
Marco Polo có thể là một người bạn đồng hành kinh khủng, nhưng thình lình viễn cảnh phải một thân một mình đến Trung Quốc khiến Philippa có cảm giác tệ hơn đến vô cùng. Cô nài nỉ:
– Ông đừng đi mà. Không phải là bây giờ. Cháu nghĩ ông sẽ hứng thú với một chuyến đi đến Trung Quốc chứ.
Marco nói:
– Nó từng là vậy. Nhưng giờ thì không. Ngoài ra, ta không nghĩ mình có thể đối mặt với một chuyến bay mười tiếng đến Trung Quốc. Ta không biết sao người khác có thể làm được điều đó. Dù sao thì, ta đã thực hiện lời hứa với Đại hãn. Giờ ta chỉ muốn được nghỉ ngơi. Hi vọng cháu sẽ thích Trung Quốc như ta đã từng thích.
Ông cúi xuống, hôn lên hai má của Philippa theo kiểu người Latinh và chào tạm biệt:
– Arrivederci, cara mia[40].
Philippa cố hỏi:
– Nhưng cháu biết nói gì với Thầy Yes và các thầy tu khác đây? Thể nào họ cũng thắc mắc chuyện gì đã xảy ra với ông.
Marco bảo:
– Không. Họ sẽ không hỏi. Nếu cháu không muốn họ hỏi. Cháu sẽ thấy rằng người khác sẽ làm đúng như những gì cháu muốn, Philippa. Chừng nào cháu còn nắm giữ tấm kim bài hiệu lệnh. Chúc may mắn, con của ta. Cháu là một cô bé rất xuất sắc. Chúc may mắn và thượng lộ bình an!
Cô lo lắng hỏi:
– Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra với ông?
Marco bình tĩnh trả lời:
– Chuyện gì có thể xảy ra cho ta mà chưa từng xảy ra chứ?
Ông ngồi xuống bãi biển, rồi nằm xuống và ngước nhìn bầu trời, như thể đây là một ngày mùa hè nóng bức và ông là một người đàn ông không có lấy một điều bận tâm trên đời.
Philippa nói:
– Ông không thể ở đây.
Marco cho biết:
– Ta sẽ không ở đây lâu đâu. Dù gì ta cũng là một đứa con thành Venice. Biển cả sẽ đến đón ta đi.
Philippa đưa mắt nhìn xung quanh, không biết chắc đang tìm kiếm cái gì. Và rồi cô thấy nó. Ngoài biển. Đó là một con sóng lớn cao khoảng hai, ba mét đang đều đều tiến về phía bãi biển nơi Marco Polo đang nằm. Di chuyển như một bầy ngựa hoang, nhìn nó như thể đang mang theo một mục đích vĩ đại nào đó.
Cô lo lắng nói:
– Một con sóng lớn đang đi đến đây. Ông sẽ bị ướt nếu cứ nằm đó.
Nhưng Marco chỉ thở dài và nhắm mắt lại:
– Bene[41].
Bản năng khiến Philippa lùi lại khu vực an toàn của tảng đá phía trên hang và chờ đợi. Trong một giây, cô nghĩ đến chuyện dùng tấm kim bài hiệu lệnh để bảo Marco rời khỏi bãi biển và cùng cô đi Trung Quốc. Nhưng chuyện đó có vẻ không công bằng sao ấy. Ngoài ra, cô có thể thấy rõ ông hoan nghênh chuyện sắp sửa xảy ra.
Vài giây sau, con sóng cao to đập vào bãi biển với một tiếng ầm lớn, nuốt chửng Marco Polo cùng tất cả những hòn đá, vũng nước đọng bao phủ xung quanh ông. Và khi đợt sóng xám xịt, hỗn loạn đó lặng lẽ rút khỏi bờ, nhà thám hiểm già đã biến mất. Philippa đứng tại chỗ trong một khoảng thời gian dài, dõi mắt về phía biển, tìm kiếm dấu vết của ông trên những đợt sóng nhấp nhô và đường chân trời mờ sương. Nhưng không có gì. Như thể ông chưa từng ở đây. Như thể biển cả đã đòi lại ông.
Philippa vẫn đứng đó một lúc lâu, mặt ướt đẫm với hơi nước từ biển cả và những giọt nước mắt mặn chát, không thể nào phân biệt vị nào với vị nào. Rồi cô lau mặt và, với tấm kim bài hiệu lệnh an toàn cất trong túi, quay lưng đi ngược về thiền viện ở bên kia hòn đảo.
Nếu tấm kim bài có sức mạnh như Marco đã nói, cô nghĩ mình có thể có mặt ở Trung Quốc trong chưa đầy hai mươi bốn tiếng đồng hồ tới.
Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 4 - Ngày Tái Sinh Những Chiến Binh Đất Nung Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 4 - Ngày Tái Sinh Những Chiến Binh Đất Nung - Philip Ballantyne Kerr Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 4 - Ngày Tái Sinh Những Chiến Binh Đất Nung