Outside of a dog, a book is man's best friend. Inside of a dog it's too dark to read.

Attributed to Groucho Marx

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 31
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 297 / 18
Cập nhật: 2019-12-06 08:59:16 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 7 - Những Người Đàn Ông Mặc Đồ Đen
eo Politi, người hầu Ka của Đền Dendur, nhận xét:
– Lạ thật. Hai ngài không giống với những người chết mà tôi đã từng dẫn đường trong linh giới trước đây.
John hỏi:
– Thật à? Tại sao ông nghĩ vậy?
Leo cho biết:
– Hầu hết mọi người thường rất bối rối về những gì đã xảy ra cho họ. Bối rối đến mức họ không nhận thức được thay đổi to lớn mà họ vừa mới trải qua.
John hỏi lại:
– Nghĩa là sao ạ?
– Ý tôi là, họ hoàn toàn không biết gì về việc mình đã chết. Giây phút linh hồn rời khỏi cơ thể trần tục, họ lập tức cố gắng sống cuộc sống bình thường như trước. Và rồi họ trở nên giận dữ khi người sống lờ họ đi. Người Ai Cập biết về điều đó. Đó là lí do họ xây dựng các đền thờ và bổ nhiệm người hầu Ka. Để có ai đó dịu dàng giải thích cho các linh hồn biết chuyện gì đã xảy ra. Dĩ nhiên, ngày nay, người ta không biết phải đi đâu khi họ chết. Chắc chắn họ không bao giờ nghĩ tới chuyện đến Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan ở New York, đến Đền Dendur. Nhưng linh hồn hai ngài đây lại có vẻ biết rõ mình là gì, mình đang làm gì, cũng như mình muốn đi đâu.
Ông Rakshasas nói:
– Hiển nhiên là không ích lợi gì khi mang theo dù nếu giày bạn bị lủng lỗ. Chúng tôi biết mình ở đâu, Leo, và chúng tôi không phải loại người phàn nàn về chuyện đó. Chúng ta luôn phải để một củ khoai tây nhỏ đi kèm với một củ khoai tây lớn.
Ba người ngồi xe buýt xuống Nhà ga Trung tâm để bắt tàu lửa đến sông Hudson. John nhận ra những hành khách khác hoàn toàn không chú ý gì đến họ. Giống như họ không có mặt ở đây. Giống như họ là những hồn ma. Leo nói đúng. Ngoài chi tiết đó, John nghĩ linh giới cũng không mấy khác biệt với thế giới thật. Ngoại trừ việc mọi thứ chỉ có hai màu trắng đen. Ngay cả người sống cũng hiện ra với hai màu trắng đen ở phía bên này của cổng vào ngôi đền. Nhưng cậu bắt đầu nghĩ việc bước vào thế giới hư vô, như cách gọi của cậu Nimrod, thông qua một ngôi đền chỉ tổ lãng phí thời gian mà thôi.
Nghiêng người về phía ông Rakshasas, cậu thầm thì:
– Nếu chỉ là vấn đề bắt xe buýt và tàu lửa, chúng ta có thể tự mình làm việc đó mà. Cháu biết đường đến đảo Bannerman. Tại sao chúng ta lại phải tốn công đến tận ngôi đền? Tại sao chúng ta cần Leo dẫn đường?
Ông Rakshasas cho biết:
– Thứ nhất là, chúng ta hiện có thể trông thấy nhau, trong khi chúng ta không thể trước đây. Một việc hữu ích. Và chúng ta sẽ có thể thấy Faustina, một việc cũng hữu ích không kém. Vô hình là một bất lợi lớn khi cháu muốn nói chuyện với ai đó.
John gật gật đầu:
– À đúng, cháu không nghĩ đến việc đó thật.
Ông Rakshasas nói tiếp:
– Thêm một lí do nữa. Giống như hướng dẫn viên du lịch, một người hầu Ka sẽ biết được một số chuyện mà chúng ta không biết. Ví dụ như, trong số những người chúng ta đang nhìn, ai là người đã chết, và ai là người còn sống. Và trong số những người đã chết, người hầu Ka sẽ biết ai đáng tin, ai không. Chắc chắn luôn có nhiều con sói đội lốt cừu non. Điều đó có nghĩa là, ông ấy còn hơn là một người dẫn đường, John à. Ông ấy có sức mạnh trong linh giới, thứ chúng ta không có.
– Ý ông là, ông ấy giống như một người bảo vệ?
Ông Rakshasas bảo:
– Cũng không hoàn toàn như vậy, vì hiện tại không ai trong chúng ta có cơ thể để cần được bảo vệ. Ông ấy có phần giống một thiên thần hộ mệnh hơn. Ngoại trừ việc ông ấy không phải là một thiên thần, dĩ nhiên. Ông cũng không rõ lắm về vai trò của người hầu Ka. Chỉ hi vọng chúng ta không phải khám phá ra điều đó trong một hoàn cảnh không lấy gì làm dễ chịu.
John đồng ý với ông. Hiện giờ chỉ hơn hồn ma một chút, cậu bắt đầu nghĩ làm hồn ma là một việc cậu có thể xử lí được. Nhưng cái mà ông Rakshasas gọi “một chuyện khác”, ờ, nó là một chuyện khác.
Ở Nhà ga Trung tâm, họ lên cùng một chuyến tàu mà John và Philippa đã đón khi lần đầu tiên đến đảo Bannerman chỉ vài tuần trước đó. Trời đã tối hẳn khi họ đến Câu lạc bộ Du thuyền Newburgh, nơi John bảo với Leo rằng họ có thể chèo xuồng đến đảo Bannerman. Và trong khi Leo đi kiếm xuồng, John và ông Rakshasas đi dạo đến cái nhà thuyền. Nhìn từ bên ngoài, nó trông không khác gì trước đây, nhưng ông lão lái thuyền sống ở đó có vẻ trẻ hơn theo trí nhớ của John. Trẻ hơn, nhưng có phần u sầu hơn. Như thể một thảm họa nào đó đã giáng xuống đầu ông. Không những thế, John còn có cảm giác như ông có thể nhìn thấy họ, dù cậu biết rõ đó là điều không thể. Người sống chỉ có thể nhìn thấy hồn ma trong những trường hợp cực kì đặc biệt.
Họ đứng nhìn ông lão lái thuyền từ bên ngoài cánh cửa bếp để mở trong mấy giây, khi ông đang pha cho mình một tách trà. Rồi, tự lẩm bẩm với bản thân, ông lão băng qua cửa và tiến vào phòng khách, đóng sầm cửa lại sau lưng. John muốn xem thử ông còn giữ Hendrix – con mèo của bạn Dybbuk – hay không, cho nên họ nghĩ việc đó không có hại gì, đi theo ông lão xuyên qua cánh cửa đóng kín và vào trong nhà thuyền.
Căn nhà vắng vẻ và tĩnh mịch. Không có một chút ấm áp nào như lần cuối John ở đây. Về con mèo Hendrix, họ không thấy bóng dáng nó đâu cả. Một cái đồng hồ quả lắc to lớn đứng im lặng trong một góc phòng. Có mạng nhện trên những khung cửa sổ không rèm. Và phần lớn đồ đạc trong nhà phủ kín một lớp bụi. Đó là một đêm trời se lạnh, nhưng không có ngọn lửa nào bùng cháy trong lò sưởi, một việc John cảm thấy hơi bất thường. Nhưng không bất thường bằng hai người đàn ông đang ngồi quanh một cái bàn trong phòng khách.
Cả hai người đàn ông mặc bộ vét đen bóng cùng áo sơ mi đen, có bộ râu đen cùng cặp mắt đen, và trong tay họ là một quyển sách bìa đen cùng một chuỗi tràng hạt đen. Ngay cả vớ của họ cũng màu đen. Một người trong bọn họ có một cái va li màu đen nhỏ, như túi đồ của một bác sĩ, đặt cạnh chân, trong khi người còn lại có một tờ thời khóa biểu lịch chạy tàu lửa trên túi áo, như thể họ mới vừa bước xuống khỏi một chuyến tàu sớm. Có một điều gì đó về hai người đàn ông này khiến John cảm thấy không thích, không chỉ vì mùi nhang trầm nồng nặc bốc ra từ quần áo họ.
Không mở miệng nói gì với hai người đàn ông, ông lão lái thuyền ngồi xuống một cái ghế lật và bắt đầu đu đưa ghế, vừa đu vừa ngân nga thầm trong miệng. Ngay khi ông làm vậy, hai người đàn ông kì lạ khẽ nhảy dựng lên, như thể bị giật mình bởi một chuyện gì đó. Một trong số họ nhìn về phía người còn lại và gật đầu trịnh trọng. Rồi họ mở cuốn sách đặt ở trên bàn ra và bắt đầu lần lượt đọc lớn. Đến lúc này, ông lão lái thuyền trên cái ghế lật bắt đầu rên rỉ nho nhỏ, như thể đang bị đau bụng.
John thầm thì hỏi:
– Ông ấy bị gì vậy?
Ngay khi John vừa nói, một trong hai người đàn ông ngồi ở bàn bắt đầu đọc lớn hơn, trong khi người còn lại đi quanh phòng vẫy nước từ một cái lọ nhỏ cầm trên tay. Tiếng rên rỉ của ông lão lái thuyền trở nên ư ử như chó kêu.
Âm lượng tiếng đọc của hai người đàn ông tăng lên một lần nữa. Dù nó cũng không khác biệt mấy với John, vốn không hiểu được một chữ nào. Cuốn sách họ đang đọc được viết bằng một thứ ngôn ngữ tuy nghe rất quen, cậu vẫn không thể nhận ra nó. Rồi, vẫn tiếp tục đọc lớn, hai người đàn ông đứng dậy, và John nhận ra một điều về họ mà cậu đã không nhận ra trước đó. Họ đang hoảng sợ. Nhưng về cái gì mới được?
Cậu hỏi ông Rakshasas:
– Ông có hiểu họ đang nói cái gì không?
Ông Rakshasas la lớn để trả lời, vì giờ đây tiếng đọc đã lớn đến mức họ khó có thể nghe thấy nhau nếu nói chuyện bình thường:
– Đó là tiếng La-tinh.
Tiếng ồn đã triệu hồi Leo vào trong nhà. Trong một giây, ông đứng sững trên lối vào, với một vẻ mặt kinh hoàng ngày càng rõ rệt.
Ông giục:
– Đi. Chúng ta phải rời khỏi đây. Ngay bây giờ. Hai ngài không hiểu hả? Họ là thầy trừ tà.
John thắc mắc:
– Hả? Trừ tà dạng nào cơ?
Với vẻ mặt cực kì khích động, Leo hét to:
– Chuyện đó quan trọng gì? Nếu không rời khỏi đây, một chuyện khủng khiếp sẽ xảy ra. Đó là việc các thầy trừ tà làm. Họ xua đuổi hồn ma.
Tuy nhiên, trước khi người hầu Ka của đền Dendur kịp nói thêm tiếng nào, ông lão lái thuyền trên cái ghế lật hét lớn một tiếng và vụt chạy xuyên qua cửa sổ. Và chỉ khi cánh cửa sổ không vỡ tung ra từng mảnh, John bị sốc nặng khi nhận ra ông lão lái thuyền là một hồn ma.
Cậu lẩm bẩm:
– Ông ấy chết rồi.
Ông Rakshasas nói:
– Ừ. Chỉ là ông không nghĩ ông ấy thừa nhận chuyện đó. Ông ấy bối rối. Như Leo đã nói người ta thường bối rối sau khi chết.
Nhưng nếu John nghĩ ông lão lái thuyền là hồn ma duy nhất trong cái nhà thuyền cũ kĩ này thì cậu đã lầm. Khi John và ông Rakshasas bước ra hành lang để hướng về phía cửa sau, nhiều linh hồn khác hiện ra từ các tầng lầu và các căn phòng khác. Những hồn ma già hơn. Những hồn ma cổ đại. Những hồn ma có lẽ đã đeo bám thung lũng sông Hudson trong suốt mấy trăm năm. Những hồn ma giờ đây đang la hét, gào thét, và đang hỗn loạn bỏ chạy khỏi căn nhà trước khi hai thầy trừ tà có thể giáng những thảm họa khủng khiếp khác lên đầu họ.
Leo la to trong kinh ngạc:
– Tôi không hiểu. Một căn nhà đáng lẽ không có nhiều hồn ma như vậy. Không thể nào có chuyện đó. Giống như tất cả bọn họ đang lẩn trốn một cái gì đó ở đây.
John cố gắng lách mình ra khỏi đường đi của những hồn ma hoảng loạn, nhưng không còn kịp nữa. Một trong số họ, điên cuồng bỏ trốn khỏi cái nhà thuyền, chạy xuyên thẳng qua người John, và trong một khoảng khắc ngắn ngủi, chính cậu đang bỏ chạy hòng giữ lấy mạng sống – một cảm giác kinh khủng – và cậu nghe thấy tiếng mình gào thét gọi tên ông Rakshasas. Cùng lúc đó, cậu cảm nhận được trong tích tắc sự kinh hoàng mà hồn ma đã trải nghiệm trước khi chết hơn ba trăm năm mươi năm trước, cùng sự thống khổ mà nó đã chịu đựng suốt từ đó đến giờ.
Lần đầu tiên chuyện đó xảy ra, nó chỉ kéo dài trong một giây. Lần thứ hai xảy ra, dường như nó kéo dài vĩnh viễn…
Cậu đang chạy như điên qua khu rừng ẩm ướt để bảo toàn mạng sống. Không khí buổi sớm mùa xuân ở thung lũng sông Hudson dày đặc mùi thuốc súng, mùi của những bụi cây ẩm ướt cùng tiếng reo hò của những thổ dân Mohican đã đột ngột tấn công một nhóm nhỏ thợ săn lông thú người Hà Lan. Vũ khí của những gã thổ dân thô sơ nhưng hiệu quả: chùy cối, rìu, và cung tên. Vài thành viên trong đoàn thợ săn của cậu đã chống trả bằng súng kíp, nhưng với hầu hết những người còn lại, đơn giản họ không có đủ thời gian, cũng như đủ khoảng cách an toàn để nổ súng. Và giờ đây, cậu đang một thân một mình bỏ chạy trối chết, dù cậu hoàn toàn không biết mình đang đi về hướng nào. Điều duy nhất quan trọng ở đây là không ngừng chạy. Để trốn thoát. Để chạy đủ xa và ẩn nấp khỏi những gã thổ dân, rồi sau đó, dưới sự che chở của bóng đêm, tìm đường quay về pháo đài. Việc cậu chỉ là một đứa trẻ sẽ không đủ để gợi lên lòng thương hại của những thổ dân Mohican. Cậu cúi người tránh một nhánh cây và nhảy vọt qua một dòng suối nhỏ. Trong tích tắc, cậu bị trượt chân và ngã xuống, nhưng cậu cuộn người xoay vài vòng khi chạm đất, lăn xuống một ngọn dốc, nhanh chóng đứng bật dậy, và rồi phóng vọt qua một thân cây rơi trên mặt đất với sự linh hoạt của một con cáo bị săn đuổi. Một cái gì đó chạm vào thân cây sau lưng cậu, và cậu nghe thấy tiếng hét lớn như tiếng chim rít gào của gã thổ dân đang đuổi theo cậu, thông báo cho những tên khác gã đang ở đâu để đến giúp đuổi bắt thằng nhóc “mắt trắng”. Chúng đang dần bắt kịp cậu, và tất cả những gì cậu có thể nghĩ đến là ngày tháng: ngày 12 tháng Năm năm 1640. Hôm nay chính là sinh nhật lần thứ mười lăm của cậu. Cậu còn có ngày sinh nhật tiếp theo hay không? Cậu còn có thể gặp lại mẹ ở Amsterdam hay không? Loạng choạng vọt qua một lùm cây um tùm, cậu phát hiện mình đang đứng trên bờ sông Hudson vĩ đại mờ sương. Có cố gắng vượt qua dòng nước phẳng lặng như mặt gương ấy cũng vô ích. Nó quá rộng. Và cậu cũng không biết bơi. Nên chạy hướng nào đây? Ngược dòng, hay xuôi dòng? Trên lớp bùn dọc bờ sông, cậu trượt chân, bò dưới một bụi cây, lội qua một đoạn nước cạn, rồi chạy quanh thân hình của một cái cây to lớn. Thẳng vào cánh tay đầy cơ bắp dang rộng của một gã thổ dân Mohican to lớn sơn vẽ đầy người. Gã thổ dân nặng mùi chộp lấy cổ tay cậu, nở nụ cười chó sói với sự hung ác được tô điểm thêm bởi lớp vữa đen che kín cả cái đầu cạo trọc của gã, trước khi đập đầu cậu bằng một miếng gỗ sơn màu lòe loẹt có hình dáng như một khẩu súng lục. Cậu choáng váng té ngã xuống đất. Ngửa mặt về phía đỉnh các ngọn cây, gã thổ dân để trần nửa người hú lên một tiếng đắc thắng và kéo sệt cậu lên bờ sông như một bao khoai tây, rồi gã đẩy cậu ngồi tựa vào một cây thông lớn và trói cậu vào nó với một sợi dây mỏng làm từ da động vật. Những gã Mohican khác nhanh chóng đến nơi, hú lớn như một bầy sói xám Bắc Mĩ hưng phấn, đầu cũng sơn đen ngòm nhìn giống như bị gắn lộn cơ thể bởi một đứa trẻ tinh nghịch. Một trong những gã thổ dân nhóm một đống lửa. Một gã khác tìm một thân cây rỗng và bắt đầu gõ gõ vào nó theo nhịp trống nào đó, miệng rì rầm một bài hát không giai điệu. Cảm nhận được sự tuyệt vọng khốn cùng của tình huống đang gặp phải, cậu ngước mặt nhìn lên bầu trời xanh trong không một gợn mây, và bắt đầu cầu nguyện…
Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 4 - Ngày Tái Sinh Những Chiến Binh Đất Nung Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 4 - Ngày Tái Sinh Những Chiến Binh Đất Nung - Philip Ballantyne Kerr Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 4 - Ngày Tái Sinh Những Chiến Binh Đất Nung