Vẻ hào nhoáng sang trọng là thứ mà mọi người luôn ao ước, nhưng chính sự trưởng thành trong khó khăn mới thực sự làm người ta ngưỡng mộ.

Francis Bacon

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 22
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 264 / 25
Cập nhật: 2019-11-13 12:07:20 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 13 - Bên Trong Lòng Giếng
an đêm là thời điểm vô cùng thích hợp cho nhiệm vụ xuyên lòng đất bí mật của họ. Ánh trăng tròn bàng bạc tím dẫn đường cho họ đến cái giếng cổ nằm giữa khu sân sau lát sỏi gồ ghề. Vài con dơi bay lượn quanh những cái lỗ châu mai trên dãy tường thành phía trong, nhưng ngoại trừ tiếng kêu chít chít nhỏ xíu gần như không thể nghe thấy của chúng, không có gì phá tan sự tĩnh lặng của đêm tối. Ba đứa trẻ và ông Groanin sẽ phải thám hiểm lòng giếng sao cho “êm” nhất, vì bất cứ tiếng động nào vang lên ở khu sân sau có thể sẽ bị khuếch đại và thu hút sự chú ý từ một trong những khung cửa sổ sáng đèn trên tường thành. Theo như Jagannatha nói, thì vị guru sống ngay đằng sau những khung cửa sổ cao cao ấy, trong một căn hộ cực kỳ xa xỉ.
Chụm đầu lại trên miệng giếng, họ thả một hòn đá xuống lòng giếng và đếm tới mười lăm trước khi nghe được một tiếng “tõm” nhỏ vang lên từ khoảng không tối đen như mực bên dưới.
John nhận xét:
– Nó sâu cỡ 30 mét.
Ông Groanin thầm thì:
– Ta nghĩ phải cỡ 45 mét mới đúng.
Rồi ông lắc đầu, vẻ đầy dứt khoát:
– Quỷ thần ơi, ta cá là có cả vài câu chuyện nằm trong cài giếng này chứ chả chơi.
Vốn tình nguyện đi xuống giếng trên một cái gàu múc nước lớn bằng kim loại đặt trên bức tường đá của cái giếng, Dybbuk chột dạ hỏi:
– Ý ông là sao?
Ông Groanin cho biết:
– Ta đã đọc về cái pháo đài màu hồng này. Trong thư viện của ashram. Có vẻ như, sau khi trấn áp cuộc nổi loạn, quân đội Anh đã ném mấy chục người Ấn Độ khốn khổ xuống cái giếng này…
Ngừng lại một giây để tăng thêm tính căng thẳng cho câu chuyện của mình, ông nhấn mạnh:
– … khi họ vẫn còn sống nhăn.
Dybbuk nuốt nước bọt cái “ực” và trong khoảnh sân âm vang này, nó dội lại lớn như tiếng “gộp gộp” của một con gà tây.
Ông Groanin, hoàn toàn không chú ý tới khuôn mặt ngày càng trở nên xám ngoét của Dybbuk, kể tiếp:
– Nghe nói, một số người còn tự nhảy xuống dưới này để trốn thoát khỏi một số phận bi thảm hơn. Có điều, ta chắc chuyện đó phải xảy ra khá lâu sau khi đại tá Killiecrankie đã giấu cái bùa hộ thân trong giếng. Ta không nghĩ ngài đại tá của chúng ta có đủ can đảm để mò xuống giếng nếu nó đầy nhóc xác người.
Dybbuk chăm chăm nhìn xuống khoảng không tối đen, lạnh lẽo bên trong lòng giếng như bị thôi miên. Thật dễ để tưởng tượng ra cảnh một ai đó quăng mình xuống dưới đó. Và cậu cũng không thể tưởng tượng ra được một số phận khác bi thảm hơn.
Dybbuk hỏi, giọng không còn hơi:
– Chuyện gì xảy ra với chúng? Với mấy cái thây đó. Chúng vẫn ở dưới đó hả?
– Chúng được mang ra khỏi đây khi người Anh quyết định đóng quân tại pháo đài này. Mang đi và tái chôn cất, để lính Anh có thể sử dụng nguồn nước. Ít nhất quyển sách ta đọc nói thế.
Ông Groanin thả thêm một hòn đá khác xuống giếng. Lần này, tiếng động vang lên nghe tựa hồ tiếng rên rỉ oán than của một trong những người Ấn xấu số đã kết thúc cuộc đời bên dưới lòng giếng lạnh lẽo.
Đẩy cái gàu múc nước vào trong lòng giếng và đặt chân lên cái phanh thắng - có thể dùng để tùy ý hạ cái gàu nhanh hơn, chậm hơn, hoặc ngừng hắn nó lại - ông Groanin hỏi:
– Ok, ta sẵn sàng rồi. Dybbuk là người sẽ đi xuống, đúng không?
Dù đang đứng trong bóng tối của cái chòi đá che trên miệng giếng, John và Philippa cũng có thể nhận ra lòng can đảm của Dybbuk đã bay biến sạch sẽ. Mà cũng không trách cậu được. Đặc biệt là sau câu chuyện vô ý của ông Groanin. Cái giếng nhìn thấy ớn, lạnh lẽo và ẩm ướt y như một lăng mộ, và thật quá dễ dàng để tưởng tượng một bộ xương đáng sợ nào đó vẫn còn ẩn mình trong lòng giếng sâu thẳm. Dù là ai bước lên cái gàu để xuống dưới, họ cũng cần đến một thần kinh vững như bàn thạch.
Cái gàu múc nước to cỡ một cái thùng rác, và được cột chặt vào một sợi dây thừng dày quấn quanh một trục quay lớn nhìn có vẻ cũ kỹ chạy dọc ngang miệng giếng. Có một cái bánh răng trên trục quay, và gắn vào nó là một tay cầm bằng gỗ nặng trịch mà nhờ đó, người ta có thể quay trục quay để nâng hoặc hạ cái gàu. Dù đã vặn nát óc, cả Philippa, John và Dybbuk đều chịu thua không biết phải sử dụng sức mạnh djinn như thế nào để tạo ra một “phương tiện” đi xuống lòng giếng khác, sao cho kẻ đi xuống có khả năng “lo được” cái vụ cuối cùng trong thông điệp bí ẩn của đại tá Killiecrankie: “Hãy tìm kiếm con rắn thứ ba. Nhưng coi chừng con rắn thứ tám”. Nếu biến thành một con chim, hay thậm chí là một con dơi, họ có thể bay ra vào cái giếng dễ dàng hơn, nhưng cả hai sinh vật này đều không đủ sức dịch chuyển một viên gạch trên thành giếng - vì có vẻ như họ sẽ phải làm vậy - cũng như không có khả năng vác đi một bùa hộ thân bằng vàng ròng. Tất cả những gì sức mạnh djinn có thể phụ trợ cho họ là biến ra một cái đục, một cây búa cỡ vừa, vài cây đèn pin loại tốt, cùng mấy cái bộ đàm liên lạc mini.
Như thường lệ, John là người thấy được giải pháp cho câu hỏi khó khăn: ai trong số họ đủ can đảm để đi xuống giếng. Cậu hỏi ông Groanin:
– Ông nghĩ có thể gánh nổi sức nặng của cả ba tụi cháu bên trong cái gàu không? Thay vì chỉ có một mình Dybbuk.
Groanin lắc đầu buồn bã:
– Không thể. Dù chỉ có hai đứa cũng không thể. Không thể, với chỉ một tay. Hạ cái gàu xuống thì không có vấn đề gì. Ta có thể làm nó dễ dàng với cái thắng chân này. Nhưng nâng cái gàu lên lại là chuyện rất khó. Một việc như vậy chắc chắn đòi hỏi đến hai tay. Và như cháu thấy đấy, ta chỉ có một tay.
John gợi ý:
– Nhưng nếu ông có đủ hai tay thì sao? Và nếu cánh tay mới của ông cực kỳ mạnh?
Ông Groanin khẽ nhíu mày cân nhắc gợi ý đó. Ngồi xuống bức tường đá bao quanh cái giếng, ông nói:
– Đó là một ý kiến không tồi. Nhưng John, cháu không phiền cho ta một phút suy nghĩ chứ? Cháu thấy đó, ta đã quen với việc chỉ có một tay. Quen đến nỗi, thinh thoảng ta tự hỏi ta biết làm gì với hai tay. Trừ khi tập yoga, dĩ nhiên rồi. Ta có thể thấy có thêm một cánh tay nữa tiện lợi như thế nào cho việc đó.
Rồi thở dài, ông nói tiếp:
– Mấy đứa biết không, Nimrod vẫn thường đề nghị tặng cho ta một cánh tay nữa, và ta luôn từ chối. Không phải vì ta thích chỉ có một tay, mà vì ta sẽ phải làm quen với việc có hai tay lần nữa. Tuy nhiên, giờ phút này, ta phải nghĩ lại, ta thật không tìm được lý do nào để nói không. Ngoại trừ việc ta đang tự hỏi liệu mấy đứa có đủ sức làm chuyện đó hay không. Ta rất ghét cuối cùng lại trông như quái vật Frankenstein với một thứ quái đản gì đó gắn vào người.
Nói thì nói vậy, nhưng ông Groanin cuối cùng cũng gật đầu. Nhắm mắt lại, ông giục:
– Thôi được rồi. Nhưng tốt nhất mấy đứa nên làm nhanh lên, trước khi ta kịp đổi ý.
Theo bản năng, John nắm lấy tay Philippa và cô nắm lấy tay Dybbuk, để họ có thể tập trung sức mạnh của mình một cách tốt nhất, vì với ba mươi hai cái xương trong một cánh tay người - hai cái ở vai, ba ở cánh tay, tám ở cổ tay, và mười chín ở bàn tay cùng ngón tay - đó là chưa kể đến hệ thống mạch máu và cơ thịt, việc tạo ra bất cứ bộ phận cơ thể con người nào từ số không là một nhiệm vụ gay go đối với bất kỳ djinn nào, ngay cả với djinn đã hoàn toàn trưởng thành.
– FABULONGOSHOOMARVELISHLYWONDER PIPICAL!
– ABECEDARIAN!
– ZYGOBRANCHIATE!
Bóng đêm bao phủ xung quanh ông Groanin khẽ run lên một chút, như một đợt sóng hơi nóng, và mùi lưu huỳnh nồng nặc bốc lên trong không khí - vì việc sử dụng quá nhiều sức mạnh djinn tập trung cao độ thường để lại mùi đặc trưng riêng của nó.
Chầm chậm hé mở mắt, ông Groanin thận trọng hỏi:
– Xong chưa?
John gật đầu:
– Dạ, xong rồi ạ.
Ba đứa trẻ bu lại chăm chú nhìn sản phẩm của mình khi lần đầu tiên sau nhiều năm trời, ông Groanin duỗi thẳng hai cánh tay ra trước mặt. Bỗng ông cắn môi cố kiềm chế sự bực mình, trách móc:
– Mấy cái đứa ngốc này, sao lại đưa cho ta hai cánh tay phải thế này? Nhìn nè! Bàn tay sai hướng cả rồi.
John đổ mồ hồi hột thầm thì:
– Chết thât.
Nhưng Dybbuk thì nói tỉnh rụi:
– Cả hai tay đều là tay phải thì cũng đâu có sao. Chả ai để ý đâu mà sợ.
Dứ dứ bàn tay bình thường của mình lên đe dọa sẽ đập cho Dybbuk một cái, ông Groanin thiếu điều rít lên:
– Dĩ nhiên có sao chứ. Ta không phải chuột thí nghiệm đâu nhé.
Ba đứa trẻ đành phải làm lại một lần nữa, và lần này không có chuyện gì xảy ra. Thậm chí để bồi thường, chúng còn thêm vào một cái đồng hồ đeo tay khá bảnh trên cổ tay trái của ông Groanin, và ông nhìn nó với vẻ mặt vui sướng đến nỗi thật khó để biết ông hài lòng về cái gì hơn - cái đồng hồ mới, hay là cánh tay mới mà nó gắn vào.
Chủ động leo vào cái gàu, John giục:
– Đi thôi. Chúng ta đang lãng phí bóng đêm quý giá đó.
o O o
Không khí trở nên lạnh lẽo, ẩm ướt khi cái gàu múc nước đưa ba djinn trẻ dần dần đi vào lòng đất bọc đá sâu bên dưới tòa pháo đài. Phần lớn thành giếng được cắt thẳng vào lớp đá sa thạch cứng, tuy nhiên cũng có đôi chỗ được đắp gạch, như thể phần đá chỗ đó bị xói mòn, hoặc có thể một thứ gì đó được gắn vào trong.
Bên trong cái gàu nước, John quay mặt về một hướng, Philippa hướng thứ hai, và Dybbuk hướng thứ ba để khi đâu lưng lại vào nhau, chúng có thể kiểm tra toàn bộ vách tường xung quanh lòng giếng khi bàn chân của ông Groanin nhẹ nhàng đưa cả ba xuống độ sâu nhìn như bất tận của nó. Ánh trăng trên đầu ba đứa trẻ nhạt dần rồi biến mất hẳn, để lại mỗi ánh đèn pin đung đưa soi đường cho chúng. Một hai lần gì đó, ba đứa trẻ liếc nhìn lên trên, nhưng sau khoảng mười lăm mét, cái miệng giếng đã hoàn toàn biến mất và tất cả những gì chúng nhìn thấy chỉ là sợi dây thừng không ngừng kêu kẽo kẹt trên đầu - vật thể duy nhất kết nối chúng với thế giới của ánh sáng và sự sống trên mặt đất.
Cứ chốc chốc, mỗi một nhóc djinn lại chạm vào thành tường, hy vọng khám phá được một dấu vết bị che giấu hay một viên gạch lỏng lẻo nào đó “hé lộ” Hổ Mang Chúa Kathmandu. Bất chấp không khí ẩm ướt, thành giếng gần như khô ráo và sạch trơn hoàn toàn - một phát hiện làm ba đứa trẻ bất ngờ, cho đến khi nhớ ra cái nóng của Ấn Độ, cũng như nghĩ tới khoảng cách với mặt nước bên dưới. Nghĩ thì nghĩ vậy, chứ chẳng đứa nào dám nhìn xuống dưới, vì sợ sẽ thấy được một thứ khủng khiếp gì đó đang bò lên tường hòng tóm chúng.
Dybbuk thình lình lên tiếng, giọng âm vang bên trong lòng giếng:
– Chờ chút. Hình như tớ tìm thấy thứ gì đó.
Nhấc cái bộ đàm lên miệng, John nói:
– Ông Groanin? Tạm ngừng một phút ông ơi.
Cái gàu nước ngừng lại, tuy vẫn tiếp tục đung đưa theo vòng tròn như phần đuôi của một quả lắc. Theo hướng ngón tay của Dybbuk, John và Philippa trông thấy một lằn rạch trên tường. Soi đèn pin sát vào lằn rạch, chúng nhận ra đó là hình vẽ một con rắn hổ mang được khắc gọn trên một viên gạch.
Dybbuk nhận định:
– Vì chúng ta đang tìm kiếm con hổ mang thứ ba, tớ cá đây là con rắn đầu tiên.
Cặp sinh đôi gật đầu đồng ý, rồi John gọi ông Groanin tiếp tục hạ chúng xuống, nhưng lần này chậm hơn, để chúng không để lỡ con hổ mang thứ hai. Dĩ nhiên không cần phải nói, so với việc đi lên tảng đá trên một cái thang máy dây, việc đi xuống giếng sâu trong một cái gàu nước làm ba đứa trẻ cảm thấy khó thở hơn nhiều. Chưa gì hết, cả bọn buộc phải nuốt một viên thuốc than, vốn là cách thông dụng để trấn an bao tử cũng như nỗi thấp thỏm của djinn.
Xuống thêm khoảng một mét tám, Philippa tìm thấy con hổ mang thứ hai được khắc nguệch ngoạc trên một viên gạch khác. Nhưng ba đứa trẻ không ngừng lại kiểm tra nó vì ở càng gần mặt nước bên dưới đáy giếng, không khí càng trở nên giá lạnh. Philippa khẽ rùng mình một cái, chỉ có điều cô không chắc đó là vì lạnh, hay vì chúng phải ngừng lại kiểm tra một mảng tường bị sụp - dường như một cái gì đó được nhét đằng sau bức tường. Tuy nhiên không có viên gạch nào có khắc dấu hiệu hổ mang của Killiecrankie, cho nên chúng lại tiếp tục đi xuống, và chẳng mấy chốc, đáy của cái gàu nước chúng đang đứng bên trong chạm vào mặt nước.
John nhanh chóng ấn vào nút NÓI trên cái bộ đàm và gọi ông Groanin:
– Đừng hạ nữa. Ngừng lại ngay lập tức.
Cái gàu tiếp tục đi xuống khoảng chừng 6 tấc nữa trước khi hoàn toàn ngừng hẳn, với mực nước lúc này chỉ cách miệng gàu gần chục phân. Tâm trạng lo lắng, ba đứa trẻ lia đèn pin quanh thành giếng tìm kiếm con hổ mang thứ ba, nhung không phát hiện được gì.
Philippa nói:
– Chắc chắn chúng ta lỡ đi qua nó rồi. Có lẽ là phần tường bị sụp ấy. Chắc viên gạch khắc con hổ mang thứ ba bị rơi xuống nước cũng nên.
Dybbuk bảo:
– Hoặc là ai đó đã đến đây trước chúng ta.
Philippa khăng khăng:
– Không gì bằng lạc quan.
Đặt cây đèn pin của mình lên phần gờ trồi ra của một viên gạch, John nhúng tay thử vào nước giếng, rồi thông báo:
– Lạnh quá. Lạnh cóng luôn.
Philippa và Dybbuk cũng bắt chước dùng tay kiểm tra nhiệt độ nước. John nói đúng. Nước trong giếng lạnh như đá.
Philippa nhận xét:
– Chắc đây là nước ngầm. Chảy thẳng từ núi ra.
Dybbuk giục:
– Chúng ta nên đi ngược lên thôi. Chắc chắn chúng ta đã đi qua nó mà không biết.
Nhưng trước khi có ai đó kịp trả lời, một tiếng “tõm” lớn vang lên khi một thứ gì đó rớt thẳng xuống nước ngay bên cạnh họ.
John giật mình hỏi:
– Cái gì vậy?
Nhanh chóng nhoài đầu nhìn qua miệng gàu, John thoáng nhìn thấy một cái bộ đàm đang chìm dần vào làn nước sâu thẳm bên dưới. Trong một giây, John nghĩ cậu vừa đánh rơi cái bộ đàm của mình. Nhưng rồi cậu nhìn thấy cậu vẫn đang cầm nó. Và ngay khi cậu nghĩ đến khả năng đó là bộ đàm của ông Groanin, cái gàu nước bên dưới chân cậu thình lình rớt xuống, và trước khi ba đứa trẻ kịp trấn tĩnh lại để tập trung sức mạnh djinn, cả bọn đã chìm lút cả đầu trong làn nước lạnh giá.
Khi cố bơi lên đến mặt nước, Dybbuk hét lên:
– Chuyện quái quỉ gì xảy ra vậy?
– Làm sao tớ biết được.
John hét ngược lại, và chỉ vừa kịp lúc chụp được cái đục khỏi cái gàu nước. Liếc nhìn cái bộ đàm giờ đã trở nên vô dụng của mình, cậu vứt nó đi, rồi nhét cái đục vào dưới thắt lưng để có thể rảnh tay giữ cho thân người nổi trên mặt nước. Cũng còn may là cậu đã đặt cây đèn pin của mình trên gờ tường, vì cả hai cây đèn pin của Dybbuk và Philippa giờ đã chu du dưới đáy giếng.
Thở gấp vì nhiệt độ của nước, mỗi đứa đều cố tìm kiếm sức mạnh djinn đủ để dịch chuyển cả ba lên miệng giếng. Nhưng đã quá trễ. Cái lạnh đã thấm vào tận xương tủy, làm tan biến tất cả sức mạnh của chúng.
Dybbuk càu nhàu:
– Khỉ thật. Bố già ngốc nghếch kia nghĩ mình đang làm gì vậy chứ?
Rồi cậu bắt đầu hét lớn kêu cứu.
John quát:
– Im miệng giùm coi. Im lặng một chút để tớ còn nghĩ. Ông Groanin không đời nào cố tình làm chuyện như thế. Chắc hẳn đã có chuyện gì đó xảy ra.
Rồi cậu nói cho Dybbuk và Philippa nghe cậu đã thấy cái bộ đàm của ông Groanin rớt xuống nước vài giây trước khi cái gàu rơi tự do. Cậu kết luận:
– Trong trường hợp này, tớ không nghĩ kêu cứu là một ý kiến hay. Ít nhất không phải ngay bây giờ.
Dybbuk hỏi:
– Vậy chúng ta phải làm gì? Không ai trong chúng ta có sức mạnh djinn. Và chắc chắn chúng ta cũng không có đủ sức leo dây lên đến tận miệng giếng. Nhưng nếu còn ở dưới này, không sớm thì muộn sẽ chết đuối cả lũ.
Philippa trấn an:
– Không gì bằng lạc quan.
Bực tức vỗ vỗ mặt nước, Dybbuk nhăn nhó:
– Xin lỗi nếu tớ chậm tiêu hơn cậu, nhưng tớ chẳng thấy có gì đáng lạc quan ở đây cả.
Philippa bốp chát lại:
– Thế mất bình tĩnh như cậu thì giúp được gì chắc?
John cản lại:
– Cả hai ngừng cãi nhau được không vậy?
Philippa phản đối:
– Ai cãi nhau chứ?
John khuyên:
– Sao không nghĩ đến chuyện, mọi thứ có thể tồi tệ hơn? Chúng ta có thể chìm trong bóng đêm hoàn toàn. Nhưng chẳng phải chúng ta còn có đèn pin sao? Có ánh sáng, anh tin chúng ta còn một số phương án khác.
Giọng hoài nghi, Dybbuk hỏi lại:
– Ví dụ như?
John gợi ý:
– Chúng ta có thể trèo lên chỗ tường bị sụp vào. Rồi chúng ta có thể đào sâu vào trong một chút để có thể ngồi trên đó cho đến khi ráo người. Đủ ráo và đủ ấm để sử dụng sức mạnh djinn.
Philippa liếc nhìn lên thành giếng. Phần tường bị sụp vào cách đầu ba đúa trẻ khoảng mười mét. Cô không thực sự chắc mình có thể làm được điều John vừa đề nghị, cũng như không đủ sức để la ó kêu cứu như Dybbuk đã cố làm trước đó.
Nhưng vẫn luôn hy vọng vào điều tốt nhất, Philippa gật đầu nói:
– Ý kiến hay đó.
Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 3 - Hổ Mang Chúa Kathmandu Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 3 - Hổ Mang Chúa Kathmandu - Philip Ballantyne Kerr Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 3 - Hổ Mang Chúa Kathmandu