TV. If kids are entertained by two letters, imagine the fun they'll have with twenty-six. Open your child's imagination. Open a book.

Author Unknown

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 22
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 264 / 25
Cập nhật: 2019-11-13 12:07:20 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 12 - Ác Để Tốt
iếp tục chuyến tham quan giáo phái ashram ở tòa pháo đài màu hồng, ông Groanin và ba đứa trẻ nhanh chóng nhận ra, dù chắc chắn đã ở đúng chỗ, họ vẫn không có chút khái niệm nào về nơi cất giấu Hổ Mang Chúa Kathmandu. Tòa pháo đài quá lớn. Và họ cũng nhanh chóng nhận ra rằng, họ sẽ phải gia nhập giáo phái ashram này nếu muốn tìm ra bùa thế thân bị thất lạc.
Philippa giải thích:
– Đó là cách duy nhất để tránh bị nghi ngờ. Vả lại, cháu không nghĩ chúng ta có thể ngày ngày lặn lội đi lên đi xuống cái thang máy dây kia được.
Ông Groanin gật đầu:
– Chúa phù hộ cái thang máy ấy.
– Một khi đã trở thành thành viên của giáo phái ashram này - người ở đây gọi là sadhak - chúng ta có thể ở lại đây ngó nghiêng mà không bị ai để ý. Ngoài ra, ở lại đây, chúng ta sẽ biết rõ hơn nên sục sạo vào khu vực nào trong pháo đài này chứ.
Dybbuk cười hì hì bảo:
– Tớ nghĩ chính tớ đề xuất kế hoạch đó chứ ai.
Philippa nhăn mặt bảo:
– Chính xác thì cậu đề xuất chúng ta chỉ đóng giả người có ý nghĩ muốn gia nhập. Mà thôi, dù gì đó cũng là một ý hay.
Ông Groanin thông báo với Jagannatha rằng họ đã quyết định sẽ gia nhập ashram. Sau khi chúc mừng họ đã có một quyết định cực kỳ sáng suốt, anh chàng sannyasin lập tức dẫn họ đi gặp Guru Masamjhasara.
Họ tìm thấy Guru Masamjhasara ngồi chễm chệ trên một cái ghế nha sĩ trong một điện thờ, vây xung quanh là vài tá tín đồ cùng hàng trăm ngọn nến lập loè. Vị guru là một gã đàn ông béo phục phịch với chòm râu xám bờm xờm to cỡ bộ râu của Santa Claus. Gã vận một bộ áo chùng trắng, đeo đồng hồ hiệu Rolex bằng vàng ròng, một cặp kính nhuộm màu, và quấn quanh đầu một cái khăn xếp màu cam. Treo lủng lẳng trước mặt gã là cái chuông cũng bằng vàng ròng mà thỉnh thoảng, gã lắc lắc mấy cái trước khi phán truyền vài lời giảng đạo nào đó cho các tín đồ. Và ngự trên một cái giá kế bên ghế ngồi của gã là bức hình một người đàn ông mặc có mỗi một cái khố đang ngồi trên một cây cột cao chót vót với không những một mà đến tám con dao găm cắm chặt vào ngực và lưng.
Ngó bức hình vói một vẻ mặt quá đỗi ngạc nhiên, John thầm thì:
– Ặc, trông khổ sở quá.
Jagannatha tự hào giới thiệu:
– Đó là Fakir[25] Murugan, thân phụ của Guru Masamjhasara. Một thánh tăng vĩ đại. Hồi xưa các thiền tăng vẫn thường làm những việc như thế. Cắm dao vào người. Và ngồi xếp bằng trên các cây cột cao. Để chứng minh sự thần thánh của họ.
[25] Thiền sư tu hành khổ hạnh.
Nội nghĩ đến chuyên cắm một cái gì đó sắc nhọn vào người là đã nổi da gà, Philippa hỏi:
– Bây giờ chắc mọi người không làm như thế nữa, đúng không? Những chuyện như cắm dao vào người, vuốt ve rắn độc, hoặc nằm trên một bãi đinh ấy?
Jagannatha nhe răng cười:
– Anh ấy à? Đùa hoài. Anh là anh ghét dao cực kỳ. Và anh cũng chưa bao giờ thấy một con rắn nào tuốt trên tảng đá này. Tụi anh gọi nơi này là vậy: “tảng đá”.
Rồi chắp tay vào nhau một cách tôn kính, Jagannatha tiến đến trước mặt vị guru, vái vái mấy cái, và giới thiệu bốn môn đồ mới, sử dụng tên tiếng Ấn Độ của họ: ông Gupta, Janesh, Panchali, và Deepak.
Vị guru liếc nhìn họ với vẻ mặt hờ hững, như thể tâm trí gã đang để ở đẩu đâu. Rồi gã rung chuông, và tất cả mọi người im lặng lắng nghe gã nói, với một chất giọng nghe như thể đã qua một khóa học đặc biệt ở một trường Anh ngữ ngoại quốc:
– Chào mừng ông, Gupta. Và chào mừng các con ông. Ta sẽ dạy cho bốn người quá trình của sự vô vi có ý thức. Và nghệ thuật sống buông xả.
Dybbuk lẩm bẩm:
– Cái này nghe được à.
Ông Groanin thú nhận:
– Ta cũng khoái sống kiểu đó.
Vị guru hơi nhổm người về phía trước và săm soi nhìn bốn thành viên mới. Rồi gã lại rung chuông lần nữa và tuyên bố:
– Ta biết các người.
Trong một giây, cả bốn người bọn họ như ngừng thở, tự hỏi liệu vị guru này thực sự có đủ “thần thánh” để nhận ra bản chất thật của ba đứa trẻ. Nhưng rồi, bật cười khúc khích như một đứa con gái, vị guru ngồi lại vào chỗ cũ và nói tiếp:
– Các người biết ta. Một điều ta có thể nói cho các người là, các người sẽ được giải phóng. Vì thế, các người sẽ cùng nhau đến và tập yoga ba tiếng một ngày. Các người sẽ cùng nhau đến và thiền định. Các người sẽ cùng nhau đến và gội rửa sạch thân thể cùng linh hồn. Và các người sẽ cùng nhau đến và giúp vận hành trung tâm hỗ trợ máy tính của chúng ta. Các người sẽ đưa ra lời khuyên cho rất nhiều người Anh và Mỹ về cách cài đặt máy tính để bàn, máy tính xách tay và PDA[26] của họ - mặc kệ chúng là cái gì.
[26] Viết tắt của Personal Digital Assistant, thiết bị kỹ thuật số hỗ trợ cá nhân, có các phần mềm ứng dụng giúp người dùng sử dụng như một máy tính thu gọn.
– Nhưng tụi cháu không biết gì về cách cài đặt máy tính.
Philippa nói, mắt lưỡng lự nhìn về phía anh trai mình, người tuy biết một chút ít về máy tính nhưng chắc chắn không đủ để có thể đưa ra lời khuyên mang tính chuyên môn cho ai. Thở phào nhẹ nhõm khi thấy cả John, Dybbuk và ông Groanin đều lắc đầu thể hiện sự đồng tình, Philippa nói thêm:
– Cả PDA nữa. Không ai trong tụi cháu biết.
Vị guru lại cười khúc khích và nói:
– Như vậy thì càng tốt.
Gã nhấc một bàn chân nhìn có vẻ bẩn thiu lên, săm soi nó một lúc, rồi thò tay vo tròn một cục ghét to đùng giữa hai ngón chân. Philippa cảm thấy phát ói. Liếc nhìn Philippa, gã tuyên bố:
– Hãy hiểu điều này, Janesh.
Chỉ tay vào John, Philippa bảo:
– Thật ra, cháu là Panchali. Đây mới là Janesh.
– Con ta. Ta dạy quá trình phi vận động, của việc sống đơn giản. Và để sống đơn giản, chúng ta cần phải giải phóng thế giới khỏi sự đàn áp của máy tính và sự vi tính hóa đến từ phương Tày. Cho nên chúng ta sẽ đưa cho những người đang sống dưới ách thống trị đó những lời khuyên xấu, những lời khuyên khủng khiếp, những lời khuyên sai lệch. Nhưng đó là những lời khuyên tốt nhất Chúng ta nói với họ rằng một cộng một cộng một bằng bốn, hy vọng như vậy họ sẽ ghét máy tính và đập bỏ chúng. Hoặc quẳng chúng đi. Và bước vào một thế giới không có máy tính. Một thế giới vô tận chỉ của tình yêu và niềm vui, của giấy trắng và bút chì.
Rồi lại bật cười khúc khích, vị guru hỏi lại:
– Các người có thể làm được như thế không, các con ta? Liệu các người có thể nói cho những kẻ phương Tây giàu có mà ngu ngốc kia cách cài đặt sai một phần mềm nào đó, để cứu rỗi linh hồn bất tử của họ?
Dybbuk, người đang nhe răng cười một cách khoái chí khi nghĩ đến việc đưa ra lời khuyên sai lệch cho người khác, gật đầu lia lịa:
– Không có gì đơn giản hơn.
Vị guru nói tiếp:
– Ta gọi quá trình đó là “yoga tinh thần”. Chúng ta xáo trộn tinh thần họ để, bằng cách tạo ra stress và tăng huyết áp, dẫn dắt họ đến một thế giói của sự điềm tĩnh và thư giản. Một thế giới của việc sống mà không cần cố gắng. Và của sự phi vận động.
Dybbuk lại gật gật đầu:
– Cháu hiểu. Chắc chắn.
Vẫn cười khúc khích, vị guru chùi cục ghét lên chòm râu của gã, rồi rung chuông ba lần. Thời gian tiếp kiến guru đã kết thúc.
o O o
Jagannatha nhận xét:
– Anh nghĩ ngài ấy thích mấy đứa. Có một điều gì đó về mấy đứa khiến ngài ấy cảm thấy đặc biệt.
– Em hy vọng là không.
Philippa lầm bầm. Cô cảm thấy vị guru kia thật tởm. Nhất là điều mà gã làm với cục ghét chân.
Từ điện thờ, Jagannatha dẫn bốn người về phòng của họ trong tịnh xá, một dãy nhà mái rạ hình tam giác ở một khu sân sau nằm bên trong bức tường ngoài của tòa pháo đài, kế bên một cái giếng nước cũ bỏ hoang. Có bốn cái giường, một giá rửa mặt, một cái bàn thô trơn, vài tấm thảm để ngồi cầu nguyện và, treo trên tường, một bức hình khổ bự của vị Guru Masamjhasara đang tươi cười ngồi xếp bằng lơ lửng trong không trung. Philippa nghĩ thầm, “Gần giống một djinn”.
Jagannatha thông báo:
– Giáo viên yoga của mọi người chừng mấy phút nữa sẽ đến ngay thôi. Cô ấy khá nghiêm khắc, nên có lẽ mọi người tranh thủ thời gian nghỉ ngơi trước đi.
Rồi cúi mình chào bốn người và bức hình vị guru, anh chàng sannyasin rời đi.
– Lập dị!
Nhận xét xong một câu, Dybbuk quăng mình xuống một trong bốn cái giường, rồi lập tức nhăn mặt. Tấm nệm giường ở đây quá cứng so với nệm nhà cậu ở Palm Springs.
– Tạ ơn Trời là anh ta đã đi.
Philippa bảo:
– Tớ thấy anh ấy cũng tốt mà. Khá nhiệt tình.
Ông Groanin, vẫn cảm thấy mình đang ở trên đỉnh thế giới, gật đầu đồng ý. Mỉm cười một cách hạnh phúc, ông nằm xuống giường của mình và nói:
– Ta thích chỗ này. Mọi người đều tốt.
Đến giờ phút này, đám mây phía trên tòa pháo đài màu hồng đã biến mất và cái nóng khủng khiếp đã quay lại tảng đá, tuy nhiên ông Groanin vẫn cảm thấy tốt hơn bao giờ hết.
John chau mày. Cậu không thích lắm con người mới của ông Groanin. Thà lắng nghe phàn nàn không ngừng - một việc cậu đã quen dần - còn hơn. Cậu hy vọng một chuyện gì đó sẽ xảy ra để làm “mẻ” quách đi cái tâm trạng lạc quan và yêu đời mà ông Groanin mới “tìm ra” - cái tâm trạng mà, dĩ nhiên, chỉ là kết quả của điều ước khẩn cấp thứ ba mà ngài nam tước Reinnerassig đã ban cho ông.
Trên thực tế, John không phải đợi lâu. Một tiếng gõ cửa vang lên, và một người phụ nữ cao gầy với mái tóc vàng hoe bước vào phòng của họ trong tịnh xá. Vận một bộ quần áo nịt và xách dưới tay một tấm thảm nhựa cuộn tròn màu cam, bà cúi người chào bức hình vị guru trước rồi mới tới ông Groanin và ba đứa trẻ.
Bà tự giới thiệu:
– Xin chào, tôi là Prudence Crabbe, giáo viên yoga của mọi người. Đây là một tiết học cá nhân. Chỉ có năm người chúng ta. Để xem mọi người có thể làm gì. Cho nên, mời mọi người vui lòng đi theo tôi đến trung tâm yoga để chúng ta có thể bắt đầu.
Ông Groanin nói:
– Tôi chỉ có một tay. Tôi không nghĩ tôi có thể tập yoga được.
Bà Crabbe, một người Canada, nói như giục:
– Vớ vẩn. Bất cứ ai cũng có thể tập yoga. Ngay cả ngài. Đừng lo. Yoga không có nghĩa phải vặn vẹo mình vào những tư thế khó khăn.
Nhưng đó chính xác là những gì họ làm, và sau chưa đầy một tiếng tập yoga với bà Crabbe - và với hơn hai tiếng nữa chờ đợi họ trước mặt - ông Groanin và ba đứa trẻ đã hoàn toàn kiệt sức.
Vừa giúp họ giữ một tư thế đặc biệt khó chịu, bà Crabbe hét lớn:
– Hiệu quả chữa bệnh và giá trị của yoga trong mọi khía cạnh của cuộc sống được tất cả mọi người biết đến.
Ông Groanin thở không ra hơi khi cố gắng duỗi thân thể theo cách mà bà Crabbe vừa làm mẫu.
Bà nói tiếp:
– Nó giúp người ta thể hiện và trải nghiệm tính thần thánh của mình.
Ông Groanin nhăn nhó:
– Buồn cười! Tôi sẽ không thể nào thấy kém “thần thánh” hơn cho dù có đuôi và sừng và một tấm thẻ hội viên của Câu lạc bộ Lửa Địa Ngục.
Nói xong, ông gục xuống tấm thảm của mình như một hòn đá và lớn tiếng rên rỉ như sắp chết đến nơi - với John, như vầy mới giống ông Groanin mà cậu biết và yêu quý.
Ông tuyên bố:
– Tôi không thể tiếp tục được nữa. Thật sự không thể.
Bà Crabbe nói một cách không thương tiếc:
– Ba tiếng yoga một ngày là bài tập bắt buộc cho tất cả những ai muốn tham gia ashram. Không có ngoại lệ. Đó là mệnh lệnh của đức ngài Guru Masamjhasara.
Quay người cúi chào một bức hình khổ lớn khác của vị guru treo trên bức tường của trung tâm yoga, bà nói tiếp:
– Hiểu chưa? Không có ngoại lệ. Xin mời ngài đứng lên. Động tác tiếp theo của chúng ta có tên gọi là “con cua”.
Và vì không muốn rời khỏi ashram và bỏ lỡ cơ hội tìm kiếm Hổ Mang Chúa, ông Groanin đành phải gượng ngồi dậy và cố gắng tập. Cặp sinh đôi nhanh chóng nhận ra ông Groanin phải ngừng lại hoặc sẽ gục ngã hoàn toàn, trong khi bà Crabbe thì không. Bà ta rõ ràng trơ trơ trước lẽ phải, lòng thông cảm hay tính hài hước. Tuy nhiên, cặp sinh đôi đồng thời nhận ra họ cần sử dụng sức mạnh djinn với bà, nhưng theo một cách tinh tế nhất có thể.
Có lẽ họ cũng sẽ làm nếu không phải Dybbuk đã ra tay trước. Và Dybbuk sẽ không là Dybbuk nếu cậu sử dụng sức mạnh djinn một cách tinh tế.
– ZYGOBRANCHIATE!
Nếu cho họ một vài phút, cặp sinh đôi có lẽ sẽ làm bà Crabbe mất giọng, hay thậm chí là một chút sái cổ đủ để bà ngừng tập yoga suốt ngày hôm đó. Còn với Dybbuk, cậu đơn giản biến bà thành một con cua. Dù đó không phải là một ý tưởng sáng tạo gì - vì tên của bà vốn đã là Crabbe[27] - nhưng phải công nhận nó khá hiệu quả.
[27] Crab tiếng Anh nghĩa là con cua.
Kiệt sức đến mức không thể nhích người tránh đường khi con cua bò về phía mình, ông Groanin nằm dài trên sàn và nói:
– Cám ơn Chúa vì điều đó. Ta thật sự nghĩ ta sắp chết đến nơi rồi.
Philippa chau mày hỏi Dybbuk:
– Cậu không thể biến bà ấy thành một cái gì khác ngoài con cua sao? Cách biển cả trăm dặm, nhiệt độ lên đến 48 độ C trong bóng râm, kền kền trên trời - đây không phải là nơi cho loài cua, Buck. Cậu mà không nhanh biến bà Crabbe lại bình thường, bà ấy sẽ chết mất. Một con mèo. Một con chuột. Hoặc thậm chí là một con nhện thì tớ còn hiểu được.
Lắc đầu, cô nói tiếp:
– Nhưng một con cua? Buck, cậu thật là thiếu sáng tạo quá.
Dybbuk bảo:
– Tớ không biết à. Tên Crabbe và tính ngang như cua. Động tác yoga chúng ta đang tập tên là “con cua”. Thế thì hiển nhiên phải là con cua rồi.
Rồi cậu nhe răng cười nhìn con cua vẫy vẫy một càng về phía mình, như thể đang cố thu hút sự chú ý của cậu.
John lắc đầu:
– Quá hiển nhiên.
Ông Groanin thì nói:
– Ai không biết, nhưng ta thì rất cảm ơn cháu, Buck con trai ta. Ta không nghĩ mình sẽ có lúc kiệt sức như thế này dù sống thêm một trăm năm nữa. Người phụ nữ ấy, bà ta đúng không phải con người.
Dybbuk bật cười ha hả:
– Thì bà ấy giờ cũng còn là con người đâu.
Con cua, vốn không to lớn gì, tiếp tục vẫy vẫy càng một lúc, rồi lùi vào một góc chờ đợi số mệnh cúa nó.
Philippa giục:
– Cậu nhanh mà biến bà ấy lại thành người đi. Trước khi bà ấy chết khô.
Dybbuk đành thỏa hiệp:
– Ok, tớ sẽ làm. Nhưng mà, nếu bà ấy lại tiếp tục bắt chúng ta tập yoga, tớ không chịu trách nhiệm chuyện gì sẽ xảy ra đâu nhé!
Rồi ngừng lại vài giây để tập trung, cậu một lần nữa thầm thì:
– ZYGOBRANCHIATE!
Khôi phục lại hình dạng người ốm o, Prudence trông gần như được gắn kết bởi những bộ phận có khớp dẻo quẹo uốn vặn tứ tung của mình, bà Crabbe tiếp tục ngồi thu lu một góc trong gần một phút.
Ông Groanin hỏi thăm với vẻ mặt ngây thơ:
– Bà có ổn không?
– Chuyện gì vừa xảy ra cho tôi vậy?
– À, bà vừa làm một động tác vặn mình hơi buồn cười. Chỉ vậy thôi.
– Một giây trước tôi còn đang làm mẫu một động tác yoga, thế nhưng giây tiếp theo, tôi tự nhiên có cảm giác lạ chưa từng có. Như thể tôi là một con cua.
Rồi ngửi ngửi người mấy cái, bà nghi ngờ nói tiếp:
– Mà người tôi hình như cũng có mùi tanh cá.
Dybbuk nhe răng cười một cách ác độc mà không nói gì.
Ông Groanin đỡ lời:
– Tôi nghĩ chắc bà tập yoga quá nhiều rồi đó. Hoặc do trời quá nắng. Nếu tôi là bà, tôi sẽ quay về phòng nghỉ ngơi. Tôi chắc sáng mai bà sẽ thấy đỡ hơn thôi.
Rồi ông giúp bà Crabbe, đang vô cùng hoang mang đứng dậy và mỉm cười một cách nhân hậu với bà.
Bà Crabbe lẩm bẩm, như thể đang tự trấn an chính mình:
– Ừ. Có lẽ ngài nói đúng. Tôi đã tập quá sức. Chắc là thế. Mặt trời. Không uống đủ nước. Cơ thể thiếu nước. Không có lời giải thích nào khác. Không thể nào có chuyện tôi thật sự biến thành một…
Bà Crabbe loạng choạng bước về phía cửa, đi hàng ngang - giống như một con cua - và trước sự vui sướng thấy rõ của Dybbuk và ông Groanin, bà rời khỏi trung tâm yoga mà không nói tiếng nào.
Ông Groanin tuyên bố:
– Tuyệt. Giải quyết xong bà ta rồi.
o O o
Quay trờ lại phòng ở của họ trong khu tịnh xá, Dybbuk trải bức tranh Hiệp hội Đông Ấn ra bàn và nghiên cứu nó thật kỹ. Cậu bảo:
– Đây đúng là tòa pháo đài màu hồng. Không nghi ngờ gì nữa. Chúng ta đã đến đúng nơi. Tòa pháo đài nhìn có vẻ không thay đổi mấy so với khi nó được vẽ. Nhưng chúng ta nên tập trung tìm kiếm ở chỗ nào đây?
Khẽ nhún vai, cậu liếc nhìn bức hình của vị Guru Masamjhasara và nói tiếp:
– Nếu thật sự có thể tìm được sự khai sáng ở nơi này, tớ hy vọng nó nhanh chóng xuất hiện trước mặt chúng ta.
Philippa nói:
– Câu trả lời nằm trong những dòng rắn nhảy múa. Trong thông điệp của đại tá Killiecrankie. Tớ chắc chắn thế.
Rồi cô một lần nữa đọc lớn toàn bộ nội dung thông điệp:
“Ta làm con rắn bị thương nhưng không giết được nó. Và chạy trốn đến cái nơi khổ cực khủng khiếp này, nơi mà ta có lẽ sẽ chết dưới tay kẻ thù. Nhung giờ ta đang trong may mắn. Và ngươi cũng sẽ khấm khá nếu đi xuống đây khám phá tiền chuộc của một vị vua bên trong đôi mắt xanh lục của hổ mang chúa Kathmandu. Hãy tìm kiếm con rắn thứ ba. Nhưng coi chừng con rắn thứ tám. M. W. K”
Ông Groanin nhận xét:
– Nghe giống như manh mối trong trò ô chữ. Dybbuk bảo:
– Ông đã nói thế một lần rồi.
– Có thể ta nói lại vì đó là sự thật.
– Trò ô chữ chỉ dành cho con nít.
– Cháu đã thử giải trò ô chữ trên tờ The Daily Telegraph bao giờ chưa mà nói? Ô chữ hoàn toàn không phải trò chơi cho con nít. Nó dành cho những ai muốn kiểm tra khả năng tư duy của mình. Và chính là khả năng tư duy chứ không phải sức mạnh djinn sẽ giải được câu đố này. Tốt nhất cháu nên nhớ lấy điều đó, Dybbuk.
– Buck. Chỉ Buck thôi, được không? Tốt nhất ông nên nhớ lấy điều đó.
Trong khi Dybbuk và ông Groanin tiếp tục tranh cãi với nhau, John bước ra cửa tịnh xá và liếc nhìn ra sân sau. Được “canh gác” bởi bức tường thành cao hơn ở bên trong pháo đài, nó hoàn toàn vắng tanh, ngoại trừ vài con chim đậu dưới bóng râm của chòi lợp mái rạ trên cái giếng cũ[28].
[28] Well (danh từ) tiếng Anh nghĩa là giếng nước. Còn well (phó từ) có nghĩa là tốt, hay, đúng, sung túc, khấm khá.
Đột nhiên John quay lại và bước vào trong phòng. Cậu vỗ mạnh bàn tay xuống cái bàn trước mặt Dybbuk, làm những người khác nhảy dựng lên.
Cậu hào hứng nói:
– Tớ đoán ra nó rồi. Đó là một trò chơi chữ. Ngài đại tá không sử dụng chữ “well” như một phó từ. Ông sử dụng nó như một danh từ.
Dybbuk hoàn toàn không hiểu phó từ là gì, cậu ngây ra, trừng mắt nhìn John.
Gấp gáp chỉ tay ra phía cửa, John giải thích:
– Cậu không hiểu hả? Ngài đại tá đang nói về loại “well” ở ngay bên ngoài cửa. Loại “well” mà cậu có thể múc nước từ đó. Loại “well” mà cậu sẽ khấm khá nếu đi xuống và “khám phá tiền chuộc của một vị vua”.[29]
[29] Nguyên văn: the old well-house.
Tất cả lập tức đứng dậy đi ra cửa, nơi mà từ đó, họ có thể thấy rõ cái giếng cũ.
Philippa mỉm cười:
– Dĩ nhiên rồi. Muốn giấu một món đồ, nơi nào có thể tốt hơn đáy một cái giếng cũ chứ?
Ông Groanin nói:
– Ngoại trừ đào một cái lỗ và chôn nó xuống.
John khăng khăng:
– Cháu chắc cú chính là cái giếng đó.
Dybbuk bảo:
– Trừ khi có một cái giếng khác ở đây. Có ai thấy không?
Nhưng không ai thấy một cái giếng nào khác. Cho nên họ đi ra ngoài để nhìn kỹ hơn.
Có tuổi thọ ngang ngửa tòa pháo đài, cái giếng được che chắn khỏi ánh mặt trời bởi một cái chòi làm từ vài cây cột đá và một mái vòm làm cảnh. Có một cái xô to và một sợi dây thừng dày. Thò đầu vào miệng giếng, họ liếc nhìn xuống khoảng không tối đen, mát lạnh bên dưới. Một luồng gió nhẹ từ bên dưới thổi lên như thể mặt đất đang hít thở qua lòng giếng, nó làm viễn cảnh phải leo xuống dưới càng trở nên đáng sợ hơn.
Dybbuk nói lên sự thật hiển nhiên:
– Ai đó phải leo xuống dưới. Để tìm Hổ Mang Chúa.
Ông Groanin lắc đầu:
– Không phải ta. Ta không khoái cái với ý tưởng leo xuống dưới một cái giếng cũ đâu. Nhất là vào ban đêm.
Dybbuk thắc mắc:
– Ai bảo phải leo xuống đó vào ban đêm?
Thật sự thì, như ông Groanin, Dybbuk cũng không lấy gì làm hăng hái với ý tưởng leo xuống cái giếng. Cặp sinh đôi cũng không khác. Dù gì, djinn vốn đều có chứng sợ không gian chật - kết quả của những lần bị loài người nhốt vào trong thứ được gọi là “đèn thần”. Điều đó không có nghĩa djinn ghét ở bên trong một cây đèn dầu hay một cái chai nào đó. Trên thực tế, một vài djinn - ví dụ như ông Rakshasas - thích sống kiểu đó. Nhưng djinn, cũng như bất cứ người nào khác, đều thích được làm chủ cuộc đời của chính mình, nơi họ có thể tùy ý ra vào cây đèn nào đó bất cứ khi nào họ muốn.
Ông Groanin bảo:
– Cậu nhóc, chúng ta khó có thể ban ngày ban mặt leo xuống đó. Chắc chắn sẽ có người thấy và thắc mắc chúng ta đang làm cái gì. Không, phải là tối nay. Sau bữa tối. Nếu như ở nơi này có phục vụ bữa tối.
Như thể trả lời cho thắc mắc của ông Groanin, Jagannatha xuất hiện từ một cánh cửa ở bên kia sân và bước về phía họ. Ông Groanin lầm bầm, “QED”, vốn là một từ ông luôn thốt ra khi lời ông nói được chứng minh đúng, dù cả ba đứa trẻ đều không hiểu nó có nghĩa gì.
Jagannatha hỏi:
– Xin chào. Mọi chuyện sao rồi?
Ông Groanin nói:
– Tôi e rằng chúng tôi đã làm kiệt sức bà Crabbe tội nghiệp.
Anh chàng sannyasin nhe răng cười:
– Cháu cũng có nghe nói chuyện đó. Cô ấy giờ đang thiền định. Có lẽ là cho đến hết ngày hôm nay. Đó là lý do tại sao cháu đến gọi mọi người đi ăn tối sớm. Cháu đoán, mọi người hẳn đã đói bụng sau khi tập luyện vất vả thế.
Gật đầu về phía cái giếng, Philippa nhanh trí nói:
– Tụi em khát nhiều hơn là đói. Cho nên mới đến coi thử dưới giếng có nước không.
Nghi ngờ nhìn xuống dưới cái giếng, Jagannatha nói:
– Dưới đó hả? Có nước đó. Nhưng anh sẽ không uống nó đâu. Mà thực tế, anh sẽ chẳng uống bất cứ cái gì ở đây, trừ khi nó từ một cái chai hay một đồ đựng đã được tiệt trùng.
Ông Groanin hỏi:
– Thật hả?
Jagannatha nói tiếp:
– Tuy nhiên, sau bữa tối, cháu e là cả bốn người sẽ phải trực đêm ở trung tâm hỗ trợ máy tính để vận hành Đường đây nóng hỗ trợ Máy vi tính Bungle. Thật sự xin lỗi, nhưng người mới luôn phải vậy.
Trông thấy vẻ mặt lo lắng của Philippa, anh chàng sannyasin trấn an:
– Đừng lo quá. Thật sự không có khó khăn gì đâu. Chỉ cần đọc theo hướng dẫn trên màn hình và tùy theo tình huống mà tự sáng chế thêm vào. Không có khác biệt gì lắm đâu. Chỉ cần làm sao để giọng tự tin nhất có thể. Như thể em biết rõ mình đang nói gì. Mỗi khi không nghĩ ra gì để nói, anh vẫn hỏi mấy kẻ khờ ở đầu dây bên kia xem họ có cáp UHT không.
John hỏi:
– Dây cáp UHT là gì? Em chưa bao giờ nghe nói về nó.
Jagannatha mỉm cười:
– Chính là thế. Làm gì có cái nào được gọi là cáp UHT. Nó sẽ làm họ hóa điên khi phát hiện ra mình không có. Và em sẽ nghe được họ chửi thề. Vài người dập điện thoại. Vài người thậm chí còn đập máy tính. Và như vậy là chúng ta đã đạt được mục đích.
Philippa cẩn thận hỏi:
– Anh không nghĩ biết rõ lời khuyên sai mà vẫn nói cho người khác là hơi ác à?
Jagannatha tiếp tục mỉm cười:
– Chúng ta chỉ ác để tốt cho họ thôi. Để giải phóng họ khỏi sự cai trị của khoa học kỹ thuật. Để phá vỡ sự ràng buộc của chế độ độc tài hiện đại của Silicon và vi mạch. Đó là lời của ngài guru, không phải anh. Nhưng các em biết ngài ấy nói đúng, đúng không? Đã đến lúc người ta khám phá ra tính mộc mạc đơn giản hơn trong cuộc sống. Và quên hết về tốc độ xử lý, email, website… Có bao giờ mấy đứa tự hỏi, tại sao người ta lại cần đến máy tính cá nhân khi mà có hàng vạn người khác trên thế giới không có cái để ăn?
Philippa nói:
– Em không chắc nó đơn giàn như vậy. Và em cũng không chắc em có thể hay muốn thuyết phục bất cứ ai rằng em thực sự hiểu những gì em đang nói để chỉ cách sửa máy vi tính.
Jagannatha bảo:
– Không cần lo. Thật đó. Tối nay anh là người giám sát mấy đứa, cho nên nếu gặp vấn đề gì, ví dụ như mấy đứa vô tình làm máy tính của ai đó chạy được, chỉ cần gọi anh. Anh sẽ đến phụ mấy đứa phá rối. Ok?
Ông Groanin, John và Philippa tiếp tục nhìn nhau một cách lưỡng lự, nhưng Dybbuk thì ngoác miệng cười đến tận mang tai và tuyên bố:
– Sẽ vui lắm đây.
o O o
Bên trong sảnh ăn tối, họ nhìn thấy hàng trăm sannyasin khác. Một số là người Thụy Sĩ, Canada, Anh, hoặc Ấn Độ. Nhưng phần lớn sannyasin đến từ nước Mỹ. Tất cả mọi người đều ăn mặc y chang nhau, và dường như có vẻ thân thiện. Có rất nhiều nụ cười ở ashram. Ai đó đang chơi đàn khẩu cầm. Vài sannyasin đeo vòng hoa và vẽ mặt đang vui vẻ nhảy múa, ca hát, đánh trống và đập chũm chọe trên tay quanh sảnh. Những người khác ngồi ăn bữa tối bên dưới một bức hình Guru Masamjhasara khổng lồ - Philippa cảm thấy hơi mất hứng về điều đó, vì cô vốn ghét bị ai đó nhìn khi ăn. Có một điều gì đó về khuôn mặt râu ria của vị Guru làm cô không thoải mái cho lắm. Đặc biệt là việc gã dường như khá bẩn thỉu. Nếu vị guru giáo chủ ở dơ như vậy, những tín đồ của gã chuẩn bị thức ăn trong bếp sẽ như thế nào?
Sau bữa tối - Philippa ngạc nhiên khi nhận ra nó cũng ngon - họ đến báo danh tại trung tâm hỗ trợ máy tính. Đó là một căn phòng lớn với vài tá điện thoại và màn hình tivi - nhưng không có cái máy tính nào - cùng một bức hình Guru Masamjhasara nữa, như thể gã muốn nhắc nhở những người đang vận hành trung tâm rằng gã luôn theo dõi họ.
Người gọi đầu tiên của Philippa là một phụ nữ lớn tuổi ở Massachusetts tên Hester Cardigan, một người không biết gì khác ngoại trừ bật và tắt máy tính. Bà có vấn đề với việc kết nối máy in. Philippa cảm thấy tội nghiệp cho bà, và muốn khuyên bà đi tìm một người hàng xóm tốt bụng nào đó rành vi tính qua giúp bà cài đặt máy in. Tuy nhiên, sợ Jagannatha và một vài sannyasin khác ngồi kế bên nghe lỏm, cô không có cách nào khác ngoài đọc lên những lời hướng dẫn ngớ ngẩn in trên màn hình ti vi trước mặt cô.
Giọng nhát gừng, Philippa bảo bà Cardigan:
– Thế nào mà máy tính của bà không thèm nói chuyện với máy in? Máy in của bà thuộc đời cũ. Bà cần phải khởi động lại máy tính, chạy nó trong chế độ an toàn để chúng ta có thể sử dụng bộ dụng cụ chẩn đoán để định lại cấu hình mặc định của máy in. Rồi chúng ta sẽ tải về một phần mềm đã được cập nhật, khởi động lại máy tính lần nữa, khắc phục chương trình điều khiển mới, kiểm tra bà đang sử dụng cổng nào, sử dụng ASCII để chạy định chuẩn dữ liệu đầu ra mới, rồi in thử một trang. Nhưng nếu máy tính của bà là 76a chứ không phải 76b, bà sẽ cần lưu lại tất cả cài đặt, rồi tải về một bộ trình điều khiển riêng biệt tương thích với cổng mà bà đang sử dụng. Không có gì khó khăn cả, đúng không? Bà sẵn sàng chưa?
Trả lời Philippa là một sự im lặng kéo dài từ đầu dây bên kia. Jagannatha giơ ngón tay cái lên, ra hiệu khen ngợi Philippa, rồi di chuyển qua chỗ Dybbuk xem cậu làm ăn thế nào. Đó là cơ hội mà Philippa chờ đợi. Hạ thấp giọng, cô cố gắng hết sức để giải quyết vấn đề của bà Cardigan theo hướng tốt nhất mà cô biết.
– Bà Cardigan? Bà còn ở đó không?
Bà Cardigan nói nhỏ, giọng như muốn khóc:
– Vâng, tôi còn đây.
– Bà hãy quên những gì cháu vừa nói đi nhé. Nó chỉ nhằm mục đích làm bà rối trí thôi. Đừng hỏi cháu tại sao. Sẽ tốn nhiều thời gian giải thích lắm. Đây là những gì cháu muốn bà làm, và nó thật sự đơn giản. Bà bấm chuột vào menu Khởi động (Start). Giờ thì bấm chuột vào Khu điều khiển (Control Panel). Giờ bấm chuột vào Máy in và máy fax (Printers and Faxes). Rồi bấm vào Thêm một máy in (Add a printer). Bấm vào Tiếp theo (Next). Rồi chờ cho máy tính nhận diện máy in của bà. Vậy là xong.
Lại một khoảng thời gian chờ đợi trong im lặng nữa, lần này dài hơn một chút. Rồi Philippa nghe được tiếng máy in bắt đầu vận hành.
Bà Cardigan vừa khóc vì vui sướng vừa thông báo:
– Nó chạy rồi.
– Tốt. Và nhân tiện, cháu có một lời khuyên thật sự hữu ích cho bà. Đừng gọi lại số điện thoại này nữa. Đừng bao giờ.
Đẩy một cái công tắc để kết thúc cuộc gọi và quay lưng ghế lại, Philippa mỉm cười rạng rỡ với Jagannatha và nói:
– Bà ấy đang mang trả nó cho cửa hàng.
Jagannatha tươi cười khen:
– Làm tốt lắm, Panchali. Lời khuyên xấu là lời khuyên tốt nhất.
Tuy nhiên, không giống Philippa, Dybbuk không cảm thấy tội lỗi gì về việc cậu đang làm mà còn tươi cười hớn hở. Nhận cuộc gọi thứ tư của mình, cậu đặc biệt hào hứng khi biết người gọi hiện đang dạy toán tại một trường tiểu học ở Nam California. Loại “sinh vật” Dybbuk ghét nhất trên đời này là giáo viên dạy toán. Vị thầy giáo, tên là Norman Blackhead, đang có một vấn đề nhỏ với modem của ông.
Dybbuk hỏi:
– Modem của ông tốc độ bao nhiêu?
– Tốc độ?
– Ờ. Tốc độ. 56. 128. 256. 512. Bao nhiêu?
– Ờ… 128.
– Kilobytes hay megabytes?
– Megabytes.
Dybbuk bật cười:
– Là kilobytes, bố già ạ. Modem nhanh nhất trên thế giới này cũng không quá 4 megabytes một giây. Ok. Thế máy tính của ông có fireguard chưa?
– Hả? Ờ, chắc có.
Dybbuk lại cười một cách khoái chí:
– Bố già ơi, đó là firewall (tường lửa), chứ không phải fireguard gì gì hết. Cá là, tiếp theo thể nào ông cũng bảo tôi là ông không muốn cài đặt chương trình antibiotic[30].
[30] Nghĩa là kháng sinh.
– Ồ, nhưng tôi muốn cài mà.
– Ông chắc chứ?
– Chắc chắn.
– Vậy thì ông nên đi mà nói với bác sĩ ấy, bố già, chứ tôi không thể giúp nổi cái đó.
Rồi ngừng lại một lát, cậu hỏi tiếp:
– Vậy còn chương trình antivirus (phòng chống virus) thì sao? Ông có định cài một cái không?
Không muốn phạm sai lầm lần nữa, vị thầy giáo lần này nói:
– Không cần.
Và Dybbuk lại được dịp cười như điên:
– Bố già, ông mà không cài chương trình đó là sẽ gặp rắc rối to đấy. Hệ thống của ông sẽ dính những con bọ máy tính quỷ quái khi lướt web. Ok, giờ là cái mà tôi muốn ông làm. Chạy chương trình quản lý kết nối mạng và kiểm tra cài đặt TCP/IP của ông, sử dụng lệnh ping. “Ping” nhé, bố già, chứ không phải “pong”. Đánh vần được không?
Lắng nghe Dybbuk nói, Philippa nhăn mặt khó chịu khi thấy cậu tỏ ra khoái trá với cái trò đánh đố những người gọi đến đường dây trợ giúp xui xẻo này. Những lúc như thế này, thật khó để cô tin được Dybbuk có thể thuộc về một tộc djinn tốt. Nhưng rồi cô cố biện minh cho cách cư xử nhẫn tâm của Dybbuk, bằng cách nhắc nhở bản thân rằng cha mẹ cậu đã lỵ dị, và rằng người bạn thân nhất của cậu, Brad, đã bị giết chết.
Trong lúc đó, John có thể thấy rõ cậu đã ngốc nghếch như thế nào khi gọi đến số điện thoại này để nhờ giúp cài đặt cái laptop Bungle mà cậu được tặng hôm sinh nhật. Và, bất chắp lời giải thích của vị Guru Masamjhasara rằng gã mong muốn giải thoát con người khỏi ách thống trị của khoa học kỹ thuật chỉ vì muốn cứu rỗi linh hồn họ, cậu nhanh chóng tán thành ý kiến của Philippa - rằng đó không phải là một việc làm tốt - nhất là giờ đây khi cậu đã biết đưa lời khuyên lừa lọc cho người khác thì sẽ có cảm giác như thế nào.
Cặp sinh đôi nghĩ thầm trong đầu rằng, rất may là thời gian tạm trú của chúng tại Jayaar Sho Ashram ở Lucknow sẽ không kéo dài. Bằng không, chúng không chắc sẽ nhịn được việc nói thẳng cho vị guru biết họ nghĩ như thế nào về một kẻ khuyến khích tín đồ của mình đối xử độc ác với quá nhiều người vô tội.
Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 3 - Hổ Mang Chúa Kathmandu Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 3 - Hổ Mang Chúa Kathmandu - Philip Ballantyne Kerr Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 3 - Hổ Mang Chúa Kathmandu