There are very few people who are not ashamed of having been in love when they no longer love each other.

Francois

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 34
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 402 / 31
Cập nhật: 2019-11-13 12:06:49 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 22 - Căn Phòng Số 65
hư bình thường, những cư dân London không lấy gì làm thích thú với mùa hè của thành phố. Thời tiết nếu không quá nóng thì sẽ quá lạnh. Trời hoặc quá nhiều mưa hoặc chẳng đổ đủ mưa. Và cho dù là bất kể thời tiết nào, lúc nào cũng luôn có người phàn nàn về nó. Có lẽ cư dân London duy nhất không bao giờ phàn nàn về mùa hè ở đây là ông Groanin.
Trên đường trở về nhà của họ ở Kensington, ông giải thích với cặp sinh đôi:
– Chính sự đa dạng trong thời tiết là cái mà ta thích nhất. Không bao giờ có hai ngày giống y hệt nhau. Hôm nay trời nóng, cực kỳ nóng ở London. Vậy thì ngày mai, trời có thể sẽ mưa, và ngày kia có thể sẽ lộng gió. Nếu không tin, các cháu cứ thử xem một trận cricket kéo dài bốn ngày sẽ biết. Hai đứa sẽ gặp đủ loại thời tiết trong suốt một trận cricket.
Vốn không ưa gì môn cricket, John thường không thể ngồi im xem nó quá bốn phút chứ nói gì đến bốn ngày. Cho nên, cậu nói với ông Groanin rằng cậu tin những lời ông nói.
Sáng hôm sau, vào đúng 10 giờ, cậu Nimrod dẫn cặp sinh đôi đến Bloomsbury, nơi tọa lạc của Bảo tàng Anh quốc, hoặc “tòa nhà BM”[27] như cậu Nimrod vẫn hay gọi.
[27] BM: Viết tắt của British Museum.
Đó là một tòa nhà khổng lồ có hình dáng hơi giống một ngôi đền Hy Lạp, mà cụ thể là đền thờ lớn nhất của Hy Lạp, thờ nữ thần Athena Parthenos tại Acropolis, Athens. Nhưng bước lên những bậc thang mặt trước đối diện với đường Great Russell, cậu Nimrod và cặp sinh đôi chỉ thấy những tốp du khách xúm xít với những túi xách tay đắt tiền đến mức lố bịch, ghé London để tôn thờ Hermes, vị thần du lịch và thương mại của Hy Lạp.
Xuyên qua khu sảnh đón quan khách, cậu Nimrod dẫn cặp sinh đôi vào một khu sân trong có mái che tên là Great Court và băng ngang Phòng Đọc Sách cũ – một tòa nhà lớn hình tròn được xây ngay chính giữa Great Court. Ông vẫy hai anh em về phía Tây của Great Court, và họ bước vào khu trưng bày những tinh hoa cổ vật Ai Cập của tòa nhà BM. Không chú ý gì đến hầu hết các khu trưng bày đồ sộ hơn, ông dẫn cặp sinh đôi về phía Bắc, ngược lên khu cầu thang phía Tây, và đi vào các căn phòng được đánh số từ 60 đến 66. Giữa rất nhiều xác ướp của các vị trong hoàng gia Ai Cập cổ đại – vài người trong số họ có tuổi thọ đến 5000 năm – và hàng đống món đồ cúng tế khác, cậu Nimrod đã tìm được cái mà họ đang cất công tìm kiếm trong một hộp trưng bày bằng kính. Tuy nhiên, sau khi mang một cặp kính mắt vào để quan sát cái vương trượng rõ ràng hơn, ông nhăn mặt và lắc đầu nói:
– Ôi không. Ở đây có ghi là, “Vương trượng hoàng gia, Triều đại thứ 17”. Quá sớm cho Akhenaten. Ta hy vọng anh Rakshasas không nhầm lẫn.
Đến lượt Philippa săm soi món đồ. Nhún vai, cô nói:
– Tòa nhà BM đâu phải cái gì cũng biết đâu. Có thể họ đã nhầm lẫn.
Cậu Nimrod làu bàu không thành tiếng như thể ông không nghĩ có khả năng trùng hợp như vậy.
Philippa nhận xét:
– Nhưng cháu cũng phải công nhận nhìn nó bình thường quá. Chẳng có vẻ gì là chứa bảy mươi djinn bên trong cả.
Cậu Nimrod thở dài:
– Đúng thế.
– Cậu không thể nhận ra đúng là nó hay không sao? Ý cháu là, có thể nó sẽ phát ra sóng rung động hay một cái gì đó tương tự.
– Trời, ta đâu phải là que dò mạch nước, hay là ông đồng bà cốt đâu mà nhận ra được mấy cái thứ đó. Nhưng dù sao đi nữa, nếu nó có phát ra sóng rung động như cháu nói, cháu không nghĩ cậu hoặc những djinn khác không nhận ra điều đó sau mấy thập kỷ tìm kiếm sao?
Philippa nói:
– Chắc cậu đúng.
Dí sát mũi vào hộp trưng bày để nhìn cái vương trượng Sekhem ở khoảng cách gần nhất có thể, John vừa định mở miệng đồng ý với em gái thì đột nhiên cậu phát hiện có một chuyện kỳ lạ ở đây.
Bước lùi lại mấy bước, cậu chỉ tay vào cái hộp và nói:
– Chờ đã. Cả hai không chú ý thấy gì lạ sao? Tuy chỉ mỏng như một sợi tóc, nhưng rõ ràng có một vết nứt trên kính.
Khi cậu Nimrod và Philippa cũng bước lại nhìn kỹ chỗ cậu chỉ, John nói thêm:
– Và mọi người đoán được gì không? Nó nhìn giống y chang vết nứt trên tường phòng ngủ của cháu.
Cậu Nimrod công nhận:
– Cháu nói hoàn toàn đúng, John à. Giỏi lắm. Chắc ta phải sắm một cặp kính mới thôi. Cặp kính này vứt đi được rồi.
Philippa thắc mắc.
– Đúng thật. Nhưng điều đó có nghĩa gì chứ?
John trả lời:
– Dĩ nhiên đó là một lời nhắn rồi. Và lần này anh biết lời nhắn đó từ ai.
– Ai cơ?
– Những djinn thất lạc của Akhenaten. Chắc chắn là họ rồi.
Cậu Nimrod gần như thở không ra hơi vì xúc động:
– Lạy Chúa tôi, đúng thế. Cháu đúng đó, John. Đó phải là lời giải thích.
John nói:
– Nó là dấu hiệu để cho chúng ta biết đây chính là cái vương trượng chúng ta đang tìm kiếm.
Và trong một hoặc hai giây tiếp theo, họ chỉ đứng đó và nhìn cái vương trượng. Philippa là người lên tiếng trước. Cô hỏi:
– Nó làm bằng vàng hả cậu? Cháu thấy chẳng giống vàng chút nào.
Cậu Nimrod cho biết:
– Nếu làm bằng vàng, nó sẽ nặng lắm, không thể cầm nổi đâu. Một cái vương trượng sẽ là vô dụng nếu nó quá nặng, không ai cầm nó được. Không, nó làm từ gỗ, và được dát vàng lá.
John hỏi:
– Giờ chúng ta chôm nó hả cậu?
Cậu Nimrod bật cười:
– Ồ không. Chúng ta sẽ làm một việc mà giới tội phạm trong thế giới ngầm hay gọi là “nghiên cứu địa bàn”. Nói văn hoa thì là thiết lập quy mô tác chiến. Còn nói đơn giản là đi quan sát một vòng xung quanh trước khi nghĩ ra một kế hoạch đủ khả thi để giúp chúng ta nắm được cái vương trượng trong tay.
John hỏi:
– Sao không làm lớp kính bảo vệ biến mất rồi cứ thế chộp lấy nó? Sẽ chẳng khó gì với vết nứt trên kính.
Cậu Nimrod nhìn John rồi khẽ hất đầu chỉ cái camera an ninh gắn trên một góc trần nhà. John nói:
– Thì làm cái đó biến mất luôn.
Cậu Nimrod nhắc:
– Cháu yêu quý, bộ cậu chưa nhắc cháu nên sử dụng sức mạnh djinn của cháu một cách tiết chế à? Bộ cậu không cảnh báo cháu về cái giá phải trả cho việc sử dụng hoang phí ý chí của cháu sao? Bất cứ nơi đâu và bất cứ khi nào có thể, djinn chúng ta luôn cố gắng giải quyết mọi chuyện theo cách của mundane - con người. Ngoài ra, đối với trường hợp đặc biệt này, việc sử dụng sức mạnh djinn có thể sẽ rất nguy hiểm.
– Nguy hiểm? Nguy hiểm thế nào ạ?
– Giờ đây, khi chúng ta đã biết cái vương trượng Sekhem này chắc chắn có chứa các djinn thất lạc của Akhenaten, việc sử dụng sức mạnh djinn ở một khoảng cách quá gần như vầy sẽ là rất mạo hiểm cho các djinn bên trong nó. Hoặc có thể là cho chính chúng ta.
Cậu Nimrod mỉm cười kết luận:
– Cho nên, trong khi chúng ta có thể xâm nhập tòa nhà BM bằng sức mạnh djinn, đối với cái hộp trưng bày này, ta nghĩ sẽ tốt hơn nếu chúng ta sử dụng một phương pháp thông dụng hơn: phương pháp P và V – Phá và Vào.
Philippa hỏi:
– Ví dụ như?
Cậu Nimrod gõ gõ lớp kính để thử nghiệm và nói:
– Dùng một cái đèn hàn. Lớp kính này thật ra chỉ là nhựa plastic. Có nghĩa là, có thể nó không dễ bị phá vỡ, nhưng chắc chắn nó sẽ tan chảy như bơ.
Philippa nhận xét:
– Tuyệt thật. Thế chúng ta có thể mặc áo len trùm kín đầu không? Như người ta thường làm trong các bộ phim khi họ muốn phá hủy một nơi nào đó ấy.
Cậu Nimrod nhăn mặt:
– Chúng ta đâu có định phá hủy tòa nhà BM đâu.
John nói:
– Nhưng chúng ta đang lập kế hoạch xâm nhập bất hợp pháp, đúng không?
Cậu Nimrod lo lắng liếc nhìn vài vị du khách đang tíu
tít chụp hình nhau bên cạnh một cái xác ướp. Quay mặt khỏi cái vương trượng Sekhem, ông rít nhỏ:
– John, sao cháu không nói lớn hơn chút nữa đi? Ta không nghĩ mấy du khách kia nghe được cháu nói.
Rồi ông liếc nhìn quanh căn phòng số 65 như thể đang tìm kiếm cái gì đó. Nhìn theo ánh mắt của ông, John hỏi:
– Cậu đang tìm gì vậy?
– Một nơi tốt để ẩn nấp khi chút nữa chúng ta quay lại đây.
– Cái camera không nhìn thấy chúng ta sao?
– Không, vì lúc đó chúng ta đang ở trong một vật chứa nào đó.
John gật đầu. Rồi trông thấy một du khách móc một lon Coca Cola ra khỏi ba lô của mình và bắt đầu uống, cậu gợi ý:
– Một lon Coca chẳng hạn?
Cậu Nimrod đồng ý:
– Ừ, được đó. Sẽ không ai chú ý đến một thứ như thế.
John bước ngang qua căn phòng và cúi xuống như thể muốn ngắm một xác ướp bên trong lồng kính, chỉ có điều mắt cậu lại hướng vào khe hở giữa đáy lồng và mặt sàn trải thảm. Cậu nói:
– Ông Groanin có thể đặt lon Coca có chứa chúng ta vào bên dưới một trong những lồng đựng xác ướp này. - Ừ, có thể được.
Suy nghĩ một chút, cậu Nimrod đưa ngón tay trỏ miết nhẹ thành lồng rồi quan sát lớp bụi bám phía trên. Ông nói:
– Có cả một lớp bụi dày như thế này, dám chắc cái lon của chúng ta có thể yên vị ở đây cả mấy ngày trước khi một trong những người quét dọn tìm ra nó.
Rồi ông đứng dậy và đưa tay vuốt cằm, bắt đầu cân nhắc lại kế hoạch của John. Cuối cùng, ông tuyên bố:
– Được, chúng ta sẽ quay lại đây, bên trong một lon nước ngọt, ngay trước 5 giờ, giờ đóng cửa của tòa nhà BM. Anh Groanin sẽ đặt cái lon xuống bên dưới anh chàng xác ướp tội nghiệp này, và sau khi trời tối, chúng ta sẽ hóa thể thoát ra ngoài và bắt tay vào việc.
Đọc ghi chú đi kèm với cái hòm, John lắc đầu nói:
– “Một quan chức cao cấp Ai Cập vô danh, Triều đại thứ 19”. Thật chẳng hay gì khi ông ấy có kết thúc như thế này. Bị nhét trong cái lồng kính ở một bảo tàng. Cháu chẳng muốn điều đó xảy ra cho cháu. Tội nghiệp, ông ấy thậm chí còn không có lấy một cái tên. Cả người bên cạnh ông ấy cũng vậy. Buồn thật.
Philippa nhận xét:
– Em thì thấy thật đáng tởm. Tất cả những người này cũng có cuộc sống riêng của họ mà. Bạn bè, cha mẹ, con cái. Họ cũng giống như chúng ta thôi. Ừm… có thể cũng không hoàn toàn giống chúng ta, nhưng anh hiểu ý em, đúng không? Đáng lẽ phải có một điều luật ngăn cấm những chuyện như thế này mới phải.
Cậu Nimrod nói:
– Ta nghĩ rồi cũng có ngày luật pháp bắt tay vào cuộc. Mà cũng có thể ngay bây giờ đã có những điều luật như thế cũng nên. Dường như luôn có ít nhất một điều luật chống lại tất cả mọi việc ở Anh, ngoại trừ việc ngu ngốc không biết gì. Tuy nhiên, ngay bây giờ, nói thật là ta quan tâm về những djinn thất lạc hơn là quyền con người của mớ xương khô này. Ngoài ra, sau cả 5000 năm trời, ta không nghĩ các cháu sẽ quá bận tâm về địa điểm dừng chân cuối cùng của các cháu. Bản thân ta, ta vẫn luôn muốn thà được chôn ở ngoài biển để làm đồ ăn cho cá. Khá công bằng đấy chứ, nếu tính đến số lượng cá ta đã xơi tái. Nhắc mới nhớ, đến bữa trưa rồi.
Sau khi dùng bữa trưa với món táo nấu xứ Cornwall và cá bơn Dover ở nhà hàng Cây thường xuân, nơi cậu
Nimrod là một thực khách quen thuộc, ông đi mua một cây đèn hàn tại một cửa hàng đồ ngũ kim ở Seven Dials và đem thử nó trên cửa sổ khu nhà kính của ông ở bên hông tòa nhà. Ngoại trừ việc tạo ra một mùi hăng hắc khó chịu của nhựa cháy, thử nghiệm diễn ra một cách tốt đẹp, và trong chưa đầy mười lăm phút, cậu Nimrod đã tạo được một cái lỗ to bằng cái đĩa ăn trên một tấm kính.
Philippa nói:
– Hy vọng là nhân viên bảo vệ ở đó không thính mũi, chứ cái mùi này hôi quá à.
Khoảng 3 giờ chiều, John uống cạn một lon Coca Cola rồi đưa cho ông Groanin đem lon đi rửa, kỳ cọ từng ly từng tí một. Sau khi cặp sinh đôi đã vận lên người những bộ đồ mà chúng cho là phù hợp với việc đột nhập (đầy đủ áo len dài tay trùm kín cổ, mặt bôi đen và túi dết), cậu Nimrod, người chỉ nhượng bộ trước tính bất hợp pháp của hành động lần này bằng cách mặc một bộ đồ màu tối hơn và đội một cái mũ đen rộng vành, biến họ thành khói để chui vào trong cái lon.
Vào đến bên trong, ông đưa cho cặp sinh đôi mỗi người một viên thuốc than và nói:
– Đây. Các cháu nên uống chúng. Có thể chúng ta sẽ phải ở trong đây vài tiếng đồng hồ đấy.
Rồi ông mỉm cười trấn an:
– Tất nhiên chỉ là nói một cách tương đối thôi.
Sốt ruột đi lại bên trong khoảng không hình tròn của cái lon, Philippa thừa nhận:
– Với việc là một djinn, đây là điều mà cháu không thích nhất.
Cậu Nimrod nói:
– Rồi cháu sẽ quen với nó thôi. Mà gần đây cháu có đi máy bay ở khoang hạng thường không? Hay di chuyển bằng hệ thống tàu điện ngầm của London? So với hai cái đó, ta thấy ở bên trong một lon Coca Cola còn tốt chán. Nhưng dù sao thì ta vẫn chưa làm gì để chúng ta được thoải mái, đúng không? Chúng ta cần vài cái ghế.
Rồi cậu Nimrod sử dụng sức mạnh của mình để tạo ra ba cái ghế dựa bọc da to đùng với đầy đủ dây đai an toàn. Ông cho biết:
– Cậu luôn sử dụng cái này. Nó tương tự như những cái ghế trên khoang hạng Nhất của British Airways đấy.
Rất tiện cho việc di chuyển.
Cảm thấy cái lon bắt đầu chuyển động, ông khuyên:
– Nhân tiện nói luôn, tốt nhất các cháu nên thắt dây an toàn vào. Theo kinh nghiệm của cậu, anh Groanin thường hơi mạnh tay khi đụng đến một cái chai đựng djinn. Dĩ nhiên là vì anh ấy chưa bao giờ bị ở trong chai mà.
John và Philippa cùng la lớn khi cái lon thình lình lắc lư qua lại như một cái chuông rung.
Cậu Nimrod cười:
– Giờ thì anh ấy đang đi ra xe. Đây là rắc rối với việc chỉ có một tay. Anh ấy sẽ liên tục vung vẩy nó.
John nhận xét:
– Cháu nghĩ lúc nào đó cậu nên để ông Groanin nếm thử mùi vị của việc ở bên trong đây như thế nào. Biết đâu nhờ vậy sau này ông ấy sẽ cẩn thận hơn.
Cậu Nimrod cho biết:
– Ồ không, không thể làm thế được. Mundane không đủ sức để thử những việc như thế này. Có lẽ các cháu không để ý, nhưng djiin chúng ta không cần phải thở nhiều khi ở bên trong chai hoặc đèn. Trong trạng thái phi vật chất như bây giờ, chúng ta có thể sống một thời gian dài mà hầu như không có không khí. Nó gần giống trạng thái chết giả ấy. Nhưng còn mundane, họ sẽ chết không chỉ bởi lượng khí họ hít vào mà còn bởi lượng khí họ thở ra. Chính khí CO2 sẽ giết họ chứ không phải việc thiếu không khí. Cho nên đừng bao giờ thử bỏ một người bình thường vào trong chai. Đó là lý do tại sao chúng ta biến những người làm chúng ta bực mình thành động vật. Để họ có thể thở.
Philippa hỏi:
– Nhắc mới nhớ, còn cái chai đựng Iblis thì sao, cậu Nimrod?
– Hắn hiện ở trong tủ lạnh của cậu. Trong nhà cậu ở Cairo. Vậy thì tốt cho hắn hơn. Các cháu thấy đó, djinn có phần giống những con bò sát. Chúng ta sẽ hoạt động chậm lại trong cái lạnh.
Philippa ngạc nhiên hỏi:
– Trong tủ lạnh á? Vậy có ác quá không?
John nói với em:
– Bộ em quên rồi sao, Philippa? Hắn ta đâu có ngần ngại khi làm điều tương tự với chúng ta. Thậm chí điều hắn định làm còn tệ hơn đấy chứ.
Cậu Nimrod lên tiếng:
– Anh cháu đúng đấy, Philippa. Đừng tội nghiệp gã Iblis ấy làm gì. Hắn là một kẻ độc ác. Việc giữ hắn trong tình trạng nửa đóng băng sẽ ngăn hắn giận dữ, để nếu có ai đó vô tình mở cái chai ra, hắn sẽ không lập tức phá hủy mọi thứ. Djinn tộc Ifrit khét tiếng nóng tính ngay khi chúng đang vui vẻ. Cháu có biết vụ hỏa hoạn khủng khiếp ở San Francisco năm 1906 do một trận động đất không? Iblis làm đấy. Mà như vậy vẫn chưa thấm vào đâu so với cha hắn, Iblis Cha, đã làm năm 1883. Ông ta đã phá hủy cả một hòn đảo gần Indonesia. Một nơi tên Krakatoa. Vụ nổ lớn đến nỗi cách đó 3000 dặm người ta vẫn nghe thấy. Tàn tro bay đến tận Singapore ở cách đó hơn 500 dặm. Và vụ nổ đã gây ra một đợt sóng thần cao hơn ba mươi mét tàn phá tất cả mọi thứ trên đường đi của nó. Ít nhất 36.000 người đã thiệt mạng.
Lắc đầu, cậu Nimrod kết luận.
– Không. Các cháu sẽ không muốn ở gần người tộc Ifrit khi hắn thoát ra ngoài sau khi bị giam cầm một thời gian dài đâu.
Hai mươi phút sau, ông Groanin đỗ chiếc Rolls ở Montagu Place. Rồi mang theo lon Coca bên trong túi áo khoác, ông bước vào trong tòa nhà BM thông qua cánh cổng sau vốn ít bị chú ý hơn. Ông chẳng bao giờ thích đến tòa nhà BM, vì nó chỉ tổ gợi cho ông nhớ về chuyện hơn mười năm trước, ông đã mất đi một cánh tay của mình như thế nào. Cứ mỗi lần bước chân qua cánh cổng đường Montagu, hay lối vào ở đường Russell Street của tòa nhà, ông lại nhớ đến cái ngày khủng khiếp đó. Cái ngày những con hổ khát máu chạy lồng lộn trong Phòng Đọc Sách, gầm rống điên cuồng, trước khi chúng nhảy vụt qua bàn tiếp tân và vồ lấy những người quản thư đang chết điếng người vì sợ hãi.
Giờ thì cả thư viện đã được dời đến một nhà kho xấu xí xây bằng gạch ở St. Pancras - một nơi mà cậu Nimrod nhận xét có tất cả sự “quyến rũ” của một khu nhà vệ sinh công cộng, tuy nhiên Phòng Đọc Sách vẫn y như trong trí nhớ của ông Groanin. Tất nhiên là vắng bóng các con quái vật. Và cứ như thế, với ký ức về tiếng gầm khủng khiếp của những con hổ vẫn vang vọng trong tai, ông Groanin đi lên tầng một rồi hướng thẳng đến căn phòng số 65.
Trong phòng trưng bày xác ướp, ông giả bộ đi vòng vòng xung quanh như những du khách khác, trước khi cúi xuống làm ra vẻ đang buộc lại dây giày, nhưng thực ra là để đặt cái lon Coca bên dưới cái hộp kính của xác ướp vô danh. Rồi ông gõ vào thành lon ba lần.
Bên trong lon Coca, tiếng gõ nhẹ của ông Groanin nghe y như tiếng cồng nện mạnh. Cậu Nimrod và cặp sinh đôi đồng loạt kiểm tra đồng hồ đeo tay của mình. 5 giờ kém 15. Vẫn còn vài tiếng nữa trước khi trời tối hẳn.
Ông Groanin thông báo với cậu Nimrod:
– Mọi người vào vị trí rồi đấy. Đúng ngay chỗ ngài dặn tôi. Giờ tôi đi đây.
Cậu Nimrod nói:
– Cám ơn anh, Groanin. Hẹn gặp lại vào sáng mai.
Ông Groanin rời khỏi phòng. Tuy nhiên trước đó, ông cũng ngừng lại mấy giây để nghía thử vương trượng Sekhem. Với ông, nhìn nó giống mái chèo hơn. Và ông nghĩ một món đồ hình thù quái dị như vậy chứa bảy mươi con kiến còn khó, chứ nói gì đến bảy mươi djinn.
Còn bên trong lon Coca, cậu Nimrod hỏi:
– Có ai muốn dùng trà trưa không?
Và ông tạo ra một cái bàn với đầy đủ đồ nghề phục vụ cho việc uống trà. Bên trên lớp vải lụa Đa-mát trắng tinh có bánh sandwich, bánh nướng, bánh ngọt, mứt, vô số loại trà khác nhau, và vài lon Coca cho cặp sinh đôi.
John cho biết:
– Cháu chẳng thấy đói gì.
Cậu Nimrod nói:
– Uống trà chẳng liên quan gì đến việc đói hay không. Với người Anh, nó đã trở thành một thói quen không thể thiếu hàng ngày. Và nó cũng là một nghi lễ quan trọng không kém trà đạo của Nhật Bản. Ngoại trừ một điều. Người Nhật coi việc gặp gỡ và cùng ngồi xuống thưởng thức một chén trà như một thời khắc đặc biệt mà có thể sẽ không bao giờ xảy ra một lần nữa, và có thể không bao giờ diễn ra như cũ. Cho nên tất cả các khía cạnh của trà cần phải được thưởng thức kỹ lưỡng. Nhưng ở Anh, ý nghĩa của việc uống trà nằm ở chỗ nó luôn như cũ, và sẽ được lặp đi lặp lại mãi. Nếu không, làm sao người ta có thể đo được sự bền bỉ của một nền văn minh lớn?
Đang muốn đọc quyển Tuyển tập thơ Anh của New Oxford mà ông Groanin đã đưa cho cô, Philippa nói với cậu mình:
– Cháu cũng không đói.
Cậu Nimrod cằn nhằn một tiếng nhỏ, như thể không tán thành trước thái độ hờ hững với việc uống trà của John và Philippa. Rồi ông tuyên bố:
– Đỡ phải chia cho ai.
Nhìn ông hăng hái chất vài miếng sandwich dưa chuột lên đĩa, Philippa nói:
– Cháu không hiểu tại sao cậu có thể ăn được.
Cậu Nimrod cười:
– Sao lại không nhỉ? Chỉ cần bỏ thức ăn vào miệng, nhai cho đến khi có thể nuốt là được thôi mà.
Đưa mắt nhìn những bức tường kính màu xanh lục xung quanh, ông nói tiếp:
– Dĩ nhiên ta cũng chẳng quen gì với một chỗ như thế này. Một lon Coca. Thường thì cậu di chuyển bằng một cái chai thủy tinh của Venice khá đẹp mà cậu đã trang hoàng bên trong đàng hoàng. Có cả một phòng tập thể dục, một rạp chiếu phim nhỏ, một khu bếp hiện đại, dĩ nhiên rồi, và một cái giường cực lớn, cực êm. Cậu gọi nó là Lâu đài Khó chịu. Một trò đùa thôi. Chắc các cháu không hiểu đâu. Nhớ nhắc cậu khi nào đưa các cháu xem vậy.
John khui một lon Coca Cola uống trước khi nhận ra cậu đang uống nước ngọt bên trong một chai nước ngọt. Thật kỳ lạ! Cậu tự nói với bản thân:
– Cá là mình chưa bao giờ làm việc này trước đây.
Philippa hỏi cậu Nimrod:
– Cháu thật không hiểu tại sao cậu có thể bình tĩnh như vậy. Chúng ta đang lên kế hoạch đột nhập Bảo tàng Anh, thế mà cậu lại nói chuyện về trà. Bộ cậu không lo lắng chút xíu nào về việc chúng ta sắp làm sao?
Cậu Nimrod phản đối:
– Ôi, cháu yêu, cháu không nghĩ cháu đang lo lắng quá mức sao? Chúng ta thật sự đâu phải tội phạm…
– Nhưng cháu thì thấy mình y như một tội phạm ấy.
Rót thêm cho mình một ly trà, cậu Nimrod nhận xét:
– Đó là vì các cháu cứ khăng khăng muốn nhìn giống như tội phạm thôi. Mặt tô đen, áo len dài tay trùm kín cổ, găng tay da, giày thể thao? Nếu cậu mà mặc như vậy thì thà cậu gọi cảnh sát bắt cậu ngay còn hơn. Nhìn mà nản luôn.
Rút một hộp thuốc trong túi quần ra, ông đưa hai viên cho cặp sinh đôi và nói:
– Các cháu có vẻ hơi lo lắng quá đó. Đây, uống một viên thuốc than nữa đi.
Thời gian trôi qua nhanh chóng. Cặp sinh đôi thậm chí còn không nhận ra đã đến 9 giờ. Sau khi nhắc lại về lợi ích của việc biến thành khói và đi vào trong chai theo hướng ngược chiều kim đồng hồ khi đang ở bán cầu Bắc, cậu Nimrod tuyên bố bây giờ đã đủ an toàn để họ rời khỏi lon Coca. Ông nói:
– Ta nghĩ bây giờ những người dọn dẹp đã đi hết rồi. Nếu như họ có tới đây. Mọi chuyện ở tòa nhà BM này chẳng còn như xưa nữa.
John hỏi:
– Vậy còn mấy cái camera an ninh thì sao?
Cậu Nimrod thò tay vào túi áo và rút ra một thiết bị điện tử nhỏ bằng con chuột máy tính. Ông giải thích:
– Cái này do cậu tự thiết kế. Cậu gọi nó là “Cái lọc ngốc nghếch”. Nó có thể gây nhiễu sóng tín hiệu radio và tivi. Cậu vẫn thường dùng nó với mấy người sử dụng di động trên xe lửa để họ ngừng nói năng huyên thuyên. Không có nó thì chắc sẽ có lúc cậu làm cho họ câm luôn mấy tiếng quá. Nhưng nó hoạt động rất tốt với hầu hết các tín hiệu phát sóng, ví dụ như đài CCTV.
Chỉ về phía Tây, ông dặn:
– Philippa, cậu muốn cháu đi canh chừng lối vào ở đằng kia để đề phòng trường hợp có ai đó lên kiểm tra tại sao camera không hoạt động. Dù chẳng có gì đáng chôm ở đây. Thị trường buôn bán những cái xác 5000 năm tuổi không lớn đến cỡ đó.
Philippa nhăn nhó:
– Cậu đừng nhắc cháu nhớ chuyện đó mà. Cháu đã đủ sợ rồi.
– John, còn cháu phụ cậu chuẩn bị nhé.
Cậu Nimrod đặt túi đồ nghề của mình xuống một bên phòng, ngay phía trước tủ kính chứa vương trượng Sekhem. Chính giữa phòng đặt một tủ kính khác trưng bày một bộ sưu tập quan tài đá, còn ở phía bên kia phòng là tủ kính thứ ba chứa vài tá xác ướp, bao gồm vài xác ướp người thật – những xác chết quắt queo quấn trong lớp băng xám, xếp chồng lên nhau như những điếu xì-gà đựng trong các hộp giữ ẩm của cậu Nimrod. Không khí ở các gian phòng trưng bày cổ vật Ai Cập ban đêm có phần đáng sợ hơn ban ngày. Những cái bóng dường như thích chơi trò thay đổi vị trí, trong khi sự phản chiếu im lặng của những khung tủ kính đánh lừa trí tưởng tượng, khiến đôi lần John và Philippa phải quay đầu nhìn lại vài món đồ trưng bày để chắc chắn chúng không di chuyển gì. Nhưng cặp sinh đôi không chỉ lo lắng vì ánh sáng, hay nói đúng hơn là việc thiếu ánh sáng. Chúng còn bất an khi cảm thấy một sự báng bổ người cổ đại ở đây.
Philippa vòng tay ôm lấy người như một cái khăn choàng. Cô nói với cậu Nimrod:
– Nơi này cứ làm cháu sởn gai ốc sao sao ấy.
Vừa rút cái hộp quẹt của mình ra, cậu Nimrod vừa trả lời:
– À, đúng là không khí ở đây có phần làm người ta rùng mình. Nếu cậu không lầm, một trong những cái quan tài đá đằng kia – chắc là cái màu vàng kim – nổi tiếng vì đã từng chứa xác ướp trên tàu Titanic. Cùng với lời nguyền đi kèm, dĩ nhiên rồi.
Đưa cho cậu Nimrod cái đèn hàn, John ngạc nhiên hỏi:
– Có một cái xác ướp trên tàu Titanic à? Cháu không biết chuyện đó đấy.
Đốt cái đèn hàn, cậu Nimrod nói:
– Có đó. Công chúa Amen-Ra. Con tàu Titanic chìm năm 1912, kéo theo nó sinh mạng của 1.500 người. Vào thời điểm đó, rất nhiều người đã đổ lỗi cho xác ướp của công chúa. Nói thật, nếu cậu là họ, chắc cậu cũng nghĩ vậy, vì đã có nhiều cái chết kỳ lạ của những người có liên quan đến công chúa Amen-Ra. Nghe nói trước khi cái xác ướp đó rời khỏi căn phòng này do được một nhà sưu tập người Mỹ mua, chẳng có nhân viên bảo vệ hay người quét dọn đêm nào dám đến gần quan tài đá của công chúa. Thậm chí họ tuyên bố còn nghe thấy tiếng nện búa và tiếng khóc lóc bên trong quan tài.
Rồi ông cười một cách khinh bỉ:
– Dĩ nhiên đó chỉ là một câu chuyện vớ vẩn. Và ta chẳng cần phải lo lắng gì về công chúa. Như ta vừa nói, xác ướp của Amen-Ra hiện đang nằm ở đáy Đại Tây dương cùng với tất cả những hành khách đã không kịp thoát khỏi tàu Titanic. Cho nên bà ấy sẽ không làm phiền chúng ta.
Philippa nhận xét:
– Cũng còn may…
Cậu Nimrod kể tiếp:
– Hồi trước ở đây có nhiều xác ướp người thật hơn. Những cái đang trưng bày hiện nay chỉ là một trong số hàng tá xác ướp mà tòa nhà BM từng sở hữu. Phần còn lại chắc còn nằm trong hầm chứa. Bị giấu đi để không làm người khác khó chịu. Ta thật không hiểu tại sao họ lại khó chịu. Dù gì thì khi một người chết, có nghĩa là họ đã chết, hết chuyện.
Lắc đầu, ông cười:
– Mà họ không chỉ trữ xác ướp người ở dưới đó đâu nhé. Còn có cả xác ướp thú vật nữa. Ta ngạc nhiên là đến giờ chưa có nhà bảo vệ quyền thú vật nào lên tiếng.
Trong khi cậu Nimrod bắt đầu dí ngọn lửa xanh lè của cái đèn hàn vào phần mặt kính bằng plastic phía trước vương trượng Sekhem, John đưa mắt nhìn xung quanh lần nữa. Đúng là có xác ướp của mèo, chó, cá sấu, chim ưng, khỉ đầu chó, rắn hổ mang, và cả xác ướp của một con lươn. Lắc đầu, cậu lẩm bẩm:
– Sao lại có người muốn ướp xác một con lươn chứ?
Rồi cậu cố gắng đẩy chuyện về cái chết và xác ướp ra khỏi đầu nhưng không thành công. Nỗi sợ xác ướp, mùi nhựa cháy và câu chuyện sởn gáy của cậu Nimrod làm cậu bắt đầu thấy muốn bệnh.
Cậu Nimrod nói tiếp:
– Cháu biết không, tất cả những chuyện về hồi sinh mà người Ai Cập tin tưởng đều là do họ lấy từ djinn chúng ta. Dĩ nhiên chẳng có chuyện đó, dù là đối với djinn.
Nhưng John chẳng nghe ông nói gì, bởi vì trước mắt cậu, hình như một trong số các xác ướp vừa di chuyển một chút. Hay cậu chỉ tưởng tượng ra chuyện đó? Một hoặc hai giây trôi qua, và cậu tự trấn an bản thân rằng cậu chỉ quá tưởng tượng, rằng mùi hôi nồng nặc từ nhựa cháy đã làm cậu hơi choáng váng, và những cái xác ướp 5000 năm chẳng bao giờ di chuyển ngoại trừ trong những bộ phim kinh dị cổ điển. Cậu tự nhủ rằng cậu đang ở nước Anh của thế kỷ 21, và không thể nào có chuyện người chết sống lại. Chắc chắn những người bảo vệ đêm mà cậu Nimrod vừa nói đến chỉ bị nhầm lẫn. Công chúa Amen-Ra không thể nào còn sống sau 5000 năm.
John khẽ cắn môi để kiềm chế sự run rẩy đang tác động đến hàm của cậu. Cả việc này cũng thật lạ. Cứ như thân thể cậu đã nhận ra điều mà tâm trí cậu từ chối chấp nhận. Và rồi, một thứ gì đó bên trong tủ trưng bày lại khẽ di chuyển. John chớp mắt, đưa tay lên giụi mắt, và, nhìn lại lần nữa, cậu nhận ra không phải một trong những cái xác ướp đã di chuyển, mà là một thứ gì đó bên trong cái xác ướp. Một thứ mang hình người, nhưng không hiểu tại sao cậu lại có thể nhìn xuyên qua, như thể nó không hoàn toàn ở đó. Trong một giây, cậu nghĩ đó chỉ là hình ảnh phản chiếu của cái đèn hàn trên lớp kính phía trước tủ trưng bày xác ướp, nhưng rồi cậu nhận ra cậu Nimrod đã tắt ngọn đèn và giờ đang săm soi cái lỗ trên lớp kính của tủ đựng vương trượng nằm đối diện. Ông hoàn toàn không biết chuyện gì đang xảy ra ở một trong những tủ kính sau lưng mình.
Hình người đứng lên khỏi cái xác ướp nằm ngang và bước ra khỏi tủ kính. Cao hơn John tưởng. Và bốc mùi. Nó mang theo mùi hôi hám, thối rữa từ một ngôi mộ cổ đại, giống như một cuốn sách cũ kỹ đã bị ẩm ướt lên nấm mốc, hoặc thậm chí là tệ hơn.
John không dám rời mắt khỏi hình người cao lớn và gần như trong suốt đứng bên trong cái tủ kính đựng xác ướp, cho dù cậu không dám nhìn vào mặt nó. Cậu hỏi lớn:
– Cậu Nimrod, cậu có nghĩ hồn ma cũng có thật không?
– Có chứ. Dĩ nhiên là có ma.
– Vậy cậu nên nhìn thử cái này đi.
Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 1 - Truy Tìm Akhenaten Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 1 - Truy Tìm Akhenaten - Philip Ballantyne Kerr Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 1 - Truy Tìm Akhenaten