Những nỗ lực của bạn chỉ có thể đơm hoa kết trái nếu bạn quyết không bỏ cuộc.

Napoleon Hill

 
 
 
 
 
Tác giả: Tổng Hợp
Thể loại: Giáo Dục
Biên tập: Van Mo
Upload bìa: Van Mo
Số chương: 13
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2741 / 77
Cập nhật: 2016-07-13 10:17:14 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Gia Đình Và Hội Thánh
in Vui Xuân Lộc - BÀI 10: GIA ĐÌNH VÀ HỘI THÁNH
Bài 10
GIA ĐÌNH VÀ HỘI THÁNH
I.NHỮNG LIÊN HỆ.
II.NHỮNG NGHĨA VỤ.
III.GIÁO LUẬT.
LỜI HƯỚNG DẪN.
“Giữa những nghĩa vụ căn bản của gia đình Kitô giáo, có một nghĩa vụ có thể nói là có tính cách Hội thánh, vì nghĩa vụ này đặt gia đình vào chỗ phục vụ cho việc xây dựng Nước Thiên Chúa trong lịch sử, đó là tham dự vào cuộc sống và sứ mạng của Hội thánh” (GĐ. 49).
I. NHỮNG LIÊN HỆ.
Liên hệ giữa Gia đình và Hội thánh rất sâu xa và nhiều đến nỗi có thể gọi gia đình Công giáo là “Hội thánh tại gia” (HT.11). Công đồng còn nói:“Sự lành mạnh của con người cũng như của xã hội tự nhiên và Kitô giáo liên kết chặt chẽ với tình trạng tốt đẹp của cộng đoàn Hôn nhân và Gia đình” (MV. 47).
Do đó, Gia đình Công giáo cần tìm hiểu mối dây liên hệ này để chu toàn nghĩa vụ đối với Hội thánh.
1. Về phía Hội thánh:
Mẹ Hội thánh sinh ra, dưỡng dục và xây dựng gia đình Công giáo bằng cách thực hiện cho gia đình sứ mạng Hội thánh đã nhận từ Chúa Kitô. Đó là:
a) Khi loan báo Tin mừng cho gia đình, Hội thánh nói cho gia đình biết bản tính đích thực của gia đình: Gia đình là gì? Phải trở nên như thế nào cho phù hợp ý Thiên Chúa.
b) Khi cử hành Bí tích Hôn phối, Hội thánh làm phong phú, củng cố, thánh hóa gia đình bằng ân sủng, hầu gia đình biết tôn vinh Thiên Chúa.
c) Hội thánh hướng dẫn gia đình biết cách phục vụ tình yêu thương, biết cách thực hiện hiến thân mà chính Chúa Kitô đã thực hiện trước đó cho nhân loại (x. GĐ. 49).
2. Về phía gia đình:
Gia đình Công giáo đã được tháp nhập vào Hội thánh, sự tháp nhập này cho phép gia đình dự phần vào sứ mạng cứu rỗi của Hội thánh theo cách thức riêng của mình. Đó là:
a) Khi lãnh Bí tích Hôn nhân, đôi bạn và cha mẹ Công giáo nhận được những ơn riêng dành cho họ, nhờ đó họ chu toàn bổn phận yêu thương trọn đời và giáo dục con cái nên thánh (x. HT. 11).
b) Đôi bạn nhận được tình yêu của Chúa Kitô như là mẫu gương và nguồn mạch ơn thánh hóa, nhờ đó gia đình trở thành một cộng đoàn được cứu rỗi.
c) Sau hết, đôi bạn được mời gọi truyền đạt cho anh chị em mình, chính tình yêu của Chúa Kitô, và như thế, họ làm cho gia đình mình trở nên khí cụ cứu rỗi người khác.
II. NHỮNG NGHĨA VỤ.
1. Gia đình đối với Hội thánh:
Do ân sủng nhận được từ Hội thánh qua Bí tích Hôn phối và do lời mời gọi tham dự vào sứ mạng của Hội thánh, gia đình Công giáo có nhiều trách nhiệm đối với Hội thánh:
a) Trước hết, gia đình phải có “một tấm lòng và một đức tin” với Hội thánh trong cảm thức cũng như trong việc Tông đồ. Gia đình phải nhạy cảm trước các biến cố xảy ra trong Hội thánh, phải chia sẻ những lo âu và hy vọng của Hội thánh.
b) Phải nhất trí với các giáo huấn của Hội thánh, và tìm cách làm cho các giáo huấn ấy được thực hiện.
c) Vì là tế bào của Hội thánh, gia đình phải trở nên tế bào lành mạnh để cả Nhiệm thể được lành mạnh: sống tình yêu toàn diện, hiệp nhất, trung thành và phong phú.
d) Vì là “Hội thánh tại gia”, gia đình Công giáo phải xây dựng nếp sống theo mẫu mực Hội thánh, gồm 3 chức năng: Tư tế, Ngôn sứ, Vương gỉa tại chính gia đình mình, cũng phải thực hiện 3 chức năng ấy theo chiều kích Hội thánh toàn cầu, nghĩa là:
+ Về chức năng tư tế: “Như Hội thánh là dân Tư tế, luôn dâng lên Thiên Chúa lời ca ngợi, cảm tạ qua Kinh nguyện, qua các nghi thức Phụng tự, nhất là Phụng vụ Bí tích, gia đình cũng phải thực thi chức năng tư tế của mình: đó là siêng năng cầu nguyện, chuyên chăm tham dự các Bí tích, cách riêng Bí tích Thánh Thể, biết dâng hiến cuộc đời với mọi vui buồn, sướng khổ trong ý hướng cầu nguyện cho Hội thánh, cầu nguyện cho các chương trình mục vụ của Giáo xứ, Giáo phận và Hội thánh đạt kết quả tốt đẹp. Cần phải làm sao để mọi thành phần trong gia đình Công giáo tham dự vào Bí tích Thánh Thể nhất là các ngày Chúa nhật và lễ Trọng” (GĐ. 61).
+ Về chức năng Ngôn sứ: Như Hội thánh hằng kiên trì thực thi chức năng Ngôn sứ bằng cách trung thành lắng nghe và mạnh dạn công bố Lời Chúa, mỗi người cũng phải biết đón nhận, sống và thông truyền cho mọi phần tử trong gia đình, cũng phải biết học hỏi các giáo huấn của Đức Giáo Hoàng, Đức Giám mục Giáo phận, để truyền đạt lại cho người khác: “Trong nhiều hoàn cảnh ngày nay, việc dạy Giáo lý tại gia đình trở nên cần thiết đến mức tuyệt đối” (GĐ. 52)
+ Về chức năng Vương giả: Như Hội thánh luôn thi hành chức năng Vương gỉa bằng cách nỗ lực sắp xếp các thực tại trần thế dưới Vương quyền Chúa Kitô, đôi bạn và cha mẹ Công giáo cần tìm kiếm Nước Thiên Chúa qua việc quản trị các thực tại trần gian và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa (HT. 31). Phải tổ chức gia đình theo hướng dẫn của Hội thánh, giúp người khác thực hiện việc tổ chức ấy trong tinh thần bác ái, hầu làm cho đời sống Hội thánh địa phương được tốt đẹp. Cũng biết góp phần xây dựng Giáo xứ tùy khả năng và hoàn cảnh.
Tóm lại, hãy nhớ lời khuyên của Công đồng Vaticanô II: “Các Gia đình hãy quảng đại, san sẻ cho nhau sự phong phú tinh thần. Như thế vì gia đình Công giáo phát xuất từ cuộc Hôn nhân là hình ảnh giao ước tìnhyêu nối kết Chúa Kitô và Hội thánh, họ sẽ làm cho mọi người thấy sự hiện diện sống động của Chúa cứu thế trong thế giới và trong bản chất đích thực của Hội thánh, qua tình yêu vợ chồng, qua sự quảng đại chấp nhận sinh sản con cái, qua sự hiệp nhất và trung thành của hai vợ chồng, cũng như qua sự hợp tác thân ái giữa mọi thành phần trong gia đình” (MV. 48)
2. Hội thánh đối với gia đình: (chỉ bàn tới Giáo luật về Hôn nhân)
a) Luật pháp cần cho Hôn nhân bởi Hôn nhân là một cuộc sống công khai. Cuộc sống công khai cần được nhìn nhận và bảo vệ.
+ Là công dân, ta có luật “Hôn nhân và Gia đình” được Quốc Hội thông qua ngày 29.12.1986 gồm 57 điểm.
+ Là người Công giáo, ta có 11 khoản trong bộ “Tân Giáo luật” ban hành ngày 25.01.1983.
b) Luật Hôn nhân có mục đích giúp đôi bạn thực hiện đời sống lứa đôi và gia đình theo tinh thần Chúa Kitô, bảo đảm việc kết hôn thành sự, củng cố tình yêu chuyên nhất vàbền vững, nâng đỡ việc chu toàn nghĩa vụ sinh sản và giáo dục con cái.
c) Đối với người Công giáo, diễn tiến Hôn nhân phải được thực hiện trong khuôn khổ luật đạo, mới có giá trị trước mặt Thiên Chúa.
III. SAU ĐÂY LÀ MỘT SỐ ĐIỂM GIÁO LUẬT VÀQUI ĐỊNH LIÊN QUAN TỚI VIỆC KẾT HÔN.
A. Để kết hôn thành sự:
1. Hai bên đã rửa tội trong Hội thánh Công giáo. Trường hợp kết hôn với người ngoài Công giáo, phải có phép chuẩn khác đạo của Đức Giám mục (GL. 1086. I)
2. Phải đủ tuổi: Nam trọn 16, nữ trọn 14. Nhưng Hội thánh khuyên nên theo Dân luật tại mỗi Quốc gia (GL. 1083). Dân luật Việt nam qui định nam 20, nữ 18.
3. Phải ý thức và đầy đủ tự do ưng thuận lấy nhau (GL. 1057, 1095, 1096, 1101, 103, 1104).
4. Hôn phối phải được cử hành theo nghi thức Hội thánh (GL. 1108).
5. Không mắc ngăn trở theo Giáo luật.
B. Mấy ngăn trở thông thường:
1. Ngăn trở dây Hôn phối: một trong hai người còn bị ràng buộc bởi dây Hôn phối trước (GL. 1085).
2. Ngăn trở bất lực: một trong hai người trước khi kết hôn đã mắc chứng bịnh bất lực không thể chữa trị được (GL. 1084)
3. Ngăn trở họ hàng:
a) Họ máu:
+ trực hệ: tiêu hôn ở mọi đời (GL.1091)
+ Bàng hệ: Hôn phối vô hiệu cho đến hết cấp thứ 4 (GL.1091,2)
b) Họ kết bạn:
Hôn phối vô hiệu ở mọi cấp trực hệ (GL.1092).
4. Ngăn trở tội ác: Kẻ giết người phối ngẫu của một người (hoặc giết kẻ phối ngẫu của chính mình) để lấy người ấy. Khi hai người đồng tình trực tiếp hay gián tiếp gây nên cái chết của người phối ngẫu để lấy nhau (GL. 1090).
5. Một trong hai người bị ngăn trở bởi lời khấn công khai và trọn đời sẽ vô hiệu hóa hôn nhân (GL. 1088).
C. Qui định của Đức Giám mục Giáo phận Xuân Lộc về thủ tục Hôn phối:
(Theo thông cáo số 10.89/TGM ngày 15.06.1989)
Thống nhất việc đăng ký kết hôn như sau:
+ Phải trình diện với Cha xứ trước khi đăng ký kết hôn phần đời (thể thức tùy theo từng giáo xứ).
+ Việc học, khảo giáo lý và làm lời khai Hôn phối: Bên nào làm tại bên ấy. Cha xứ bên nam giới thiệu cho cha xứ bên nữ.
+ Có giấy giới thiệu, cha xứ bên nữ sẽ làm tờ rao Hôn phối cho cả hai bên.
+ Nếu không có gì ngăn trở theo Giáo luật thì được đăng ký phần đời. Sau đó cử hành nghi thức Hôn phối.
+ Muốn làm phép bên nào tùy ý chọn.
D. Hướng dẫn của Đức Giám mục Xuân Lộc về cưới hỏi: (Theo thông báo số 333/1 TGM ngày 2.9.1983)
“Chúng tôi đồng ý rằng việc cưới hỏi là một dịp vui lớn trong gia đình, trong xứ họ và đặc biệt đối với đôi tân hôn. Vui với ngưới vui là một việc làm rất đáng khuyến khích, cho nên mỗi khi trong giáo xứ có lễ cưới, nếu được cả cộng đoàn giáo xứ cùng dâng lễ cầu nguyện cho đôi tân hôn được nhiều ơn Chúa, để làm tròn bổn phận người Kitô trong đời sống gia đình và nên nhân chứng Chúa Kitô trong đời sống xã hội, thì quí giá biết bao.
Còn việc tổ chức ăn uống linh đình, tốn phí tiền của quá đáng, đấy là một việc làm không hợp lý. Đã thế, việc làm này dễ trở nên dịp ganh đua lấy tiếng như: tổ chức lễ cho to, đàn hát rầm rộ, rước dâu xe hoa xe khách, ăn nhậu linh đình... Đối với những người có của thì có thể trở nên dịp khoe khoang, giữa lúc chung quanh chúng ta còn biết bao nhiêu người, bao nhiêu công trình cần thiết phải giúp đỡ, phải xây dựng. Xài phí quá đáng như vậy là việc trái với đức ái của Đạo. Còn đối với những người không có của thì:“vì tiếng đời” hoặc “phải trả nợ miệng” mà phải vay mượn để tổ chức, họ sẽ rơi vào cảnh nợ nần, gia đình tan nát, con cái thay vì trăm năm hạnh phúc, lại lâm cảnh lo trả nợ suốt đời. Vì thế:
1) Chúng tôi yêu cầu anh chị em tiết giảm tối đa trong việc cưới hỏi. Ăn uống vui tươi nhưng tránh quá tốn phí. Chỉ được tổ chức bữa ăn đơn giản trong ngày dạm hỏi và một bữa ăn thân mật trong chính ngày cưới. Bỏ những bữa tiệc trà, bánh ngọt và những bữa ăn phụ khác.
2) Thánh lễ cưới sao cho trang trọng, sốt sắng, đồng đều cho mọi người, không phân biệt thứ hạng (trừ trường hợp đặc biệt cho những người ân nghĩa của Giáo xứ).
3) Các Linh mục trong xứ không nên đi dự tiệc cưới.
4) Tránh hẳn nạn thách cưới hoặc ra giá cả như một việc mua bán.
BÀI HỌC
28. H. Công Đồng Vaticanô II nói thế nào về liên hệ giữa gia đình và Hội thánh?
T. Công đồng dạy:“Sự lành mạnh của con người cũng như của xã hội nhân loại và Kitô giáo liên kết chặt chẽ với tình trạng tốt đẹp của cộng đoàn Hôn nhân và Gia đình”(Hc. MV. 47).
29. H. Hội thánh liên hệ thế nào với Gia đình?
T. Hội thánh sinh ra, dưỡng dục và xây dựng gia đình Công giáo.
30.H. Gia đình liên hệ thế nào với Hội thánh?
T. Gia đình dự phần sứ mệnh cứu rỗi của Hội thánh theo cách thức riêng của mình.
31.H. Gia đình có nghĩa vụ gì đối với Hội thánh?
T. Gia đình có nhiều nghĩa vụ đối với Hội thánh:
+ Gia đình phải hiệp thông với Hội thánh.
+ Gia đình phải tuân giữ các giáo huấn của Hội thánh.
+ Gia đình thi hành 3 chức năng Tư tế, Ngôn sứ và Vương gỉa theo cách thức riêng của mình.
Page 2 of 2
Bài 11
GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI
I.GIA ĐÌNH VỚI XÃ HỘI.
II.XÃ HỘI VỚI GIA ĐÌNH.
III.ĐẠI GIA ĐÌNH.
LỜI HƯỚNG DẪN.
“Bởi vì Thiên Chúa đã đặt gia đình làm nguồn gốc và nền tảng cho xã hội loài người, nên gia đình trở thành tế bào đầu tiên và sống động của xã hội. Gia đình có những liên hệ chặt chẽ và sống động với xã hội, vì nó làm thành nền tảng cho xã hội, và không ngừng tiếp sức cho xã hội bằng việc phục vụ sự sống. Chính giữa lòng gia đình đã sinh ra các công dân, và chính trong gia đình mà các công dân ấy lần đầu tiên thực tập các nhân đức xã hội, là linh hồn cho sinh hoạt và sự phát triển của xã hội” (GĐ. 42).
I. GIA ĐÌNH VỚI XÃ HỘI.
1. Trong cơ cấu tự nhiên, con người vốn có chiều kích xã hội. Tự thâm tâm, con người được mời gọi để sống hiệp thông với tha nhân, và để trao đổi chính mình cho người khác.
2. Chiều kích xã hội đó, Thiên Chúa đặt vào con người, theo lời Công đồng Vat.II:“Thiên Chúa, với lòng phụ tử, hằng chăm sóc mọi người, đã muốn rằng: Mọi người họp thành một gia đình đối xử với nhau như anh chị em” (MV. 24).
3. Cho nên, có sự tùy thuộc lẫn nhau giữa con người với xã hội, những gì giúp ích cho con người, cũng là để phục vụ xã hội, và những gì làm cho xã hội, cũng là để giúp ích cho con người. Tông huấn Gia đình, số 45 nói:“Tương quan chặt chẽ giữa gia đình và xã hội: một đàng đòi hỏi gia đình phải mở rộng và tham gia vào xã hội cũng như vào việc phát triển xã hội, nhưng đàng khác lại đòi hỏi xã hội không được thiếu sót trong bổn phận nền tảng của mình là tôn trọng và thăng tiến gia đình”.
4. Sau đây là một số liên hệ giữa gia đình và xã hội:
a) Hôn nhân và gia đình là cách diễn tả đầu tiên của chiều kích xã hội nơi con người.
Ngay từ đầu, Thiên Chúa đã dựng nên loài người có nam có nữ, cho họ sống chung với nhau. Xã hội nhỏ bé đó là diễn tả đầu tiên của tính hợp quần nơi con người (x. MV.12).
b) Hôn nhân và gia đình là khung cảnh đầu tiên để người giáo dân dấn thân hoạt động xã hội. Khi vợ chồng hướng tới nhau, cha mẹ săn sóc con cái, ông bà khuyên bảo lũ cháu đàn con, là làm cho tính xã hội nơi họ mở rộng dần. Họ tập sống xã hội trong chính gia đình mình(x. GĐ. 42).
c) Gia đình còn là tế bào nền tảng của xã hội, vì gia đình là cái nôi của sự sống và tình yêu, trong đó con người được sinh ra và lớn lên. Mà tế bào gia đình có tốt, xã hội mới tốt được, như luật “Hôn nhân và Gia đình” đã xác nhận “Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt; xã hội tốt thì gia đình càng tốt” (Lời mở đầu của Luật Hôn nhân và Gia đình).
Cho nên phải quan tâm đặc biệt gìn giữ gia đình trong trạng thái lý tưởng: yêu thương, hiệp nhất, hy sinh vì lợi ích của nhau. Các chiến dịch chống lại việc sinh sản có trách nhiệm, não trạng tìm kiếm khoái lạc, sự nghèo khổ cùng cực về văn hóa và giáo lý, đều là những thảm trạng đang làm vơi cạn nguồn mạch sự sống.
d) Gia đình phải ý thức tính cách căn bản của mình là hạt nhân nền tảng của xã hội để từ đó giữ vai trò chủ chốt và tích cực trong việc thăng tiến gia đình. Phải đòi hỏi mọi người, kể cả các nhân viên chính quyền, khi bảo vệ gia đình thì cũng bảo vệ chính xã hội.
e) Sau đây là một số quyền lợi căn bản của gia đình, mà xã hội phải tôn trọng (x. GĐ. 46):
+ Mọi người, cách riêng những người nghèo, đều được lập gia đình và duy trì Gia đình bằng những phương tiện thích hợp.
+ Quyền sống thân mật trong cuộc sống Hôn nhân. Quyền duy trì dây Hôn nhân bền vững.
+ Quyền giáo dục con cái đúng với truyền thống riêng của gia đình, đúng với những giá trị tôn giáo và văn hóa, nhờ những phương tiện và những cơ chế cần thiết (x. TDTG. 5).
+ Quyền có được nhà ở thích hợp với đời sống lành mạnh gia đình.
+ Quyền có những giải trí lành mạnh.
+ Quyền di dân toàn thể gia đình để mưu tìm hoàn cảnh sống tốt đẹp hơn.
II. XÃ HỘI VỚI GIA ĐÌNH.
Tương quan chặt chẽ giữa xã hội với gia đình đòi buộc xã hội phải tôn trọng và thăng tiến cuộc sống gia đình:
1. Xã hội, nói đúng hơn, phải nhận rằng gia đình là “một xã hội được hưởng quyền lợi riêng biệt và ưu tiên” (TDTG. 5). Do đó, trong những gì liên hệ tới mối tương quan giữa xã hội với gia đình, thì xã hội có nghĩa vụ phải theo đúng nguyên tắc hỗ trợ cho gia đình.
2. Theo nguyên tắc ấy:
a) Quốc gia không được tước mất của gia đình những trách nhiệm mà gia đình có thể tự mình chu toàn cách tốt đẹp, hoặc một mình hoặc bằng cách liên kết với những gia đình khác.
b) Trái lại, Quốc gia phải cung ứng cho gia đình mọi sự trợ giúp (về kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa...) mà gia đình cần có để làm tròn các nghĩa vụ của gia đình.
3. Sau đây là một số điểm dân luật nhằm bảo vệ và hỗ trợ đời sống Hôn nhân và Gia đình:
a) Để việc kết hôn có giá trịpháp luật:
+ Nam 20, nữ 18 tuổi mới được kết hôn (đ. 5).
+ Phải tự nguyện, không bên nào được ép buộc bên nào, không ai được cưỡng ép hoặc cản trở (đ. 6).
+ Cấm kết hôn:
Những người đang có vợ chồng.
Những người mắc bệnh tâm thần, bệnh hoa liễu.
Những người cùng dòng máu trực hệ.
Những người bàng hệ trong ba đời.
Giữa cha mẹ nuôi với con nuôi (đ. 7).
+ Phải được kết hôn theo thủ tục qui định.
b) Để đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ của vợ chồng và con cái:
+ Vợ chồng có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình (đ. 10).
+ Nghĩa vụ chung thủy, yêu thương giúp đỡ nhau (đ. 11).
+ Vấn đề tài sản riêng và chung, vấn đề nghề nghiệp, nhà ở, xin xem các điều 12-18.
+ Về con cái: nghĩa vụ, tài sản, con cái vị thành niên, xin xem các điều 19-27.
III. ĐẠI GIA ĐÌNH.
1. Ngoài mối liên hệ với xã hội theo đúng nghĩa, còn có những liên hệ khác gần gũi hơn, mà gia đình Công giáo cần lưu tâm, đó là mối liên hệ với đại gia đình.
2. Ở Việt nam, đôi bạn mới kết hôn, thường ở chung với cha mẹ; thời gian vắn dài tùy hoàn cảnh. Cha mẹ, vợ chồng, con cháu làm thành một gia đình. Còn đại gia đình gồm cả những người cùng một tổ sinh ra, người sống cũng như người đã chết.
3. Trong sinh hoạt gia đình, con dâu, con rể phải một lòng tôn kính, mến yêu, phụng dưỡng cha mẹ đôi bên. Đưa chuyện bên này về bên kia, thường là căn cớ gây nên những xích mích khó hàn gắn.
4. Đối với đại gia đình, đây là nét đặc sắc của dân tộc Việt nam, nói lên “một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Kẻ sống kẻ chết, người ở xa, người ở gần gắn bó với nhau. Dù làm ăn xa xôi cách trở, thường cố gắng mỗi năm một vài lần về đoàn tụ xung quanh ông bà, cha mẹ; tình nghĩa gia tộc vì thế thêm đậm đà.
5. Tuy nhiên, cũng có vài điểm bất lợi, nhất là khi nhiều thế hệ sống chung dưới một mái nhà. Lúc ấy, bậc ông bà thường can thiệp thái quá vào cuộc sống con cái, cháu chắt, có thể gây khó khăn cho việc phát huy tính tự lập, bản lãnh và tài năng của con cháu. Tâm lý khác biệt giữa các thế hệ cũng thường là nguyên nhân gây nhiều va chạm nặng nề và dai dẳng.
Để giảm bớt những xung đột đó, mỗi thế hệ nên tự hạn chế: người gìa nhiều kinh nghiệm, xứng đáng được tôn trọng, được lắng nghe. Tuổi trẻ phải học hỏi nhiều ở người gìa. Song tuổi trẻ cũng có quyền tổ chức đời sống theo ý nguyện riêng, bậc ông bà, cha mẹ nên tỏ ra khoan dung hơn.
6. Khi xảy ra những bất hòa, nên sớm gặp gỡ, trao đổi trong tình thân mật, xây dựng, hơn là để lâu, có thể “tức nước vỡ bờ”.
7. Phần anh chị em ruột thịt, dâu rể trong đại gia đình, phải biết yêu thương, đùm bọc nhau. Hãy thực hành chữ “nhịn”: “một nhịn chín lành”.
8. Và hơn tất cả, là gia đình Công giáo, mọi thành phần hãy sống noi gương gia đình Nazareth, biết kính trên nhường dưới, biết phục vụ lẫn nhau, thì dù là tiểu gia đình hay đại gia đình, họ sẽ thấy hạnh phúc tràn đầy.
“Thật là tốt đẹp lắm thay,
Anh em được sống sum vầy bên nhau”.
BÀI HỌC
32.H. Gia đình và xã hội có liên hệ gì với nhau?
T. Gia đình và xã hội có liên quan mật thiết với nhau, vì:
+ Gia đình là khung cảnh đầu tiên thể hiện tính xã hội của con người và là khung cảnh đầu tiên để con người tập dấn thân hoạt động xã hội.
+ Gia đình là nền tảng xã hội.
33.H. Gia đình và xã hội có những vấn đề gì đối với nhau?
T. Gia đình phải góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phúc âm; còn xã hội phải tôn trọng và giúp đỡ những quyền lợi căn bản của Gia đình.
Giáo Lý Hôn Nhân-Công Giáo Giáo Lý Hôn Nhân-Công Giáo - Tổng Hợp Giáo Lý Hôn Nhân-Công Giáo