Never lend books, for no one ever returns them; the only books I have in my library are books that other folks have lent me.

Anatole France

 
 
 
 
 
Tác giả: Xuân Vũ
Thể loại: Tùy Bút
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 36
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2470 / 107
Cập nhật: 2015-07-18 13:06:46 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 29
hiều hôm sau thì chúng tôi đến một cái trạm bên bờ sông. Không biết được con sông đó tên gì. Trên nguyên tắc giao liên, thì đến đâu thì đến, đi đâu thì đi, không ai được quyền hỏi đó là đâu.
Con sông quá rộng, nước trong, nhưng không có lấy một mái nhà, một bóng thuyền.
Tôi mừng quá, bương bả đi tới mé sông và sẵn bãi lài tôi đi thẳng xuống mé sông rửa mặt và ngâm chân. Tôi nhìn phía trên, nhìn phía dưới, một quãng sông thẳng tắp, nước trong xanh, chảy xiết, mát mắt mát lòng.
Tôi có cảm tưởng là tôi đã đến một chặng quan trọng của cả con đường dài. Nó như mở tầm mắt ra hướng về phía đồng bằng xanh mát.
Bọn chúng tôi lại vào trạm một cách ngang nhiên với cái “lết-xê-pát-xê” (laisser-passer: giấy thông hành) sống là Thu.
Trạm này có lẽ là một tổng trạm, vì nhân viên vừa Kinh vừa Thượng có đến 9, 10 người. Có cả nhà ngủ, nhà ăn, chuồng lợn và lợn. Trạm lại còn có một cái nhà vừa mới cất, nền nhà nện phẳng phiu, nóc nhà lợp bằng lá kết ngay hàng như ngói.
Nhưng trời ơi! sự phức tạp ở đây tôi chưa từng thấy ở bất cứ trạm nào. Có lẽ ở đây thu nhận cả khách ra Bắc, khách vào Nam và khách đi các nẻo cho nên ngày thường mà người bệnh phải nằm lại trạm có đến số trăm. Cách xa hằng cây số đã nghe tiếng náo động như chợ họp. Cách vài trăm thước đã nghe mùi tanh tưởi, mùi hôi thối của một cuộc sống vô tổ chức.
Chúng tôi phải vượt qua một bãi phóng uế rộng như sa mạc để vào trạm. Hình ảnh tôi bắt gặp trước tiên là một anh người Thượng cầm một cây AK giương sẵn lưỡi lê hầm hầm đi dạo qua các cái tăng. Ai nom thấy y cũng đều lấm lét.
Ở đây thì có cả: sốt rét ác tính lên cơn hò hét suốt ngày đêm, mê sảng bò xuống sông uống nước, kiết lỵ không đi nổi cứ nằm tiêu trên võng, hai người ở chung một lều mắc võng trên võng dưới, ăn cắp dép, bi-đông, ăn nấm độc, trúng thực v.v… Còn sốt rét thưòng thì không kể làm chi. Mỗi một cái tăng là một ổ vi trùng, một trời bất mãn.
Anh giao liên người Thượng đang đi chẫm rãi bỗng rảo bước nhanh về phía một cái tăng đang có khói bốc lên.
- Bây giờ là mấy giờ mà anh nấu hả?
- Dạ ba giờ – Anh binh sĩ đang ngồi chẻ củi đun ngước lên đáp.
Anh người Thượng quát:
- Lệnh mấy giờ mới được nấu?
- Dạ 6 giờ.
Bỗng anh người Thượng ném cây AK xuống đất và leo vọt lên một gốc cây như một con khỉ bị săn đuổi. Anh leo lên gần đến ngọn cây thì dừng lại, bẻ nhánh cây quất lia quất lịa như thầy pháp đuổi tà. Tôi không hiểu anh ta làm gì vậy? Anh ta quơ một chập rồi tuột xuống vừa nói vừa thở hổn hển:
- Anh có thấy tai hại không? Trời mưa ẩm ướt, khói bốc lên đóng cục trên ngọn cây anh thấy không? Máy bay nó bay ngang nó thấy rồi làm sao?
- Nó tưởng là hơi nước bốc lên chớ gì!
- Nước gì? hả? anh muốn giết người ta hả? – Rồi anh giao liên Thượng chụp lấy cây AK chĩa hai ba cái liên tiếp. Tôi quay mặt đi.
Tiếng khóc nổi lên theo tiếng chửi rủa của anh người Thượng.
- Tao cho mày chết. Xoảng! xoảng! Vô kỷ luật! Xoảng!
Tôi quay lại thì thấy cái ga-men của anh binh sĩ ngã lăn xuống đất, nước đổ xuống bếp khói tro bốc lên mù mịt. Anh giao liên chĩa một nhát xuyên qua đít ga-men rồi vít nó văng ra xa lắc.
- Đấy, ai muốn nấu thì nấu đi xem!
Anh binh sĩ ôm mặt khóc rưng rức. Thuận tay anh giao liên quơ lấy luôn mấy cái ga-men, xỏ xâu xách đi và càu nhàu:
- Tao treo mõm chúng mầy tới tối!
Tôi về trạm. Trời sắp mưa.
Không gì đáng sợ bằng mưa. Mưa lạnh. Mưa làm tăng cơn đói. Mưa làm cho sốt. Mưa thêm sầu não, bi lụy.
May sao anh trạm trưởng về tới. Anh nhỉn vô nhà và quát:
- Có mấy đồng chí trung ương tới đây chưa?
Tôi còn lưỡng lự không biết có phải anh ta hỏi chúng tôi không thì anh trạm trưởng đã chạy tới chỗ tôi và Thu, lắp bắp:
- À, đây rồi! đây rồi! Tôi có được trạm ngoài báo cho biết.
Tôi thở phào nhẹ nhỏm.
Anh trạm trưởng nói:
- Các đồng chí mắc võng trong nhà mà nghỉ. Sáng mai tôi cho nó đi săn về cho các đồng chí làm lương khô. Lúc này mới sa mưa, cỏ tranh mọc lún phún trên bãi tro của rẫy vừa mới đốt, nai ra ăn ngọn tranh non từ hừng sáng. Đến mặt trời lên một chút là hắn ra bờ suối uống nước. Tám giờ mai, các đồng chí sẽ có một con nai.
Quả y như lời hứa của anh trạm trưởng, mặt trời lên ấm đất một chút thì nghe hai tiếng AK nổ.
Độ một tiếng đồng hồ sau, hai người giao liên Thượng khiêng về hai cái đùi nai to hơn đùi bò, máu me đỏ lòm. Lại còn đèo thêm một cặp sừng và cái đuôi nai. Họ mắc hai cái đùi nai vào nhánh cây vừa xong thì người ta đến vây kín cả hai khối thịt đó. Có người xông vào xẻo ngay một cục và chạy biến đi…
Anh trạm trưởng quát:
- Đi ra rừng mà xẻ. Còn nguyên ngoài đó.
Tức thì cả đám người như một đoạn cua-rơ đổi hướng, tủa ra chạy đi. Chỉ còn lại độ mươi bộ mặt ỳ ra đó, vừa rên vừa xin:
- Chúng em bệnh quá không đi nổi! Trạm trưởng cho em xin!
Anh trạm trưỏng cắt ném cho mỗi người một cục, may được chỗ nào nhờ chỗ ấy.
Còn chúng tôi thì đưa cho anh trạm trưởng mỗi người 200 đồng Miền Nam rồi tha hồ lấy thịt. Anh trạm trưởng đưa cho tôi xem cái đuôi nai và bảo:
- Món này bổ lắm! Nhưng bổ nhất là cái lộc nhung của nó. Nếu hôm nay săn được con nai tơ, tôi cho anh hút một cái thì sáng mai anh nứt da ra thôi! Tụi tôi có đây mà không dám cho vô miệng vì sợ nó hành xác… Ở đây túng … chỗ lắm… chịp!
Anh trạm trưởng nháy mắt nhìn tôi một cách ma quỷ:
- Này, anh bạn có giới thiệu cho mình được không?
- Ừ, để rồi… tôi … – Tôi ậm ờ với Khanh.
Đang vui chuyện thì có người chạy về báo cáo:
- Chúng nó giành nhau chém lộn đổ máu ngoài đó đồng chí trạm trưởng!
Anh trạm trưởng cười:
- Làm gì thì làm, ngoài quyền hạn của tôi, tôi không biết.
Anh trạm trưởng tỏ vẻ ái mộ chúng tôi thật sự. Anh bảo:
- Cái gì chớ thịt ở đây tôi bảo đảm cho các đồng chí. Chỉ sợ các đồng chí không có sức mang thôi!
Rồi anh bảo các nhân viên trạm:
- Kiểm soát gắt gao. Có thịt về, nó nấu khói lên mịt trời đấy! Cái chỗ này sẽ ăn B52, nhất định!
Anh trạm trưởng nói với chúng tôi:
- Ở trạm này chứa toàn là dân trời đánh thánh đâm các đồng chí ạ! Có cả “bê quay” ở tít đằng kia đó.
Thu trố mắt nhìn anh trạm trưởng:
- Bê quay à đồng chí? Có đắt không?
- Đắt lắm. Thôi gọi bằng anh cho thân mật. Tôi, tôi tên Khanh. – Anh trạm trưỏng nhìn Thu với cặp mắt mê đắm – Cô có muốn xem bê quay tôi dắt đi?
- Em không muốn coi mà muốn mua thôi!
Anh trạm trưởng có vẻ thích cái tiếng “em” của Thu vừa tung ra. Anh bước ngay vào cái nhịp câu Thu:
- Được, để tôi giúp. Sợ em không mua chứ!
Thu reo lên nhí nhảnh. Thu nói với tôi:
- Mình may quá anh nhỉ? Vừa có nai lại có cả bê quay.
Tôi thấy Thu đang vui chuyện với anh trạm trưởng nên lảng đi xuống sông múc nước, để cho hai bên “đá lông nheo” với nhau.
Khi trở lên, tôi ghé lại một cái lều. Trong lều có hai cái võng, một chiếc trên, một chiếc dưới.
Trong lều có một xâu thịt và một cậu đang ngồi chẻ những thanh nứa ra thành mảnh thật nhỏ để chụm không có khói.
Tôi hỏi:
- Còn cậu nữa đâu?
- Đi kiếm thịt thêm.
Tôi nhìn trong lon ghi-gô thấy có mấy cục thịt. Có lẽ không có dao hay không đủ sức xắt ra nên anh chàng để những cục thịt to bằng bắp tay mà nấu.
Tôi lân la nói chuyện với cậu ta một hồi lâu rồi về trạm. Tôi cũng đem thịt ra xắt, chuẩn bị kho thật mặn để mang theo đường. Còn Thu thì đang vui vẻ nói về cái nghề múa của Thu. Thỉnh thoảng Thu đưa tay, quơ chân làm cho anh trạm trưởng cứ híp mắt mà cười.
- Cấp cứu! cấp cứu! – Có tiếng la bài hãi.
Anh trạm trưởng đang say mồi, nhìn ra, thản nhiên nói:
- Chém lộn với nhau thì tự băng lấy chớ ai mà cứu với cấp!
- Không phải đâu! Anh này đang ngồi bỗng ngã ra chết tươi.
Nhưng anh trạm trưởng vẫn cứ bình tĩnh:
- Thuốc ở đâu mà cứu?
Tôi cũng đi đến chỗ cái lều có mắc võng trên võng dưới lúc nãy. Anh chiến sĩ ngồi nấu thịt nằm ngữa ra hai mắt trợn lên, hai tay hai chân giăng ra như một con nhái nằm phơi bụng. Người ta chạy tới cũng đông, la lối ỏm tỏi, nhưng không ai mó đến. Mỗi người một tiếng:
- Thằng này phải gió!
- Sốt ác tính, viêm màng não rồi!
Tôi lấy làm lạ không hiểu anh ta bệnh gì mà kỳ cục vậy? Tôi nhìn vô cái hộp ghi-gô. Tôi thấy thịt trong hộp vơi đi nhiều. Tôi nghĩ hay anh ta nuốt một cục to không kịp nhai mà mắc nghẹn? Nghĩ vậy, tôi nhìn cái cổ của anh ta. Quả thật nó hơi no ra như sắp nổi bướu. Tôi bèn đưa tay ấn xuống và vuốt thật mạnh hai ba cái liền.
Tôi nghe một tiếng “ót” – Cái bướu đó tan liền. Cục thịt đã chạy xuống và anh bạn thở ra nhẹ nhàng.
Tôi đỡ anh ta ngồi dậy. Cả đám người cười rộ lên. Một cậu mỉa mai:
- Không có cái ăn chết đã đành, có cái ăn cũng chết!
Tôi trở về trạm kể chuyện lại cho anh trạm trưởng nghe. Anh ta bảo:
- Bọn này là lũ qủy phá nhà chay đồng chí ơi! Tụi nó ở đâu thì thối đất thối đai đến đó. Mặc kệ nó, chết một con nhòn một mủi.
Anh trạm trưởng vừa nói đến đó thì “Ấm” một tiếng bộc phá nổ như một cái dấu chấm câu cho anh trạm trưởng.
- Đó, các đồng chí nghe không? Nó đánh cá đó. Thuốc nổ của trung ương gởi về Nam, tới đây Hà Bá thu hết.
Anh quay lại bảo:
- Đứa nào chạy ra tìm cái thằng chó chết đó cho tao coi.
Một lát sau, anh giao liên người Thượng tay xách AK, tay đùn một anh chiến sĩ vô trạm… Anh này đi từng bước một.
Vừa trông thấy mặt, Khanh đã quát:
- Vô kỷ luật, đứng nghiêm nửa tiếng đồng hồ!
Rồi anh quay lại nói chuyện với Thu, không để ý tới anh chiến sĩ mặt xanh nanh vàng kia đang đứng nghiêm với cặp chân như những cái cọc màn.
Chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ, anh giao liên người Thượng đã chạy đi bắt ba người nữa về và tự anh ra lệnh cho họ đứng nghiêm như người trước.
Có lẽ anh trạm trưởng thấy thương tâm hay thấy họ đứng như vậy bất tiện cho câu chuyện giữa anh và Thu cho nên quay đi quay laị, những người bị phạt đã lẩn đi hết mà anh cũng không nói gì. Anh bảo anh giao liên người Thượng:
- Tha nó đi! Nhưng các cậu phải đi tìm và tịch thu hết tất cả các bánh thuốc nổ cho tôi!
Anh giao liên vừa đi, Khanh nói với tôi:
- Thì phải làm oai vậy chớ nó đói quá mà! Nếu mình như nó, mình cũng không làm gì khác hơn.
Đường Đi Không Đến Đường Đi Không Đến - Xuân Vũ Đường Đi Không Đến