Bí mật của thiên tài là có được tinh thần của trẻ con khi mình đã lớn, có nghĩa là không bao giờ mất nhiệt huyết.

Aldous Huxley

 
 
 
 
 
Tác giả: Huỳnh Dị
Thể loại: Kiếm Hiệp
Số chương: 759
Phí download: 22 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 9345 / 190
Cập nhật: 2022-05-11 07:50:07 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Thiên Hạ Vi Tiên
au khi Khấu Trọng cùng các mưu thần đại tướng thương nghị kế hoạch tấn công Giang Đô, các tướng đều lĩnh mệnh chia nhau hành sự. Trước tiên Tống Sản, Vương Trọng Tuyên xuất lãnh đội tiên phong lên đường xuống miền Nam bằng đường thủy.
Khấu Trọng đã nhiều ngày vất vả nên về phòng đả tọa nghỉ ngơi. Chưa đầy nửa canh giờ thì có tiếng gõ cửa.
Khấu Trọng giật mình thầm nghĩ chẳng lẽ lại có tin xấu, thầm than thân làm lãnh tụ chẳng dễ chút nào. Gã trả lời: “Hành Chi mời vào!”
Hư Hành Chi đẩy cửa vào nói: “Hạnh Dung của Thanh Trúc Bang có việc gấp cầu kiến!”
Khấu Trọng lật đật ra ngoại đường gặp Hạnh Dung. Tên tiểu tử mặt mày hớn hở, vừa thấy gã đã nói ngay: “Lý Tử Thông muốn đầu hàng lão ca. Tiểu Trọng thật là lợi hại, Lý Thế Dân cũng chẳng làm gì được.”
Khấu Trọng cả mừng đáp: “Đừng nói nhảm nữa! Tại sao Lý Tử Thông đột nhiên lại trở nên nghe lời như thế, tin này từ đâu mà ra?”
Hạnh Dung hạ giọng tỏ ra bí ẩn, nói: “Lão hồ đồ Thiệu Lệnh Châu hạ mình đến cầu xin bọn ta, nhưng bất quá Lý Tử Thông có điều kiện kèm theo.”
Khấu Trọng nhíu mày: “Lý Tử Thông có tư cách gì mà nói điều kiện với ta? Hắn không biết ta chán ghét hắn sao? Không giết hắn đã là phước cho nhà hắn lắm rồi. Con mẹ hắn! Hừ!”
Hạnh Dung nở nụ cười đầy vẻ khoa trương, nói tiếp: “Thiếu soái bớt giận, điều kiện đầu tiên của hắn là thả cho hắn một con đường sống. Con mẹ hắn, Lý Tử Thông đương nhiên không có tư cách nói điều kiện với ngươi, ngươi không biết bây giờ tiếng tăm của ngươi lẫy lừng đến mức nào sao. Chúng ta chỉ đưa ra chiêu bài Khấu Thiếu soái của ngươi là cả miền Đại Giang này ai lại không nể mặt. Biết ngươi không tha cho quân Đường, ta và Tích Lương đều mừng đến suýt khóc. Tử Lăng đâu? Hắn không ở đây sao?”
Khấu Trọng chững lại, bật cười: “Ngươi đã trở nên huênh hoang khoác lác từ lúc nào thế. Tử Lăng có việc phải đi nơi khác rồi. Hãy nói chuyện chính đã, điều kiện của Lý Tử Thông là cái quái gì?”
Hạnh Dung tiếp: “Những điều khác toàn là chi tiết, điều quan trọng nhất là ngươi đích thân hộ tống hắn rời khỏi Giang Đô, hắn chỉ dắt khoảng hai trăm người nhà rời khỏi đây, thành Giang Đô sẽ do ngươi tiếp thu trong hòa bình, đảm bảo không ai dám phản kháng.”
Khấu Trọng ngạc nhiên hỏi: “Do ta hộ tống hắn? Là chuyện gì đây? Có phải âm mưu quỷ kế gì không?”
Hạnh Dung nói: “Hắn còn có thủ đoạn gì nữa đâu? Chẳng lẽ dám một mình đối đầu với ngươi sao, trong thiên hạ ngoại trừ Ninh Đạo Kỳ ra e rằng không có ai dám làm thế. Không ai hiểu rõ thành Giang Đô hơn ta, đây là chọn lựa tốt nhất của Lý Tử Thông, hơn nữa hắn còn có thể đem theo rất nhiều tài sản.”
Khấu Trọng băn khoăn: “Vậy việc gì hắn phải làm phiền ta hộ tống hắn?”
Hạnh Dung cả quyết: “Bởi vì hắn sợ Tống Khuyết. Nhạc phụ tương lai của ngươi xưa nay nổi tiếng thẳng tay với kẻ địch, chỉ có Khấu đại ca tự thân đảm bảo an toàn cho hắn thì Lý Tử Thông mới yên tâm.”
Khấu Trọng cười cười: “Tên tiểu tử nhà ngươi quả là biết cách vỗ mông ngựa của ta. Được rồi, vì Trầm Pháp Hưng, lão tử tha cho hắn phen này. Ngươi về nói với Thiệu Lệnh Châu, chỉ cần Lý Tử Thông ngoan ngoãn nghe lời thì ta chẳng có hứng thú giết hắn. Trong vòng ba ngày ta sẽ đến ngoại thành Giang Đô, bảo hắn chuẩn bị ổn thỏa, chuẩn bị lên đường, ta không rảnh mà chờ ở ngoài thành đâu.”
Hạnh Dung không hiểu: “Tại sao liên quan đến Trầm Pháp Hưng?”
Khấu Trọng từ tốn đáp: “Đương nhiên là liên quan đến Trầm Pháp Hưng, nếu không phải vì hắn chúng ta cũng đã không tấn công Giang Đô toàn diện như vậy. Đại tướng Côn Lăng của y đã bị chúng ta cắt đường giao thông thủy lục, cho đến lúc chúng ta đến đến ven thành, chắc y cũng chưa biết chuyện gì đang xảy ra.”
o O o
“Bình!”
Lý Thế Dân bước ra cửa, tâm sự trùng trùng vỗ một chưởng lên khung cửa khiến mảnh gỗ văng tung tóe.
Lý Tịnh bất ngờ xuất hiện ở bên ngoài. Lý Thế Dân chắp tay sau lưng, đập trán vào khung cửa, đau khổ nói: “Ta không sao!”
Lý Tịnh nhìn Lý Thế Dân, lại nhìn Từ Tử Lăng vẫn còn ngồi ngẩn trong phòng, rồi lui ra với vẻ mặt nặng nề.
Lý Thế Dân thở hổn hển rồi lê bước trở về ngồi xuống bên cạnh Từ Tử Lăng, nói: “Phụ hoàng đã giết Lưu Văn Tĩnh rồi!”
Từ Tử Lăng kêu thất thanh: “Cái gì?”
Lưu Văn Tĩnh là đại công thần khởi nghĩa của Lý Đường, đã từng mật mưu cùng Lý Uyên dấy binh, lâu nay vốn là một trong những người Lý Uyên tin tưởng nhất, dù ông ta làm sai chuyện gì cũng không đến nỗi mang tội chết.
Lý Thế Dân buồn bã giải thích: “Lưu Văn Tĩnh bị Doãn Tổ Văn và Bùi Tịch vu cáo mưu phản. Phụ hoàng còn cố làm ra vẻ công chính, sai Tiêu Tiệp và Lý Cương điều tra, cả hai người đều chứng minh Lưu Văn Tĩnh vô tội, nhưng vẫn xử cực hình ông ta. Khi ta đông kinh Lạc Dương chuyện này mới xảy ra, Lý Cương vì chuyện này mà chán nản từ quan quy ẩn. Chao ôi! Sao phụ hoàng lại trở nên như thế này?”
Từ Tử Lăng hạ giọng hỏi: “Có phải Lưu Văn Tĩnh thường nói đỡ lời cho Thế Dân huynh không?”
Lý Thế Dân gật đầu: “Đúng là như vậy. Tĩnh thúc đối với Đại Đường ta có công chứ không tội, sai lầm duy nhất có lẽ là bại trận trong cuộc chiến Thủy Nguyên nhưng Bùi Tịch đối mặt với Tống Kim Cương cũng thảm bại chứ có hơn gì, đã làm mất Tấn Châu vốn dùng để trấn Bắc thành. Phụ hoàng chẳng những không trách tội mà còn bảo ông ta trấn giữ Hà Đông. Từ sau khi khởi nghĩa, phụ hoàng thiên vị Bùi Tịch, chức quan của ông ta còn hơn cả Tĩnh thúc, thế mà nay lại còn dồn Tĩnh thúc vào chỗ chết, nếu chỉ vì vì đối phó với Lý Thế Dân này, phụ hoàng đã quá nhẫn tâm!”
Từ Tử Lăng trầm giọng: “Lệnh tôn buộc huynh mưu phản để trị tội chết của huynh.”
Lý Thế Dân giật mình ngẩng đầu.
Từ Tử Lăng nói tiếp: “Thế Dân huynh chẳng phải nói về Trường An sẽ làm rõ hết mọi chuyện với lệnh tôn sao? Có làm như thế không?”
Lý Thế Dân nhìn chằm chặp vào Từ Tử Lăng, nhìn mà cứ như không nhìn, chầm chậm gật đầu.
Từ Tử Lăng nói: “Hôm nay ta nói với Thế Dân huynh như thế chẳng khác gì đề nghị đại nghịch bất đạo, mục đích chỉ có một, đó chính là tránh để Trung nguyên lại rơi vào đại họa chia cắt, ngoại khấu xâm lăng! Nếu Thế Dân huynh gật đầu chấp nhận, mục đích là vì không phải sự vinh nhục hay sinh tử của cá nhân mà vì hạnh phúc cho muôn dân thiên hạ. Vận mệnh tương lai của Trung nguyên nằm trong một suy nghĩ của Thế Dân huynh.”
Lý Thế Dân hai mắt hồi phục thần thái, cất tiếng hỏi: “Vấn đề của Tống Khuyết làm sao giải quyết?”
Từ Tử Lăng đáp: “Trước tiên ta thuyết phục Khấu Trọng, rồi lại tìm cách. Thế Dân huynh hãy bày tỏ quyết tâm trước đã.”
Lý Thế Dân ngẩn ra nhìn gã.
Tiếng bước chân vang lên, Lý Tịnh vội vàng chạy đến, thi lễ bẩm cáo: “Tề vương, Hoài An Vương và Lý Nghệ tổng quản bại trận dưới tay Lưu Hắc Thát ở Nhiêu Dương, năm vạn người chỉ còn lại hơn một vạn người chạy về U Châu. Hoàng thượng triệu Tần vương lập tức vào cung kiến giá”. Lý Thế Dân giật mình, nắm lấy vai Từ Tử Lăng nói: “Có tin tức gì xin hãy đến gặp ta!”
Nói xong cùng Lý Tịnh lật đật bỏ đi.
Từ Tử Lăng bớt đi một nửa tâm sự, nhưng gánh nặng và áp lực vẫn tăng lên chứ không giảm. Gã vẫn không biết mình nên khuyên Khấu Trọng thế nào, để hắn bỏ đi đại kế làm hoàng đế!
o O o
Khấu Trọng ngồi trong phòng đọc các loại văn kiện, các kiểu ban lệnh, truyền lệnh mà tối tăm mặt mũi. Gã không nhịn được quay sang quay sang Hư Hành Chi đang đứng bên cạnh mà cười khổ: “Hành Chi có thể giả chữ ký của ta, như vậy ta sẽ bớt nhiều công sức, hoặc ta chỉ cần ký chứ không phải duyệt lại... Ta thà xung phong đi đánh trận, chứ chẳng ngờ chuyện này lại vất vả như thế?”
Hư Hành Chi mỉm cười: “Nét chữ của Thiếu soái như rồng bay phượng múa, lực thấu qua giấy, người khác không thể nào mô phỏng được, ta làm sao làm được. Muốn trị vì một đất nước, tuy có thể ra lệnh cho thuộc hạ làm, nhưng ít nhất cũng phải hiểu rõ công việc, thì như vậy mới biết ai chấp hành tốt và ai làm việc không tốt.”
Khấu Trọng bật cười: “Ngươi đừng dỗ dành ta. Cả bản thân ta cũng cảm thấy chữ ký của mình chẳng đẹp mắt tí nào.”
Hư Hành Chi thản nhiên nói: “Điều này không thành vấn đề. Chỉ cần là chính tay Thiếu soái ký, đó là mệnh lệnh cao nhất của Thiếu Soái quốc.”
Khấu Trọng cười khổ: “Chắc chắn là chữ ký của ta chẳng giống ai, Hành Chi hãy cứ thẳng thắn.”
Hư Hành Chi khéo léo nói: “Ta không có ý này. Chữ ký của Thiếu soái rất đặc biệt, hơn nữa chính tay Thiếu soái ký, bất cứ khuyết điểm nào cũng trở thành ưu điểm.”
Rồi hắn lại nói tiếp: “Hành Chi có việc muốn nhờ Thiếu soái xem xét. Chuyện này thực ra Hành Chi chỉ nói giùm người trên dưới Thiếu Soái quốc.”
Khấu Trọng ngạc nhiên: “Có việc gì mà quan trọng đến thế?” Hư Hành Chi đáp: “Bây giờ thời cơ đã chín mùi, toàn thể tướng sĩ Thiếu Soái quốc trên dưới một lòng, khẩn xin Thiếu soái lập tức xưng đế.”
Khấu Trọng giật mình, hoang mang: “Việc này hãy đợi bình định miền Nam xong rồi tính.”
Hư Hành Chi định nói gì nữa, nhưng Tống Lỗ chợt bước vào, tạm thời giải vây cho Khấu Trọng.
Khấu Trọng đứng dậy chào hỏi, ngồi xuống xong xuôi thì Tống Lỗ lên tiếng: “Đã nhận được tin của miền bắc, Lưu Hắc Thát đại phá Thần Thông, Nguyên Cát ở Nhiêu Dương, thanh oai đại chấn, ngày càng có nhiều người đi theo. Quan Châu, Mao Châu đều đã đầu hàng. Cao Khai Đạo người vốn đã đầu hàng nhà Đường cũng công nhiên phản Đường, xưng là Yến Vương. Cựu binh sĩ của Kiến Đức ở các nơi tranh nhau giết quan phủ để hưởng ứng Lưu Hắc Thát. Bây giờ Lưu quân đang đánh Tông Thành ở Hà Bắc, nếu Tông Thành không giữ được, e rằng Lý Đường sẽ mất Tương Châu, Vệ Châu. Như vậy thì Lưu Hắc Thát có thể lấy lại được vùng biên giới cũ Đại Hạ của Kiến Đức.”
Khấu Trọng biến sắc nói: “Lý tiểu tử không có mặt thì trong quân Đường có ai nắm giữ đại cuộc?”
Tống Lỗ đáp: “Thần Thông, Nguyên Cát đã trở thành bại tướng, trước mắt Hà Bắc chỉ có cánh quân Lý Thế Huân mới đủ sức chống chọi, nhưng Tông Thành phòng ngự yếu đuối, mỏng manh, rất dễ bị cô lập. Theo ta thấy Lý Thế Huân chắc chắn không giữ được đâu.”
Khấu Trọng gật đầu: “Không những chẳng giữ được mà còn sẽ đại bại. Chẳng những ta vì có lòng tin với Lưu đại ca, mà còn là vì chuyện Lý Thế Dân bị triệu về kinh, số phận khó đoán, cho nên lòng quân sẽ dao động. Như vậy Lý Thế Huân làm sao lại không bại?”. Hư Hành Chi gật đầu đồng ý.
Tống Lỗ thở dài: “Vậy rốt cuộc chúng ta và Lưu Hắc Thát có mối quan hệ như thế nào?”
Khấu Trọng trả lời với mười phần tin tưởng: “Chúng ta sẽ mau chóng rõ thôi. Lúc mà Lưu đại ca đã lấy lại đất cũ của Đại Hạ, chắc chắn sẽ sai người đến liên lạc với chúng ta để bày tỏ tâm ý.”
Tống Lỗ trầm giọng: “Ta hiểu tình cảm giữa hai người rất sâu sắc, nhưng lòng người khó đoán, hơn nữa Lưu Hắc Thát không còn là đại tướng dưới tay người khác, mà là lãnh tụ tối cao của những người đi theo hắn. Hắn không thể hành sự theo ý riêng của mình mà là phải suy xét đến đại cuộc.”
Hư Hành Chi đứng phía sau Khấu Trọng lên tiếng: “Chỉ cần xem Lưu Hắc Hác đánh lui Lý Thế Huân xong rồi có xưng vương xưng đế hay không thì có thể biết được tâm ý của hắn.”
Tống Lỗ khen: “Hành Chi nói có lý.”
Khấu Trọng thấy lòng mình chùng xuống, nghĩ đến tình cảnh của mình, thầm nghĩ một khi mình hạ lệnh cho toàn quân đầu hàng Lưu Hắc Thát, thì Thiếu Soái quân không lập tức chia năm sẻ bảy thì mới là lạ.
Gã cười khổ: “Chuyện này tạm thời khoan hãy nghĩ tới. Sự thật thì Lưu đại ca đã cứu Lý Thế Dân một mạng, bởi vậy Lý Uyên không còn sự lựa chọn nào khác, chỉ đành phải phái Lý Thế Dân ra quan ải nghênh chiến.”
Hư Hành Chi nói: “Lý Uyên ép Lý Thế Dân trở về Trường An, thật sự đã là sai lầm, không những đã xem thường Lưu Hắc Thát mà còn ảnh hưởng đến lòng quân.”
Tống Lỗ mỉm cười: “Lý Uyên chỉ là thẹn quá hóa giận. Các quí phi của y đều dòm ngó kỳ trân dị bảo ở Lạc Dương, van nài Lý Uyên ban cho bọn chúng. Nào ngờ Tần vương đã đi trước một bước, đã ban thưởng hết của cải cho những người lập công trong trận chiến Lạc Dương, mà chủ yếu lại là người trong phủ Tần vương. Chuyện này khiến Lý Uyên rất bực mình cho nên mới có những chuyện sau này.”
Khấu Trọng kinh ngạc hỏi: “Sao Lỗ thúc có thể biết mọi chuyện xảy ra trong cung Đường vậy? Dù cho có thám tử, theo lẽ bọn chúng cũng không biết được những nội tình như vậy.”
Tống Lỗ nhìn Hư Hành Chi một cách sâu sắc rồi đáp: “Bởi vì trong số đại thần của nhà Đường có nội ứng của chúng ta.”
Khấu Trọng giật mình: “Ai vậy?”
Hư Hành Chi biết ý liền nói: “Hành Chi có việc phải cáo lui.”
Khấu Trọng giơ tay ngăn lại: “Hành Chi không cần thối lui, ta và Lỗ thúc tuyệt đối tin tưởng ngươi.”
Tống Lỗ vội giải thích: “Chúng ta đều là người nhà, có việc gì mà không thể nói rõ. Người này chính là Phong Đức Di.”
Khấu Trọng trố mắt há miệng, đồng thời trong lòng chợt hiểu ra. Chẳng trách chút nào hành vi của Phong Đức Di lại kỳ lạ đến vậy, đã đứng về phía Lý Kiến Thành mà lại đặc biệt lo lắng cho Từ Tử Lăng. Chuyện Dương Văn Can làm loạn là do Lý Kiến Thành phụ trách, mà y còn vì Lý Kiến Thành mà mạo hiểm cầu tình.
Tống Lỗ giải thích: “Phong Đức Di và đại ca đã có giao tình thắm thiết, đều là chí đồng đạo hợp, có lòng chấn hưng Hán tộc.”
Rồi lão lại tiếp: “Lý Uyên buộc Lý Thế Dân về kinh, đương nhiên gây nên những hậu quả bất lợi cho Lý Đường, chẳng hạn những tướng lãnh lúc đầu theo Vương Thế Sung sau này đầu hàng nhà Đường đều xôn xao. Đại tướng trấn giữ Thọ An Trương Trấn Châu đã từng sai người bí mật đến gặp Bạt Dã Cương, nói rằng khi Thiếu soái tấn công vào Lạc Dương, y sẽ cất binh phản Đường hưởng ứng. Theo ta thấy cựu bộ hạ của Vương Thế Sung không thiếu những người có lòng này.”
Khấu Trọng từ Trương Trấn Châu chợt nhớ đến Dương Công Khanh, nghĩ đến di nguyện trước khi lâm chung của ông ta, cảm động: “Ta nhất định sẽ giết Lý Kiến Thành!”
Tống Lỗ và Hư Hành Chi đưa mắt nhìn nhau, không hiểu tại sao Khấu Trọng chợt nói ra câu đó.
Khấu Trọng thấy thần tình trong mắt hai người thế, biết mình đã lỡ lời, hỏi rằng: “Tình hình phía Lương Sư Đô như thế nào?”
Tống Lễ ung dung trả lời: “Lương Sư Đô nhờ có người Đột Quyết chống lưng, nhưng bản thân không đáng ngại. Y đã từng nhiều lần xâm chiếm miền nam, bị quân Đường đánh lui, thảm nhất là một lần đánh Diên Châu, bị tướng giữ Diên Châu Đoàn Đức Thao đại phá, Lương Sư Đô chỉ còn lại hơn trăm người phá vòng vây mà bỏ chạy. Nhưng có một tin tức chưa được chứng thực, có lẽ sẽ ảnh hưởng rất sâu xa.”
Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Tin tức gì?”
Tống Lỗ đáp: “Lưu Vũ Châu và Tống Kim Cương đều bị Hiệt Lợi hạ độc thủ hại chết.”
Khấu Trọng lạc giọng: “Cái gì?”
Gã nhớ lại mối giao tình với Tống Kim Cương trước đây, trong lòng không khỏi đau buồn.
Tống Lỗ nói: “Từ xưa đến nay, chim hết thì bẻ cung. Bây giờ Lương Sư Đô đã trở thành tay sai chủ yếu của người Đột Quyết ở Trung nguyên, mà Lương Sư Đô vì muốn giữ mạng, chắc chắn sẽ bợ đỡ người Đột Quyết nhiều hơn, do vậy chỉ nghe lời Hiệt Lợi, trong tình thế này, chắc chắn Hiệt Lợi sẽ xâm chiếm Trung nguyên.”
“Bình!”
Khấu Trọng vỗ chưởng lên bàn, hai mắt sáng rực: “Ta dám đảm bảo Hiệt Lợi sẽ không bỏ qua thời kỳ băng phong này, thông qua Hương gia hắn nắm mọi chuyện ở Trung nguyên như bàn tay. Nếu bỏ qua thời cơ có một không hai này, Hiệt Lợi nhất định sẽ hối hận.”
Hư Hành Chi nói: “Chỉ cần có Lý Thế Dân thì e rằng người Đột Quyết không dễ ngang ngược.”
Khấu Trọng lắc đầu: “Đừng đánh giá thấp Hiệt Lợi. Nếu ta là hắn, sẽ nhân lúc thời kỳ băng phong vừa kết thúc, lúc chúng ta xua quân lên miền Bắc, khiến Lý Thế Dân cố thủ ở Lạc Dương, thì hắn sẽ xua quân xâm nhập, xem Trung thổ như đại thảo nguyên, tránh nặng lấy nhẹ, không tấn công bất cứ thành trì nào, chỉ cướp đoạt ở những làng mạc không có sức chống cự, lấy chiến nuôi chiến, sau đó mới đánh thẳng đến Trường An. Lúc đó sẽ đưa Lương Sư Đô lên ngôi vua kiến lập Ngụy triều, làm loạn Trung thổ của ta.”
Tống Lỗ gật đầu đồng ý: “Rất có khả năng này.”
Khấu Trọng nói: “Còn một cách khác là chia binh đánh xuống miền Nam, lần lượt lấy các thành hai bên Đại Hà. Điều kiện tiên quyết của cách này là trước tiên hại chết Lý Thế Dân, đáng tiếc cuộc khởi nghĩa của Lưu đại ca phá hoại kế hoạch của Hiệt Lợi.”
Tống Lỗ nhíu mày: “Dù Hiệt Lợi dùng cách nào, chúng ta cũng rất khó đối phó.”
Khấu Trọng nghĩ đến Đột Lợi, buồn bã nói: “Chúng ta chỉ đành đi bước nào tính bước đó, không thể tự loạn trận cước. Năng lực của ta có hạn, những chuyện không nghĩ ra, nhất thiết phải đợi bình định miền Nam rồi tính tiếp.”
Tiếng gót ngựa của quân Đột Quyết bỗng như phảng phất trong tai. Gót sắt đến đâu, nơi đó sẽ không còn bình yên nữa.
- o O o -
HỒI 708
Đại Trị Tam Yếu
Từ Tử Lăng đưa tay định gõ cửa, một giọng nữ dịu dàng vang lên bên tai: “Cửa không cài then, xin mời quí khách cứ tự nhiên.”
Từ Tử Lăng giật mình. Gã hoàn toàn không thể cảm nhận được ngoài sân Ngọc Hạc am đang có người, mà giọng nói đó chắc chắn không phải của trụ trì Thường Thiện ni, vậy thì ai đây? Đương nhiên chẳng phải là hạng tầm thường. Gã đến Ngọc Hạc am chỉ mong muốn có thể gặp được Sư Phi Huyên, dù cho khả năng ấy có mong manh đi nữa nhưng dù sao cũng có thể dò hỏi hành tung của Sư Phi Huyên. Tìm không được nàng, gã cũng có thể cho nàng biết mình đang tận lực và hết sức mong muốn được gặp nàng.
Gã đẩy cửa bước vào Ngọc Hạc am. Trong sân có bảy tám đống tuyết, cành cây ngọn cỏ trong sân đều trĩu nặng tuyết, một màu trắng bạc giăng giăng khắp am vắng.
Bên cạnh một đống tuyết to như quả đồi nhỏ có một nữ ni bình phàm mắt thanh mày tú, mình mặc áo bông màu xám, tay cầm xẻng xúc tuyết nhẹ nhàng bước tới, thản nhiên nhìn gã.
Từ Tử Lăng tiếp xúc với ánh mắt của nữ ni, trong lòng dâng lên cảm giác kỳ dị khó hình dung được, giống như tiếp xúc với một thế giới tâm linh thần thánh vô biên không thể đo lường nổi.
Nữ ni ấy nhìn khoảng ba mươi tuổi, nhưng vẻ mặt hờ hững như đã nhìn rõ thế tục, có vẻ như không còn bất cứ thứ gì trên đời có thể khiến cho nàng động lòng nữa.
Cái đầu trọc lóc càng làm nổi bật khuôn mặt xinh xắn tuyệt trần của nàng, khiến người ta quên cả lòng phàm tục, tựa như chẳng hề nhớ đến thế giới bên ngoài nữa, không gợn trong lòng một chút hành vi bất kính nào đối với nàng.
Từ Tử Lăng giật mình, cung kính thi lễ: “Xin hỏi sư thái xưng hô thế nào?”
Nữ ni nhẹ nhàng đặt cái xẻng xúc tuyết xuống, chắp tay hoàn lễ: “Nếu bần ni đoán không sai, vị này nhất định là Từ Tử Lăng thí chủ, đến đây muốn tìm tiểu đồ Phi Huyên.”
Từ Tử Lăng chấn động: “Thì ra là Phạm Trai Chủ.”
Phạm Thanh Huệ khẽ niệm một tiếng Phật hiệu rồi nói: “Xin mời Tử Lăng theo bần ni!”
o O o
Một bóng người lướt vào như một cơn gió, nhảy chồm lên vai Khấu Trọng, đó chính là Tiểu Hạc Nhi đang cải dạng nam trang, nũng nịu nói: “Tiểu Hạc Nhi phải theo đại ca đến Giang Đô.”
Khấu Trọng tạm ngừng công việc thẩm duyệt sắc lệnh khiến gã khổ não, than rằng: “Muội tưởng ta đi du sơn ngoạn thủy đó sao?”
Tiểu Hạc Nhi không chút khách khí, ngồi xuống trước mặt gã cười nũng nịu: “Đại ca du sơn ngoạn thủy chớ gì nữa. Đâu phải người ta lần đầu tiên lên chiến trường, biểu hiện chuyến trước cũng không tệ mà! Chí ít cũng không cản trở đại ca, còn chịu trách nhiệm chiếu cố bảo bối vô danh cho đại ca.”
Khấu Trọng nhún vai cười: “Muội cứ đòi đi đây đó thì ta cho muội đi đã luôn.”
Tiểu Hạc Nhi vui sướng nhảy lên reo: “Thành công rồi, thắng trận rồi. Muội phải đi báo cho Huyền Thứ công tử.”
Trước khi nàng ra ngoài, Khấu Trọng nhìn nàng cười nói: “Tại sao muội tự gọi mình là Tiểu Hạc Nhi?”
Tiểu Hạc Nhi hơi giật mình, khẽ hỏi: “Đại ca không thích cái tên này sao?”
Khấu Trọng cả cười trêu chọc: “Chân của tiểu muội tử còn dài hơn cả nam nhi, chẳng khác gì con hạc đứng ngạo nghễ giữa bầy gà, ta không những thích gọi là Tiểu Hạc Nhi mà còn cảm thấy tự hào vì có tiểu muội tử như thế này.”
Tiểu Hạc Nhi quay người đi, khẽ nói: “Đại ca là người tốt bụng nhất trên đời.”
Nói xong chạy ào ra ngoài.
Khấu Trọng dâng lên trong lòng cảm giác khó giải thích, y như bắt trúng được một thứ gì đó nhưng lại không thể nói ra được.
Ý nghĩ chỉ thoáng qua rồi gã phải quay trở về án thư với những công văn thư từ đầy như núi.
o O o
Phạm Thanh Huệ liếc nhìn Từ Tử Lăng hớp một ngụm trà rồi từ tốn nói: “Kẻ làm sư phụ này cũng chẳng biết đồ nhi đi đâu. Ngoại trừ Ngọc Hạc am, nơi có thể tìm ra nó là thiền viện của Liễu Không sư huynh ở gần Lạc Dương.”
Từ Tử Lăng ngồi ở một trong những chiếc ghế sắp ở hàng phía nam bên tay trái của bà, trong tri khách thất bốn mặt đều sắp xếp ghế, gã không dám mạo phạm vị lãnh tụ tối cao của huyền môn này cho nên cố ý ngồi xa một chút. Từ vị trí của gã nhìn đi, vẻ mặt thánh thiện cao với của Phạm Thanh Huệ như hòa cùng với cảnh tuyết ở ngoài cửa, chẳng hề nhuốm chút bụi trần.
Phạm Thanh Huệ hơi lộ vẻ buồn bã, rồi giọng bà trầm hẳn: “Có phải thí chủ trách những người xuất gia như chúng ta lòng trần vẫn chưa dứt không? Chúng ta thật sự có nỗi khổ bên trong, từ thủy tổ Địa Ni sáng lập môn phái đến nay đã đặt ra pháp quy, rằng những người tu luyện kiếm phải nhập thế hành hiệp ba năm, bởi vậy bọn ta mới bị cuốn vào thế sự đầy phong ba, không thể tự rút ra được. Có người còn tưởng bọn ta có ý thao túng quốc gia, đó là một điều lầm lẫn. Nếu thí chủ có điều gì bất bình cứ nói ra, đừng kiêng dè vì ta là sư phụ của Phi Huyên. Chúng ta xem như là người một nhà phải không?”
Từ Tử Lăng nghe thế liền trố mắt há hốc miệng. Trước đó mặc dù gã nghĩ đến vỡ đầu cũng không ngờ Phạm Thanh Huệ lại là một vị trưởng giả dễ chịu thân thiết đến vậy, chẳng hề tỏ vẻ mình là một vị trai chủ cao vời.
Gã bất giác cười khổ: “Trai chủ không phải xem ta là một hộ pháp sơn môn như Phi Huyên đấy chứ?”
Ngọc dung của Phạm Thanh Huệ vẫn không đổi, nhìn gã hỏi: “Tử Lăng có biết hộ pháp sơn môn của bọn ta là ai không?”
Từ Tử Lăng ngơ ngác lắc đầu.
Phạm Thanh Huệ dịu dàng nói: “Chính là người đã truyền cho ngươi Chân Ngôn đại pháp, chính là Chân Ngôn đại sư.”
Từ Tử Lăng ngạc nhiên không biết đối đáp ra sao.
Phạm Thanh Huệ đưa mắt nhìn ra mảnh vườn đầy tuyết trắng phía đối diện, bình thản giải thích: “Hộ pháp sơn môn không cần phải là người tinh thông võ công. Chân Ngôn đại sư phật pháp tinh tường, thiền cảnh siêu thâm, trước khi nhập tịch đã truyền cho ngươi Chân Ngôn ấn quyết, thực ra là có thâm ý, bọn hậu bối như ta không thể nào đoán được duyên phận nhân quả huyền diệu trong đó. Mà bọn ta có quy củ bất thành văn, rằng sơn môn hộ pháp đời tiếp theo là do hộ pháp đời trước tuyển lựa. Trước khi Chân Ngôn đại sư nhập tịch, đã nói cho Phi Huyên biết là đã chọn lựa hộ pháp, cho nên mới cho rằng ngươi là hộ pháp sơn môn kế nhiệm. Song mặc dù Tử Lăng không nhận thân phận này, bọn ta cũng chẳng có ý kiến gì. Nếu Tử Lăng sau này không chọn người kế nhiệm cho mình, như vậy truyền thống chọn sơn môn hộ pháp sẽ biến mất, nhưng như vậy cũng chẳng sao!”
Từ Tử Lăng cuối cùng cũng hiểu ra, trong lòng dâng lên cảm giác khó tả. Năm xưa Chân Ngôn đại sư truyền pháp cho mình, xem ra có vẻ vô tình, nhưng thực sự ẩn chưa huyền cơ không ai có thể lý giải nổi.
Phạm Thanh Huệ lộ thần sắc bất lực, khẽ ngậm ngùi nói: “Nghe Phi Huyên nói, Tử Lăng không chịu tha thứ vì nó dốc hết sức giúp đỡ Lý Thế Dân chứ không phải Khấu Trọng.”
Từ Tử Lăng đáp: “Đó là chuyện lúc trước, hôm nay tại hạ đã hiểu ngọn nguồn.”
Phạm Thanh Huệ đưa mắt nhìn gã, dịu dàng nói: “Doanh Chính và Dương Kiên đều là những hoàng đế thống nhất đất nước từ cảnh chia năm xẻ bảy về một mối, nhưng cũng trải qua hai đời mà dứt. Có thể họ tuy có ‘thiên hạ chi chí’, nhưng lại thiếu ‘thiên hạ chi tài’ hoặc là thiếu ‘thiên hạ tri hiệu’”
Từ Tử Lăng khiêm nhường hỏi: “Dám mong trai chủ ban dạy.”
Phạm Thanh Huệ hai mắt sáng lên ánh trí tuệ, giải thích: “Thiên hạ chi chí có nghĩa là chí hướng và thực lực thống nhất và trị vì thiên hạ. Thiên hạ chi tài có nghĩa là có tài năng trị vì thiên hạ, thiên hạ chi hiệu là hiệu quả đại trị thiên hạ. Tần Thủy Hoàng có thiên hạ chi chí, nhưng sau khi thống nhất sáu nước không biết lấy cái nhân để vỗ yên đất nước mà dùng thủ đoạn trấn áp để đối phó nhân dân, khiến nhân dân nổi dậy. Sau khi Dương Kiên lên ngôi thực hiện cải cách mạnh mẽ, mở ra thời thịnh thế, sau đó dần dần tiến tới đạp bằng miền nam, quả đúng là bậc hùng tài đại lược. Lúc đó trong thiên hạ chỉ có một mình Tống Khuyết có thể đối phó với y, nhưng Tống Khuyết tự phụ, vẫn ẩn mình ở Lĩnh Nam, chịu sự sắc phong của y. Nhà Tùy của họ Dương vốn đã có thành công, nhưng đáng tiếc lại bại trong tay Dương Quảng, đó là vì tại sao?”
Từ Tử Lăng gật đầu đồng ý: “Phi Huyên chọn Thế Dân huynh chính vì y không những có thiên hạ chi chí, thiên hạ chi tài còn có cả thiên hạ chi hiệu.”
Phạm Thanh Huệ khẽ thở dài: “Bọn ta đâu có tư cách chọn lựa minh quân cho tương lai, chỉ mong có thể góp chút công sức giúp cho bá tánh bớt khổ. Bây giờ thời cơ thống nhất thiên hạ không phải nằm trong tay Tần vương thì ở Tử Lăng và Thiếu soái, quyết định chỉ do một ý nghĩ của các người.”
Từ Tử Lăng than rằng: “Không giấu gì trai chủ, nếu là trước đây tại hạ không thể nghe được những lời này, nhưng bây giờ trong tình thế trong loạn ngoài giặc, tại hạ mới hiểu được nỗi lo của trai chủ. Lúc nãy tại hạ đã gặp Tần vương, nói rằng chỉ cần y chịu lấy thiên hạ làm đầu, gia tộc làm thứ, ta sẽ dốc hết sức mình khuyên Khấu Trọng giúp y lên ngôi.”
Phạm Thanh Huệ không hề tỏ ra bất ngờ, chỉ để lộ một chút niềm vui hiếm hoi trên ngọc dung, rồi gật đầu nói: “Hảo đồ nhi của ta không nhìn nhầm Tử Lăng.”
Tử Lăng cười khổ: “Nhưng tại hạ tỉnh ngộ ra thì hình như đã quá muộn, bây giờ Thiếu Soái quân sắp đánh nhau với dại Ðường, xung đột không thể không phát ra. Tại hạ không biết có ngăn chặn được hay không!”
Phạm Thanh Huệ buồn bã: “Tử Lăng muốn nói đến Tống Khuyết phải không?”
Từ Tử Lăng gật đầu.
Phạm Thanh Huệ bình tĩnh trở lại, nhẹ nhàng nói: “Ta vừa mới nhận được phi cáp truyền thư của Phi Huyên từ Tịnh Niệm thiền viện gởi về, đạo huynh và Tống Khuyết đều bị thương trong cuộc chiến ở thiền viện.”
Từ Tử Lăng chấn động, lạc giọng kêu lên: “Cái gì?”
Thạch Chi Hiên đã tính rất đúng, một khi Tống Khuyết sa chân vào cuộc chiến tranh thiên hạ, Từ Hàng Tịnh Trai chắc chắn không ngồi nhìn để cho thiên hạ chia năm xẻ bảy. Có điều cả Thạch Chi Hiên cũng không đoán được hành động lúc này của Phạm Thanh Huệ là mời Ninh Đạo Kỳ khiêu chiến Tống Khuyết.
Cuối cùng gã hiểu được tại sao Phạm Thanh Huệ lại lộ ra vẻ buồn bã, bởi vì bà vẫn chưa dứt tình với Tống Khuyết, thực ra bà cũng không muốn làm điều này, đó chỉ là nước cờ nguy hiểm bất đắc dĩ mà thôi. Hai bên đều bị thương là tốt, nếu hai bên đều chết hoặc một bên chết, Phạm Thanh Huệ sẽ mãi mãi chẳng ngẩng mặt lên được.
Phạm Thanh Huệ đưa mắt nhìn ra ngoài cửa, cất giọng buồn bã: “Tống Khuyết hẹn với đạo huynh đánh chín đao, nếu y không thể làm gì được đạo huynh thì sẽ lui ra để mặc cho Khấu Trọng và Lý Thế Dân tranh nhau. Nhưng y không đánh ra đao thứ chín mà vẫn giữ lời lui ra. Chao ôi, trong tình huống này, Tống Khuyết vẫn nghĩ cho Thanh Huệ, khiến ta làm sao không nhớ mãi trong lòng?”
Giả sử Khấu Trọng ở đây, khi biết Phạm Thanh Huệ tuy không có mặt nhưng vẫn tâm ý tương thông, hiểu được tâm ý của Tống Khuyết, thì không biết gã sẽ cảm giác ra sao. Thực ra Ninh Đạo Kỳ vì bỏ qua cơ hội ôm nhau cùng chết với kẻ địch, lọt xuống thế hạ phong, tình huống này thật là bi diệu.
Từ Tử Lăng nghe mà ngơ ngác khó tin, thấy bà có vẻ đau buồn, nhưng lại không dám cất tiếng hỏi. Chuyện này liên quan đến cảm giác giữa nam và nữ, mà cảm giác đó lại xuất hiện ở một vị cao nhân xuất thế, khiến người ngoài không khỏi cảm động.
Phạm Thanh Huệ nhìn gã, chắp tay nói: “Tội lỗi, tội lỗi, vật vật giai chân hiện, đầu đầu tổng bất thương; bổn chân bổn không, vô phi diệu thể.”
Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn bà, không biết nói gì hơn.
Phạm Thanh Huệ trở lại thần thái an nhiên, mỉm cười: “Có phải Tử Lăng đến đây tìm Phi Huyên không?.”
Từ Tử Lăng tỏ vẻ ái ngại: “Tại hạ biết trai chủ không muốn vướng vào nỗi phiền não của thế tục, nhưng có một chuyện đành phải cầu xin trai chủ.”
Phạm Thanh Huệ điềm nhiên nói: “Tử Lăng đừng lo cho ta, có phải muốn ta thuyết phục Tống Khuyết không?”
Từ Tử Lăng sững ra: “Pháp nhãn của trai chủ quả là không sai.”
Phạm Thanh Huệ bình thản nói: “Không gặp vẫn phải gặp, có nhân tức là có quả, ngày Tử Lăng thuyết phục được Khấu Trọng, tạo đại công đức cho mọi người chính là thời cơ ta đến Lĩnh Nam gặp bằng hữu cũ. Tử Lăng hãy đi đi! Hạnh phúc và hòa bình của trăm họ trong thiên hạ đều trong tay ngươi đấy.”
- o O o -
Đại Đường Song Long Truyện Đại Đường Song Long Truyện - Huỳnh Dị Đại Đường Song Long Truyện