Never judge a book by its movie.

J.W. Eagan

 
 
 
 
 
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: Cat Among The Pigeons (1959)
Dịch giả: Võ Hồng Long
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 365 / 56
Cập nhật: 2020-04-04 23:39:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3 - Giới Thiệu Ông Robinson
hoảng sáu tuần sau, một thanh niên thận trọng gõ cửa một căn phòng ở Bloomsbury và được mời vào. Đấy là một căn phòng nhỏ. Trước bàn, một người béo, tuổi trung niên đang ngồi sụp vào ghế. Ông ta mặc bộ vest nhàu nhĩ, vạt trước áo dính đầy tàn thuốc lá. Các cửa sổ đều khép chặt, không khí ngột ngạt.
“Nào?” người béo nói thăm dò, đôi mắt vẫn khép hờ. “Chuyện gì nữa đây?”
Đó là đại tá Pikeaway, mắt ông như đang buồn ngủ, hay kiểu mới mở mắt sau khi ngủ. Người ta còn bảo tên ông không phải Pikeaway, và rằng ông không phải đại tá. Nhưng điều tiếng thiên hạ thì đủ loại!
“Edmundson ở Bộ Ngoại giao đang có mặt ở đây, thưa sếp.”
“Ô,” Đại tá Pikeaway nói.
Ông chớp mắt, ra vẻ như sắp ngủ tiếp rồi nói.
“Bí thư thứ ba ở Đại sứ quán Ramat hồi Cách mạng. Đúng không?”
“Đúng vậy, thưa sếp.”
“Vậy thì, tôi nghĩ là nên gặp anh ta vậy,” Đại tá Pikeaway nói không tỏ chút gì hứng thú. Ông ngồi thẳng hơn một chút, và phủi tàn thuốc trước bụng.
Edmundson là một thanh niên dáng cao, tóc vàng, ăn vận rất đúng mực, phong thái phù hợp, và toát lên vẻ khó gần.
“Đại tá Pikeaway phải không? Tôi là John Edmundson. Người ta bảo - ừm - ông muốn gặp tôi.”
“Vậy ư? Hẳn là họ biết,” đại tá Pikeaway nói. “Mời ngồi,” ông nói thêm.
Mắt ông bắt đầu khép lại, nhưng trước khi khép mắt, ông nói:
“Anh đã ở Ramat trong lúc xảy ra Cách mạng?”
“Đúng vậy. Một vụ bẩn thỉu.”
“Tôi cũng nghĩ vậy. Anh là bạn của Bob Rawlinson phải không?”
“Vâng, tôi biết cậu ta khá rõ.”
“Đã từng biết thì đúng hơn,” đại tá Pikeaway nói. “Cậu ta đã chết.”
“Vâng, thưa ông, tôi biết. Nhưng tôi không chắc…” anh dừng lại.
“Cậu không cần phải gồng mình thận trọng ở đây,” đại tá Pikeaway nói. “Ở đây chúng ta biết tất cả. Hoặc nếu không biết, thì chúng ta vờ như là biết. Rawlinson lái máy bay chở Ali Yusuf trốn khỏi Ramat vào ngày xảy ra Cách mạng. Không có tin tức máy bay kể từ đó. Hẳn đã hạ cánh vào một nơi không ai tiếp cận được, hoặc có thể đã gặp tai nạn. Đã tìm thấy mảnh vỡ một chiếc máy bay ở núi Arolez. Hai xác người. Tin tức sẽ được công bố cho báo chí vào ngày mai. Đúng không?”
Edmundson thừa nhận tin đó là đúng.
“Ở đây tất cả chúng ta đều biết việc này,” đại tá Pikeaway nói. “Thế nên chúng ta có mặt ở đây. Máy bay lao vào núi. Có thể vì điều kiện thời tiết. Có lý do để tin rằng đấy là âm mưu phá hoại. Bom hẹn giờ. Chưa có báo cáo đầy đủ. Máy bay rơi vào một chỗ không tiếp cận được. Người ta đã treo phần thưởng cho ai tìm thấy, nhưng những chuyện này cần nhiều thời gian mới lọt ra. Vậy nên chúng ta phải cử chuyên gia đến xác minh. Những thủ tục nhiêu khê này, dĩ nhiên. Đề nghị chính phủ nước ngoài, phải được các bộ trưởng cho phép, chuyện bôi trơn - đấy là chưa kể đến việc nông dân địa phương chiếm đoạt những thứ họ thấy có ích.” Ông ngừng lại và nhìn Edmundson.
“Rất buồn, toàn bộ chuyện này,” Edmundson nói. “Quốc vương Ali Yusuf lẽ ra đã là người trị vì khai sáng, với những nguyên tắc dân chủ.”
“Có lẽ vì thế mới đẩy anh chàng tội nghiệp vào cảnh đó,” đại tá Pikeaway nói. “Nhưng chúng ta không thể lãng phí thì giờ mà ngồi kể chuyện buồn về cái chết của những vị vua. Chúng tôi được yêu cầu làm những cuộc điều tra. Bởi các bên liên quan. Các bên, nghĩa là, những người mà Chính phủ giao phó.” Ông dò xét người thanh niên. “Anh hiểu ý tôi chứ?”
“Vâng, tôi có nghe được chuyện gì đó,” Edmundson nói dè dặt.
“Có lẽ anh đã nghe nói rằng, người ta không tìm thấy thứ gì giá trị trên xác của họ, hay trong xác máy bay, hay như tôi biết, người dân địa phương cũng chưa để ý được gì. Nhưng không chắc được, cánh nông dân cũng biết leo núi như các nhân viên Ngoại giao. Anh còn nghe được tin gì nữa?”
“Không gì cả.”
“Anh không nghe rằng có lẽ phải tìm được vật gì giá trị sao? Vậy người ta gọi anh đến chỗ tôi làm gì?”
“Người ta bảo ông muốn gặp tôi để hỏi mấy câu,” Edmundson nói nghiêm nghị.
“Nếu tôi hỏi anh những câu hỏi, thì tôi sẽ trông đợi những câu trả lời,” Đại tá Pikeaway chỉ rõ.
“Hiển nhiên rồi.”
“Anh lại không thấy như thế là hiển nhiên, chàng trai. Bob Rawlinson có kể gì cho anh trước khi anh ta bay khỏi Ramat không? Anh ta là người Ali tin cẩn, nếu ngài có chịu tin ai đó. Nào, nói đi. Anh ta đã nói gì?”
“Về vấn đề gì, thưa ông?”
Đại tá Pikeaway dò xét rồi gãi tai.
“Ô, được rồi,” ông càu nhàu. “Kín mồm kín miệng. Theo ý tôi, vậy là thái quá! Nếu anh không biết tôi đang hàm ý việc gì, vậy thì anh không biết, thế thôi.”
“Tôi nghĩ là có gì đó…” Edmundson nói thận trọng và dè dặt. “Điều gì đó quan trọng mà hẳn Bob muốn nói với tôi.”
“A,” đại tá Pikeaway nói, với vẻ một người cuối cùng đã lôi được cái nút ra khỏi chai. “Thú vị đấy. Thử xem anh biết gì nào.”
“Cũng ít lắm, thưa ông. Bob và tôi có một quy ước đơn giản. Chúng tôi hiểu thực tế là ở Ramat tất cả điện thoại đều bị nghe lén. Bob thì nghe mọi chuyện ở trong cung, còn tôi thỉnh thoảng có chút thông tin hữu ích báo cho cậu ta. Thành ra, nếu chúng tôi gọi cho nhau, và đề cập đến một hay nhiều cô gái, theo một cách nhất định, sử dụng cụm từ ‘trên cả tuyệt vời’ khi nói về cô ấy, nghĩa là có chuyện!”
“Một dạng thông tin quan trọng?”
“Đúng. Bob gọi cho tôi, dùng cụm từ đó, vào đúng hôm xảy ra vụ đình đám. Tôi sẽ gặp cậu ta ở chỗ hẹn quen thuộc - ngoài một ngân hàng. Nhưng bạo loạn nổ ra ở góc phố đó, và cảnh sát phong tỏa con đường. Tôi không thể liên lạc với Bob, cậu ta cũng không liên lạc được cho tôi. Cậu ta chở Ali đi trốn chiều hôm đó.”
“Tôi hiểu,” Pikeaway nói. “Không biết anh ta đứng ở đâu gọi điện sao?”
“Không. Có thể là bất kỳ đâu.”
“Thật tiếc.” Ông dừng lại, rồi nói bâng quơ:
“Anh có biết bà Sutcliffe không?”
“Ý ông là chị gái của Rob Rawlinson? Tôi gặp bà ta ở đó, dĩ nhiên. Bà ấy cùng cô con gái đang là học sinh. Tôi không biết rõ bà ấy.”
“Bà ấy và Bob Rawlinson có thân thiết không?” Edmundson suy xét.
“Tôi không cho là vậy. Bà ấy già hơn cậu ta nhiều, và thích đóng vai bà chị hơn. Và cậu ấy cũng không ưa ông anh rể vì luôn gọi cậu ấy là đầu đất kiêu căng.”
“Vậy đấy! Một nhà công nghiệp xuất chúng - và họ có thể kiêu căng đến thế nào! Vậy cậu không nghĩ rằng có khả năng Bob Rawlinson đã chia sẻ một bí mật quan trọng cho chị gái mình ư?”
“Khó nói lắm - nhưng không, tôi nghĩ là không.”
“Tôi cũng vậy,” đại tá Pikeaway nói.
Ông thở dài. “Ô mà, vậy là bà Sutcliffe và cô con gái đang trên đường về nhà, qua đường biển. Cập cảng Tilbury, trên tàu Eastern Queen, vào ngày mai.”
Ông lặng yên một lát, trong khi con mắt ông dò xét người thanh niên đối diện. Thế rồi, như đã ra quyết định, ông chìa tay ra và nói nhanh.
“Anh đã rất tử tế vì đã đến đây.”
“Tôi lấy làm tiếc vì không giúp được gì. Ông chắc là không cần đến tôi nữa chứ?”
“Không. Không. Tôi e là không.”
John Edmundson đi ra.
Người thanh niên thận trọng kia lại quay vào.
“Tôi đã định cử anh ta đến Tilbury để báo tin cho bà chị gái,” Pikeaway nói. “Một người bạn của em trai bà ta - vậy thôi. Nhưng tôi đã quyết định khác. Anh ta không phải người mềm dẻo. Dân ngoại giao được đào tạo như thế. Không phải kẻ biết nắm cơ hội. Tôi sẽ cử… anh ta tên gì nhỉ?”
“Derek?”
“Đúng vậy,” đại tá Pikeaway gật đầu tán thành. “Anh biết rõ tôi muốn gì đúng không?”
“Tôi sẽ cố hết sức, thưa sếp.”
“Cố gắng thôi không đủ. Anh phải thành công. Trước hết gọi Ronnie cho tôi đã. Tôi có nhiệm vụ cho cậu ta.”
Đại tá Pikeaway sắp sửa ngủ tiếp thì người thanh niên tên Ronnie bước vào phòng. Anh ta dáng cao, tóc đen, người lực lưỡng, có phong thái vui vẻ và hơi thô lỗ.
Đại tá Pikeaway nhìn anh ta một lát rồi nhếch mép.
“Anh có muốn xâm nhập vào một trường nữ sinh không?” ông hỏi.
“Trường nữ sinh ư?” Người thanh niên nhướng mày. “Đấy quả là điều mới mẻ! Nhưng có chuyện gì ở đó. Chế tạo bom trong lớp hóa học sao?”
“Không phải chuyện đó. Một ngôi trường cực kỳ thượng lưu. Meadowbank.”
“Meadowbank!” người thanh niên huýt gió. “Không thể tin nổi!”
“Hãy bỏ cái giọng xấc xược của cậu, và nghe tôi đây. Công nương Shaista, người họ hàng thân cận nhất và duy nhất của Quốc vương Ali Yusuf đã quá cố của Ramat, sẽ đến học ở đó vào kì học này. Cô bé này hiện đang ở một trường tại Thụy Sĩ.”
“Tôi làm gì? Bắt cóc con bé à?”
“Chắc chắn là không. Tôi nghĩ con bé có thể sẽ thành tâm điểm chú ý trong thời gian tới. Tôi muốn cậu để mắt đến các diễn biến. Tôi sẽ nói chung chung. Tôi không biết ai sẽ xuất hiện hay chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng nếu có một người bạn khó chịu nào đó của chúng ta có ý quan tâm đến cô bé, cậu hãy báo cáo lại… Quan sát và báo cáo, đấy là việc của cậu.”
Người thanh niên gật đầu.
“Làm sao tôi lọt vào đó mà quan sát? Tôi sẽ làm giáo viên dạy vẽ sao?”
“Giáo viên ở đấy toàn là nữ.” Đại tá Pikeaway nhìn anh ta, vẻ suy xét. “Tôi nghĩ sẽ để anh làm vườn.”
“Làm vườn ư?”
“Đúng. Tôi cho rằng cậu biết chút ít việc làm vườn?”
“Đúng, quả có vậy. Hồi trước, tôi đã có một năm giữ mục Vườn của bạn trên tờ Sunday Mail.”
“Mẹ kiếp!” đại tá Pikeaway nói. “Thế thì làm ăn gì! Tôi cũng có thể giữ mục làm vườn mà chẳng cần biết tí gì về việc này cả - chỉ cần cóp nhặt vài cuốn catalogue Nurseryman và một bộ Bách khoa thư Làm vườn là được. Tôi biết hết những câu nghe kêu như mõ. ‘Tại sao năm nay bạn không phá bỏ truyền thống và làm cho khu vườn của mình mang sắc thái nhiệt đới thực sự? Cây Amabellis Gossiporia dễ thương, và một giống cây mới, tuyệt vời của Trung Quốc, có tên Sinensis Maka. Hãy thử vẻ đẹp hồng thắm của bụi Sinistra Hopaless, không khó trồng lắm, nhưng sẽ hợp với bức tường phía tây.’”Ông dứt lời và nhếch mép. “Chả có gì cả! Bọn khờ khạo mua mấy thứ đó và mấy con ếch sẽ chui vào làm chết đám cây ấy, rồi họ lại ước giá như cứ trồng cây quế trúc và lưu ly! Không, chàng trai ạ, ý tôi là biết việc thực kia. Nhổ nước bọt vào tay, và dùng thuổng, quen với mấy đống phân, cần mẫn ủ cho cây, đánh luống cho cây đậu hoa - và tất cả những chuyện khác của cồng việc khó chịu này. Cậu làm được không?”
“Tất cả những việc này tôi đã làm từ bé rồi!”
“Dĩ nhiên nhỉ. Tôi biết mẹ của cậu. Vậy là chốt nhé.”
“Có chân việc làm vườn nào trống ở trường Meadowbank không?”
“Chắc chắn phải có,” đại tá Pikeaway nói. “Mọi khu vườn ở Anh đều thiếu người làm. Tôi sẽ viết cho cậu mấy nhận xét hay ho. Cậu sẽ thấy, người ta sẽ nhảy bổ vào cậu. Đừng phí thì giờ nữa, kì học hè khai giảng ngày 29 này.”
“Tôi làm vườn và để mắt quan sát, phải vậy không?”
“Đúng thế, và nếu có nữ sinh quá khích nào tìm đến cậu, mong Thượng đế giúp cậu biết ứng phó ra sao. Tôi không muốn cậu bị tống cổ ra khỏi chỗ đó quá sớm.”
Ông lấy một tờ giấy đưa cho anh ta. “Cậu thích tên là gì?”
“Adam có vẻ phù hợp.”
“Họ?”
“Eden thì sao?”
“Tôi không chắc là tôi ưa kiểu suy nghĩ của cậu. Adam Goodman sẽ là một cái tên hay. Giờ cậu cùng Jenson viết tiểu sử cho cậu ngay đi.” Ông nhìn đồng hồ. “Tôi không còn thời gian cho cậu nữa. Tôi không muốn ông Robinson phải đợi. Giờ này ông ta hẳn đã tới đây rồi.”
Adam (theo tên mới của anh ta) dừng lại khi đến cửa. “Robinson ư?” anh ta tò mò hỏi. “Ông ta đang đến sao?”
“Phải.” Chuông trên bàn đổ tiếng. “Ông ta đến rồi. Luôn đúng giờ, tay Robinson này.”
“Cho tôi biết được không,” Adam tò mò nói. “Thực sự ông ta là ai? Tên thật của ông ta là gì?”
“Tên ông ta,” đại tá Pikeaway nói, “là Robinson. Tôi chỉ biết thế, và mọi người chỉ biết có vậy.”
Người bước vào trông chẳng ứng với tên. Dễ liên tưởng ông tên Demetrius, hay Isaacstein, hay Perenna. Ông ta không hẳn giống người Do Thái, hay người Hi Lạp, hay người Bồ Đào Nha hay Tây Ban Nha, hay Nam Mỹ. Khó lòng cho rằng đó là người Anh tên Robinson. Ông ta béo, ăn mặc chỉn chu, khuôn mặt vàng, cặp mắt đen u buồn và vầng trán cao, khuôn miệng rộng phô hàm răng trắng. Bàn tay rất đẹp, và được chăm sóc cẩn thận, ông ta nói tiếng Anh, không dấu vết phương ngữ.
Ông ta và đại tá Pikeaway chào nhau trịnh trọng như hai vua tương kiến. Những lời lịch sự được trao gửi.
Rồi, khi ông Robinson nhận lấy điếu thuốc, đại tá Pikeaway nói.
“Ông thật tử tế khi đề nghị giúp chúng tôi.”
Ông Robinson châm lửa, trân trọng thưởng thức, rồi cuối cùng nói.
“Ông bạn thân mến. Tôi vừa nghĩ - tôi nghe được những chuyện, ông biết đấy. Tôi quen biết nhiều người, và họ kể cho tôi nghe nhiều chuyện. Tôi không biết tại sao.”
Đại tá Pikeaway không bình luận về nguyên do.
Ông nói:
“Theo tôi hiểu thì ông đã biết tin đã tìm thấy máy bay của Quốc vương Ali Yusuf?”
“Thứ Tư tuần trước,” ông Robinson nói. “Phi công là Rawlinson. Một chuyến bay khó. Nhưng tai nạn không phải do lỗi của Rawlinson. Máy bay đã bị phá hoại - bởi một tay tên Achmed nào đó, vốn là thợ cơ khí lâu năm. Nhưng hắn ta thì không chết. Giờ hắn có một công việc hái ra tiền ở chế độ mới.”
“Vậy là có âm mưu! Chúng tôi không biết chắc chuyện đó. Một câu chuyện buồn.”
“Vâng. Chàng trai tội nghiệp - ý tôi là Ali Yusuf- không hề được chuẩn bị để đối phó với nạn tham nhũng và chuyện mưu phản. Kiến thức học được ở trường không ích gì - ít nhất đó là quan điểm của tôi. Nhưng giờ chúng ta không băn khoăn về anh ta nữa phải không? Anh ta là chuyện quá khứ rồi. Không có cái chết nào như cái chết của một vị vua. Chúng ta quan tâm, ông quan tâm theo cách của ông, và tôi theo cách của tôi, đến những gì nhà vua để lại.”
“Nghĩa là?”
Ông Robinson nhún vai.
“Một số dư tài khoản khổng lồ ở Thụy Sĩ, một số dư khiêm tốn ở London, những tài sản đáng kể ở nước ông ta giờ đây đã bị chế độ mới vinh quang tiếp quản (Chuyện chia chác không mấy vui vẻ,, tôi nghe nói vậy!), và cuối cùng một món đồ cá nhân nho nhỏ.”
“Nhỏ ư?”
“Mấy chuyện này có liên quan đấy. Dù sao, nhỏ theo nghĩa kích thước. Dễ dàng mang theo người.”
“Chúng không có trên người Ali, như chúng ta biết.”
“Hẳn thế. Vì anh ta đã đưa cho chàng thanh niên Rawlinson rồi.”
“Ông có chắc không?” Pikeaway sắc giọng.
“Ồ, không ai dám chắc điều gì,” ông Robinson phân trần. “Trong một cung điện có quá nhiều tin đồn. Không phải chuyện gì cũng đúng cả. Nhưng có nhiều lời đồn nặng ký theo hướng đó.”
“Chúng cũng không có trên người anh chàng Rawlinson…”
“Trong trường hợp đó,” ông Robinson nói, “dường như chúng được mang ra khỏi đất nước đó bằng cách khác.”
“Cách nào khác? ông có ý gì không?”
“Rawlinson đến quán cà phê trong thành phố sau khi nhận được món đồ ấy. Khi ở đó, người ta không thấy anh ta nói chuyện với ai hay có ai đến tiếp cận. Rồi anh ta đến khách sạn Ritz Savoy nơi bà chị gái ở. Anh ta lên phòng bà chị, rồi ở đó chừng hai mươi phút. Bà ta không ở khách sạn. Rồi anh ta rời khách sạn, đến Ngân hàng Merchants trên Quảng trường Victory, ở đó anh ta đổi séc ra tiền mặt. Rồi anh ta ra khỏi ngân hàng, cuộc hỗn loạn bắt đầu. Sinh viên bạo loạn về chuyện gì đó. Một lát sau quảng trường bị phong tỏa. Lúc ấy Rawlinson đi thẳng đến bãi đáp máy bay, cùng với Trung sĩ Achmed, anh ta đến chỗ máy bay.
“Ali Yusuf lái xe đi kiểm tra việc làm đường mới, dừng xe ở bãi đáp, rồi gặp Rawlinson, sau đó bày tỏ mong muốn bay một chuyến ngắn để từ trên không kiểm tra đập và xem xét việc xây dựng đường cao tốc. Họ cất cánh và không quay lại.”
“Và suy đoán của ông từ chuyện này?”
“Ông bạn thân mến, tôi cũng đoán như ông thôi. Tại sao Bob Rawlinson mất hai chục phút trong phòng chị gái, trong khi bà ta không có ở đó, và anh ta đã biết tin mãi đến tối bà chị gái mới quay về? Anh ta để lại một bức thư, mà có lẽ chỉ mất ba phút là viết xong. Thời gian còn lại anh ta làm gì?”
“Ông đang gợi ý rằng anh ta giấu châu báu vào nơi phù hợp trong đồ đạc của bà chị gái?”
“Có vẻ là vậy, phải không? Bà Sutcliffe được sơ tán cùng ngày đó với những công dân Anh khác. Bà ta bay đến Aden cùng cô con gái. Bà ta sẽ đến Tilbury vào ngày mai, tôi tin là vậy.”
Pikeaway gật đầu.
“Chăm sóc bà ta,” ông Robinson nói.
“Chúng tôi sẽ chăm sóc bà ta,” Pikeaway nói. “Mọi việc đã được thu xếp.”
“Nếu bà ta giữ món quý giá đó, bà ta sẽ gặp nguy hiểm.” Ông nhắm mắt. “Tôi không hề thích bạo lực.”
“Ông nghĩ có khả năng xảy ra bạo lực sao?”
“Có nhiều người quan tâm. Rất nhiều kẻ không mong muốn - nếu ông hiểu ý tôi.”
“Tôi hiểu ý ông,” Pikeaway nói dứt khoát.
“Và dĩ nhiên, họ sẽ phản bội nhau.”
Ông Robinson lắc đầu. “Thật rối rắm.”
Đại tá Pikeaway tế nhị hỏi. “Bản thân ông có quan tâm đặc biệt đến chuyện này không?”
“Tôi đại diện cho một nhóm lợi ích,” ông Robinson nói. Giọng ông thoáng vẻ bực dọc. “Những viên đá quý ấy được công ty của tôi cung cấp cho vị Quốc vương quá cố - với mức giá công bằng và hợp lý. Nhóm người mà tôi đại diện đó, họ quan tâm đến việc thu hồi những viên đá ấy, tôi liều lĩnh mà nói rằng hẳn họ đã được sự chấp thuận của người chủ quá cố. Tôi không muốn nói thêm nữa. Những chuyện này quá tế nhị.”
“Nhưng chắc chắn ông đứng về phía các thiên thần,” đại tá Pikeaway mỉm cười.
“À, những thiên thần! Những thiên thần - vâng.” Ông ngừng lại. “Ông có tình cơ biết được ai ở căn phòng bên cạnh phòng bà Sutcliffe và con gái trong khách sạn không?”
Đại tá Pikeaway tỏ vẻ mơ hồ.
“Để tôi xem nào. Phía bên trái là bà Angelica de Toredo - một người Tây Ban Nha - ờ - vũ công làm trong đoàn ca múa của địa phương. Có lẽ không hoàn toàn là người Tây Ban Nha mà cũng không phải vũ công giỏi. Nhưng được các khách hàng ưa chuộng. Phía bên kia là một người thuộc đoàn giáo viên, tôi hiểu vậy…”
Ông Robinson mỉm cười đồng ý.
“Ông vẫn luôn như vậy. Tôi đến để kể cho một biết một số chuyện, nhưng gần như ông đã biết hết rồi.”
“Không không.” Đại tá Pikeaway lịch sự chối bỏ.
“Giữa tôi và ông thôi nhé,” ông Robinson nói, “chúng ta biết một chuyện rất quan trọng.”
Ánh mắt họ bắt gặp nhau.
“Tôi hi vọng,” ông Robinson cao giọng, “rằng chúng ta biết vừa đủ…”
Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu - Agatha Christie Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu