Tôi không thể cho bạn một công thức thành công, nhưng tôi có thể cho bạn một công thức cho sự thất bại, đó là: cố gắng làm vừa lòng mọi người.

Herbert Bayard Swope

 
 
 
 
 
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: Cat Among The Pigeons (1959)
Dịch giả: Võ Hồng Long
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 26
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 365 / 57
Cập nhật: 2020-04-04 23:39:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2 - Người Phụ Nữ Trên Ban Công
hi Bob Rawlinson đi dọc hành lang đá cẩm thạch vọng âm trong cung điện, trong đời mình, chưa bao giờ anh cảm thấy lo phiền đến thế. Biết rằng mình đang mang bảy trăm năm mươi ngàn bảng trong túi quần khiến anh lên cơn đau cấp tính. Anh cảm giác như thể mọi người làm trong cung điện mà anh gặp hẳn đều biết sự việc. Anh thậm chí còn cảm giác như cái gánh nặng ghê gớm kia hiện rõ trên nét mặt anh. Hẳn anh sẽ nhẹ lòng khi biết được rằng khuôn mặt đầy tàn hương ấy của anh vẫn giữ nguyên vẻ đôn hậu tươi tắn thường ngày.
Lính gác bên ngoài bồng súng chào lách cách. Bob bước ra con phố lớn sầm uất của Ramat, đầu óc anh vẫn choáng váng. Anh đang đi đâu đây? Anh sẽ làm gì đây? Anh không hề biết. Mà thời gian lại gấp rút.
Con phố lớn trông như những con phố lớn khác ở Trung Đông. Đấy là sự pha trộn giữa nghèo đói và hoa lệ. Các ngân hàng mới xây lên những tòa nhà nguy nga lộng lẫy. Vô số những cửa hiệu nhỏ trưng bày hàng nhựa rẻ tiền. Giày len trẻ em, bật lửa rẻ tiền bày sát nhau. Những chiếc máy khâu và phụ kiện ô tô. Các cửa hàng dược bày những loại thuốc có thương hiệu nhưng kém phẩm chất, và dễ nhận thấy đủ loại penicillin, kháng sinh thì vô kể. Họa hoằn lắm mới bắt gặp các cửa hiệu có thứ mà bạn muốn mua, ngoài trừ hàng trăm chiếc đồng hồ Thụy Sĩ đời mới được bày chi chít trước một ô cửa sổ nhỏ. Hàng hóa đủ chủng loại đến mức dù bạn có né tránh mua hàng, thì vẫn lóa mắt trước sự ngồn ngộn chất đống ấy.
Vẫn bước đi trong trạng thái sững sờ, bị xô đẩy bởi những người trong trang phục bản địa hoặc Âu phục, Bob trấn tĩnh lại và lại tự hỏi anh sẽ đến chỗ quái nào đây?
Anh rẽ vào một quán cà phê bản địa, và gọi trà chanh. Khi nhấp trà, anh bắt đầu, chầm chậm, tỉnh ra. Không khí trong quán cà phê thật dịu dàng. Ở bàn đối diện anh là một lão niên Ả Rập đang thanh thản gõ chuỗi hạt hổ phách. Đằng sau ông ta là hai người đang chơi tric trac. Đây quả là nơi phù hợp để ngồi xuống và suy nghĩ.
Và anh phải suy nghĩ. Món châu báu trị giá bảy trăm năm chục ngàn đã được giao cho anh, và chính anh phải thảo một kế hoạch đưa chúng ra khỏi đất nước này. Không còn thời gian. Tình hình có thể xấu đi bất kỳ lúc nào…
Ali điên rồi, dĩ nhiên. Vô tư ném ba phần tư triệu vào tay một người bạn. Và rồi ngồi yên phó mặc mọi sự cho Allah. Bob không có được chỗ dựa như thế. Chúa của Bob mong các con chiên của Người quyết định và tự thực hiện hành động theo khả năng Chúa đã trao cho họ.
Anh sẽ làm quái gì với mấy viên đá chết tiệt ấy đây?
Anh nghĩ đến Sứ quán. Không, anh không thể để Sứ quán dính vào được. Sứ quán chắc chắn sẽ không chịu nhúng tay vào.
Anh cần một ai đó, một người tuyệt đối bình thường sắp rời đất nước này theo một cách tuyệt đối bình thường. Một doanh nhân, hay tốt nhất là một khách du lịch. Ai đó không liên quan đến chính trị, và hành lý của họ sẽ chỉ bị lục soát hời hợt, hay nhiều khả năng hơn là không kiểm tra gì cả. Dĩ nhiên, còn phải tính đến trạm bên kia nữa… Kiểm tra ở phía sân bay London. Nỗ lực mang những viên đá quý trị giá ba phần tư triệu nhập cảnh. Rồi chuyện này chuyện nọ. Phải liều lĩnh thôi…
Ai đó bình thường - một khách du lịch thứ thiệt. Và đột nhiên anh tự rủa mình là thằng ngốc. Joan, dĩ nhiên rồi. Chị gái của anh, Joan Sutcliffe. Joan đã đến đây được hai tháng cùng cô con gái Jennifer, cô bé sau một trận viêm phổi tồi tệ được bác sĩ chỉ định phải ở nơi khí hậu khô và nhiều ánh nắng. Họ sẽ về nước bằng đường biển trong bốn ngày tới.
Joan là người lý tưởng. Ali đã nói gì về phụ nữ và trang sức nhỉ? Bob tự giễu mình. Joan thánh thiện! Chị ấy sẽ không mất trí vì trang sức đâu. Tin tưởng chị ấy sẽ hiểu rõ thực tế. Đúng rồi - anh có thể tin ở Joan.
Đợi đã, nhưng mà… anh có thể tin Joan được không? Sự chân thật của chị ấy, có. Nhưng sự thận trọng? Bob lấy làm tiếc mà lắc đầu. Joan sẽ nói, sẽ không thể nào giữ mồm miệng được. Thậm chí còn tệ hơn. Chị ấy sẽ nói bóng gió. “Tôi đang mang về nước một thứ cực kỳ quan trọng, tôi không được nói một lời nào với bất kỳ ai. Thật sự khá là hồi hộp đấy…”
Joan chưa bao giờ có thể giữ trong lòng một điều gì, dù chị ấy luôn nổi giận nếu người ta bảo chị như vậy. Vì thế, Joan không nên biết chị mang gì về. Như thế tốt hơn cho chị ấy. Anh sẽ cho chúng vào một gói hàng, một gói hàng trông hết sức bình thường. Bịa ra chuyện gì đó. Một món quà cho ai đó chẳng hạn? Một khoản hoa hồng? Anh nghĩ ra một ý…
Bob liếc đồng hồ và đứng lên. Thời gian đang trôi đi.
Anh tản bước dọc theo con phố, chẳng để ý đến cái nắng ban trưa. Mọi thứ dường như quá đỗi bình thường. Bề ngoài không biểu hiện một điều gì cả. Chỉ có trong cung là nơi người ta nhận thấy ngọn lửa âm ỉ cháy, hoạt động gián điệp, những tiếng thầm thì. Quân đội - tất cả tùy thuộc vào quân đội. Ai trung thành đây? Ai phản trắc đây? Một cuộc đảo chính chắc chắn sẽ được tiến hành. Liệu nó sẽ thành công hay thất bại?
Bob nhíu mày khi rẽ vào khách sạn hàng đầu của Ramat. Nó được khiêm tốn gọi là Ritz Savoy và có mặt tiền hiện đại uy nghi. Nó đã khai trương đình đám ba năm trước, với một quản lý người Thụy Sĩ, một đầu bếp thành Viên, và một trưởng nhóm phục vụ người Ý. Mọi thứ từng rất tuyệt vời. Đầu bếp thành Viên ra đi trước, rồi tới lượt quản lý người Thụy Sĩ. Giờ trưởng nhóm phục vụ người Ý cũng đi nốt. Đồ ăn vẫn rất cầu kỳ, nhưng tệ hại, dịch vụ thật kinh khủng, và phần lớn hệ thống đường ống, thiết bị nhà tắm, vệ sinh đắt tiền đều đã hỏng bét.
Nhân viên đứng quầy biết rõ Bob, và hớn hở chào anh.
“Xin chào anh Đại úy. Anh muốn gặp chị gái phải không? Bà ấy đã đi picnic cùng cô con gái rồi…”
“Picnic ư?” Bob giật mình bối rối - đi picnic vào thời điểm này quá không còn gì ngớ ngẩn hơn.
“Cùng ông bà Hurst ở Công ty Dầu khí,” viên lễ tân bổ sung thông tin. Mọi người đều biết tuốt. “Họ đã đến Đập Kalat Diwa.”
Bob rủa thầm trong bụng. Phải mấy tiếng nữa Joan phải mới về.
“Tôi sẽ lên phòng chị ấy,” anh nói và đưa tay ra lấy chìa khóa gã lễ tân đưa cho.
Anh mở khóa đi vào. Căn phòng, loại phòng lớn có giường đôi, hỗn độn như thường lệ. Joan Sutcliffe không phải là típ phụ nữ ngăn nắp. Gậy đánh golf nằm trên ghế, vợt tennis vứt trên giường. Quần áo ở đâu cũng có, bàn thì bày bừa những cuộn phim, bưu thiếp, sách bìa mềm và đủ loại đồ vật quý giá từ miền Nam, hầu hết được sản xuất ở Birmingham và Nhật Bản.
Bob nhìn quanh, nhìn vào những chiếc vali và túi kéo khóa. Anh phải đối mặt với một vấn đề. Anh không thể gặp Joan trước khi chở Ali trốn đi. Không thể có đủ thì giờ đến con đập rồi quay lại được. Anh có thể gói món đồ và để lại, kèm theo một bức thư - nhưng ngay lập tức anh lắc đầu. Anh biết khá rõ rằng anh gần như luôn bị theo dõi. Có lẽ anh đã bị theo dõi ngay từ cung đến quán cà phê, và từ quán cà phê đến đây. Dù không phát hiện ra ai song anh biết họ theo dõi rất tài tình. Việc anh đến thăm chị gái ở khách sạn thì không có gì phải nghi ngờ - nhưng nếu anh để lại một gói hàng cùng một bức thư, bức thư sẽ bị đọc và gói hàng sẽ bị mở ra.
Thời gian… Thời gian… Anh không có thời gian…
Những viên đá quý trị gia ba phần tư triệu đang nằm trong túi quần anh.
Anh nhìn quanh phòng…
Rồi, với một cái nhếch mép, anh lấy từ trong túi ra bộ dụng cụ nhỏ anh luôn mang theo. Cháu gái Jennifer của anh có đất dẻo, anh để ý, như vậy có thể hữu ích.
Anh thao tác nhanh chóng và khéo léo. Có lần vì nghi ngờ, anh ngước lên, mắt anh nhìn về phía cửa sổ đang mở. Không, ngoài cửa sổ không có ban công. Chỉ là thói lo lắng khiến anh cảm thấy mình đang bị dòm ngó.
Anh hoàn tất nhiệm vụ và gật đầu tán thưởng. Không ai sẽ để ý đến việc anh vừa làm - anh cảm thấy chắc như vậy. Cả Joan hay bất kỳ ai khác. Chắc Jennifer lại càng không, một đứa bé luôn cho mình là trung tâm, nó không bao giờ thấy hay để ý cái gì khác ngoài bản thân.
Anh xóa hết mọi bằng chứng việc mình vừa làm rồi bỏ chúng vào túi… Rồi anh dè dặt nhìn xung quanh.
Anh lôi tập giấy của bà Sutcliffe ra trước mặt và ngồi cau mày…
Anh phải để lại cho Joan một bức thư…
Nhưng anh có thể nói gì đây? Đó phải là điều gì mà Joan hiểu được - nhưng lại là điều không có ý nghĩa gì với ai khác đọc bức thư.
Và thực sự điều đó là không thể! Trong những truyện kinh dị Bob thích đọc để giết thì giờ nhàn rỗi, người ta thường để lại một dạng mật mã để ai đó sẽ hóa giải thành công. Nhưng thậm chí đến cả thư mã hóa anh cũng không nghĩ đến - và dù sao đi nữa Joan là kiểu người phải gợi ý sát sao mới nhận ra vấn đề…
Rồi anh thôi cau mày. Có một cách khác - chuyển hướng chú ý của Joan - để lại một bức thư bình thường. Rồi để lời nhắn lại cho người khác liên hệ với Joan ở Anh. Anh viết thật nhanh…
Joan thân mến -
Em ghé qua hỏi xem chị tối nay chị có thích làm một trận golf không, nhưng vì chị đã tham quan đập, hẳn đến lúc về chị cũng buồn ngủ lắm rồi. Ngày mai thì sao? Năm giờ ở Câu lạc bộ nhé.
Em của chị, Bob.
Một lời nhắn bình thường để lại cho một người chị gái mà có lẽ anh không bao giờ gặp lại - nhưng càng bình thường lại càng tốt. Joan không được dính líu vào bất cứ chuyện gì khác thường, thậm chí không được biết rằng có những việc khác thường ấy trên đời. Joan không biết che giấu điều gì. Điều bảo vệ bà chính là việc bà rõ ràng không biết gì cả.
Và bức thư sẽ đạt được hai mục tiêu. Nó tỏ ra anh không có kế hoạch chạy trốn.
Anh nghĩ ngợi mấy phút, rồi anh đến bên điện thoại và bấm số Đại sứ quán Anh. Anh được nối máy với Edmundson, giữ hàm bí thư thứ ba, một người bạn của anh.
“John hả? Bob Rawlinson đây. Cậu có thể gặp tớ đâu đó sau giờ làm không?… Sớm hơn được không?… Phải như vậy, anh bạn ạ. Quan trọng đấy. À, thực ra là về một cô gái…” Anh ho một tiếng ra ý xấu hổ. “Cô ấy tuyệt vời, rất tuyệt vời. Trên cả tuyệt vời. Chỉ là hơi khó đối phó thôi.”
Giọng của Edmundson, nghe hơi nghẹn vì áo sơ mi chít cổ và có vẻ khó chịu, “Thực ư, Bob, cậu và các cô gái của cậu. Được rồi, hai giờ được không?” rồi cúp máy. Bob nghe tiếng tích nhỏ vọng lại, cơ hồ ai đó đang nghe trộm, qua một tai nghe khác.
Edmundson tốt bụng. Vì mọi điện thoại Ở Ramat bị nghe lén, Bob và Edmundson đã tìm ra một mẹo mã hóa nhỏ cho riêng họ. Một cô gái tuyệt vời “trên cả tuyệt vời” nghĩa là có chuyện khẩn cấp quan trọng.
Edmundson sẽ lái xe đến đón anh ở ngoài Ngân hàng Merchants, lúc hai giờ, và anh sẽ bảo Edmundson chỗ bí mật. Anh bảo anh ta rằng Joan không biết gì, nhưng rằng, nếu có chuyện xảy ra với anh, điều này quan trọng lắm. Đi đường biển thì Joan và Jennifer phải sáu tuần nữa mới quay về Anh. Lúc ấy cuộc cách mạng hẳn đã xảy ra, có thể thành công hoặc bị đàn áp. Ali Yusuf hẳn sẽ ở châu Âu, hay cả anh ta và Bob hẳn đã chết rồi. Anh sẽ nói với Edmundson vừa đủ, nhưng không quá nhiều.
Bob nhìn lại căn phòng lần cuối. Trông nó vẫn y nguyên, thanh bình, bừa bộn, như ở trong nhà. Thứ duy nhất được thêm vào là bức thư vô thưởng vô phạt anh gửi Joan. Anh để thư lên bàn rồi đi ra. Dọc hành lang không có ai.
Người phụ nữ ở kế bên phòng của Joan Sutcliffe lùi khỏi ban công. Trong tay cô ta cầm một tấm gương.
Cô đã ra ban công, ban đầu chỉ là để xem kỹ hơn một sợi lông dám cả gan mọc trên cằm cô. Cô xử lý nó bằng chiếc nhíp, rồi sau đó để cho khuôn mặt hưởng chút ánh mặt trời trong vắt.
Ngay lúc ấy, khi cô thư giãn, cô nhận thấy một chuyện khác. Cô đang giữ tấm gương ở một góc có thể phản chiếu hình của chiếc gương tủ đang mở ở phòng kế bên, và trong tấm gương đó, cô thấy một người đàn ông đang làm một việc rất gây tò mò.
Quá tò mò và bất ngờ đến nỗi cô đứng đó bất động và quan sát. Anh ta đang ngồi cạnh bàn, hẳn không thể nào nhìn thấy cô, còn cô chỉ nhìn thấy anh qua hai lần gương chiếu.
Nếu anh quay đầu ra sau, hẳn anh sẽ nhìn thấy hình ảnh cô trong gương tủ, nhưng anh quá chú tâm vào việc mình đang làm, nên không nhìn ra phía sau…
Đúng vậy, có một lần, anh đã bất thình lình nhìn ra ngoài cửa sổ, nhưng ở ngoài đấy chảng có gì để nhìn cả, nên anh lại cúi đầu xuống.
Người phụ nữ quan sát trong khi anh hoàn tất việc đang làm. Sau một thoáng ngưng lại, anh viết một bức thư để lên bàn. Rồi anh ra khỏi tầm nhìn của cô, nhưng cô loáng thoáng nhận ra rằng anh đang gọi một cuộc điện. Cô không thể nghe rõ được, nhưng có vẻ không nghiêm trọng. Rồi cô nghe tiếng cửa đóng lại.
Người phụ nữ đợi chừng vài phút. Rồi cô mở cửa phòng mình. Phía đầu kia hành lang, một người Arab đang trễ nải phẩy cây phất trần, ông ta rẽ đoạn góc hành lang, rồi khuất tầm mắt.
Người phụ nữ len nhanh vào cánh cửa phòng kế bên. Cửa đã khóa, nhưng cô đã tính đến điều đó. Cái kẹp tóc cô mang theo và con dao nhíp nhỏ mở khóa nhanh chóng và thành thạo.
Cô vào trong, đóng cửa lại. Cô nhặt bức thư lên. Nắp bì thư được dán hời hợt nên mở dễ dàng. Cô đọc thư, chau mày. Không có lời giải thích ở đây.
Cô dán thư lại, bỏ xuống, rồi bước trong phòng.
Rồi lúc vừa với tay ra, cô giật mình vì tiếng nói từ dưới sân vọng qua cửa sổ.
Một giọng nói mà cô biết là của người thuê căn phòng cô đang đứng đây. Và một giọng nói quyết đoán và mô phạm, giọng nói hoàn toàn tự tin.
Cô lao đến cửa sổ.
Dưới sân, Joan Sutcliffe, cùng con gái là Jennifer, một cô bé mười lăm tuổi, khỏe khoắn, đang nói cho cả thế giới và một người dáng cao, vẻ khổ sở, hình như là người Anh làm ở Lãnh sự, rằng bà nghĩ sao về việc anh ta vừa nói.
“Nhưng thế thật ngớ ngẩn! Tôi chưa bao giờ nghe chuyện gì vô lí như vậy. Mọi thứ đều hoàn toàn yên tĩnh ở đây, và mọi người khá hài lòng. Tôi nghĩ chỉ người ta cứ làm ầm lên để gây hoang mang thôi.”
“Chúng tôi hi vọng như vậy, thưa bà Sutcliffe, chúng tôi chắc chắn hi vọng như vậy. Như ngài Đại sứ cảm thấy có trách nhiệm…”
Bà Sutcliffe cắt lời. Bà không định xem xét trách nhiệm của các đại sứ.
“Chúng tôi có nhiều hành lý, anh biết đấy. Chúng tôi sẽ đi đường biển - vào thứ Tư tới. Chuyến đi biển sẽ tốt cho Jennifer. Bác sĩ đã bảo vậy. Tôi chắc chắn nói không về chuyện thay đổi kế hoạch sắp xếp trước để bay về Anh hối hả như vậy.”
Người đàn ông vẻ khổ sở ấy động viên rằng bà Sutcliffe và con gái bà có thể không bay về Anh, mà qua Aden và đón thuyền ở đó.
“Với hành lý của chúng tôi sao?”
“Vâng, vâng, chuyện đó có thể thu xếp. Tôi có một chiếc xe đang đợi - xe chở đồ. Chúng tôi có thể xếp mọi thứ lên ngay.”
“Ô vâng.” Bà Sutcliffe đầu hàng. “Tôi nghĩ chúng tôi nên soạn đồ.”
“Ngay lập tức, nếu bà không phiền.”
Người phụ nữ đang trong phòng ngủ rút lui vội vàng. Cô lướt nhìn vội địa chỉ ghi trên nhãn hành lý đính vào vali. Rồi cô lẻn nhanh ra khỏi phòng và về phòng mình ngay vừa lúc bà Sutcliffe rẽ nơi góc hành lang.
Nhân viên văn phòng đang chạy theo bà.
“Em trai bà, ngài Đại úy, đã đến đây, thưa bà Sutcliffe. Anh ấy lên phòng bà. Nhưng tôi nghĩ anh ấy đã đi rồi. Hẳn bà không kịp gặp anh ấy.”
“Ôi mệt mỏi quá,” bà Sutcliffe nói. “Cảm ơn anh,” bà nói với nhân viên lễ tân, rồi lại chỗ Jennifer, “Mẹ nghĩ cậu Bob cũng làm rùm beng lên. Mẹ không hề thấy chút dấu hiệu rối loạn nào trên phố. Khóa phòng này không đóng. Sao mấy người này bất cẩn thế chứ.”
“Có lẽ là cậu Bob,” Jennifer nói.
“Ước gì mẹ về kịp để gặp cậu ấy… ồ, có thư này.”
Bà xé phong thư ra.
“Dù sao thì Bob cũng không làm toáng lên,” bà nói vẻ chiến thắng. “Cậu ấy rõ ràng không hề biết gì về chuyện này. Bên ngoại giao cứ làm ầm ĩ lên, có vậy thôi. Mẹ ghét phải đóng đồ giữa cái nóng ban ngày. Căn phòng này như một cái lò vi sóng vậy. Nào, Jennifer, con lấy đồ trong ngăn kéo ra đi. Chúng ta phải lấy hết mọi thứ. Chúng ta có thể đóng gói lại sau.”
“Con chưa bao giờ chứng kiến một cuộc cách mạng cả,” Jennifer trầm tư nói
“Mẹ không cho là lần này con được trải nghiệm thử đâu,” mẹ cô bé gay gắt nói. “Sẽ như mẹ nói. Sẽ chẳng có gì xảy ra cả.”
Jennifer tỏ ra thất vọng.
Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu - Agatha Christie Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu