Love is the only way to grasp another human being in the innermost core of his personality.

Viktor E. Frankl

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 5
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 328 / 39
Cập nhật: 2019-11-10 14:20:29 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần Thứ Hai
ùng Lé ngần ngừ một chút thôi. Khi thấy Nam vừa khuất sau cây bàng trên sân đồn công an cảng, nó chợt nhận ra tình thế hiện nay của mình. Từ ngày bước chân lên tấm ván cầu con thuyền 162, Hùng luôn cảm thấy mình bị chẹt giữa hai bức tường. Ở đây, trong con thuyền là hai cánh tay gân guốc và những tia mắt sắc lạnh của Sáu Xồm, ở kia là dãy hàng rào trại giam, không còn chỗ nào khác. Trong những ngày đó, thỉnh thoảng Sáu Xồm lại hỏi nó, giọng lạnh lùng:
– Chú em ơi, thế là đến nay chú mình bật xà được bao nhiêu lần rồi nhỉ?
Bật xà có nghĩa là mở khóa cho một vụ trộm lớn. Thấy Hùng lặng im, Sáu Xồm nhắc như bắt Hùng phải nhớ:
– Chừng năm bảy vụ gì đó. Nhưng chú mình có biết không, chỉ mỗi một vụ thôi cũng đủ ra Hoành Bồ rồi.
Hoành Bồ hay đâu đó có những trại cải tạo trẻ con ăn cắp. Hùng chẳng muốn vào sống trong những trại ấy chút nào. Nó lặng im, đưa đôi mắt buồn nản thỉnh thoảng lóe lên một tia căm ghét nhìn Sáu Xồm. Thời gian cứ thế trôi qua…
Bây giờ tình thế đã đổi khác. Chẳng còn Sáu Xồm. Chỉ còn tấm biển “Đồn công an” và gian nhà thường trực nhỏ bé có một chị áo vàng đang ngồi ghi chép gì đó vào quyển sổ. Hùng thấy rằng phải rời khỏi đây ngay. Rời khỏi đây nghĩa là cả Sáu Xồm, cả nhà tù cũng biến mất. Chỉ có mỗi mình Hùng và cuộc sống tự do đang nhộn nhịp ngoài phố, những ngõ ngách mà nó thông thuộc như trong nhà của mình.
Hùng làm ra vẻ thản nhiên cho chị áo vàng khỏi chú ý rồi nó quay ngoắt, bước vào dòng người đi bộ, xe đạp đang tua tủa chuyển động trên đường. Con chim chích đã bay vào rừng xanh.
Hà Nội có 36 phố phường, còn Hải Phòng có những cái ngõ của nó. Những cái ngõ tưởng như chỉ có một đoạn ngắn thôi. Khách lạ mạnh dạn bước vào và anh ta choáng váng: Cái ngõ bỗng chia làm nhiều ngách, nhiều ngõ nhỏ khác, càng đi tới càng thấy sâu thêm, đông thêm. Cho đến nay vẫn còn những cái ngõ có tên kỳ quái không biết ra đời tự thuở nào: ngõ Cô Ba Chìa, ngõ Cái Đá, ngõ Tây bán vải… Khách lạ vẫn gặp trong những ngõ đó một bóng dáng cảnh sát áo vàng. Đó là công an hộ tịch có trách nhiệm chăm lo trị an. Nhưng dù vậy, cuộc sống trong các ngõ vẫn có một cái gì rối rắm, phức tạp hơn nhiều so với các đường phố thênh thang.
Hùng Lé lẩn vào dòng người xe, đi một quãng ngắn nữa và bước vào một cái ngõ. Mới vài bước chân nó bỗng thấy chột dạ. Đúng rồi, chính cái ngõ này, một lần Sáu Xồm đã bắt nó bật xà một gia đình công nhân. Theo Sáu Xồm cho biết, anh chủ nhà làm ba gác trong cảng. Tổ của anh chở các thứ hàng “tươi sống” như mì chính, thuốc tây… Vậy tất nhiên trong nhà anh ta có mỡ (của cải). Hùng Lé có nhiệm vụ mở khóa vào nhà xem xét. Nó chỉ nhìn thấy một bát mỡ trong chạn, một thùng mì, quần áo rách và mấy cái xoong nhôm. Đó là những thứ có giá trị nhất trong nhà. Sáu Xồm không tin. Hắn không hề tin rằng một tay tổ trưởng ba gác thường kéo sau lưng những thứ giá trị như vậy lại có thể trong sạch đến thế. Hắn bắt Hùng Lé bật xà một lần nữa, có hắn đi cùng. Hùng bực mình. Nó làm tắc khóa và thế là cả hai suýt rơi gọn vào tay một công an hộ tịch, vào quãng chín giờ sáng. Câu chuyện ấy làm Hùng phân vân. Nó có thể gặp lại người công an già hôm ấy. Bác ta đã nắm được tay Hùng, nó chối đây đẩy và òa khóc, bác ta lưỡng lự và thế là nó giật té chạy.
Nhưng dù sao thì không thể hi vọng vào sự nhân từ ấy một lần nữa. Hùng quay ra. Nó lại bước trên đường phố, lần về phía bờ sông. Quãng này chắc là lắm người. Thuyền bè đang bốc hàng lên xuống. Nó có thể lẩn vào trong đám đông và may ra gặp được một cái thuyền ra khu mỏ. Hẵng cứ ra Hòn Gai, ở đó một thời gian, tính đường về Cẩm Phả sau. Về Cẩm Phả rồi có về nhà hay không lại là chuyện khác.
Hùng ngồi xuống một hòn đá kè, giả tảng như ngồi câu. Đã thành thói quen, bao giờ nó cũng tạo cho mình hai bộ mặt. Vai nào nó định đóng đều rất đạt, cứ y như thật vậy.
Hùng bỗng phát hiện ra một điều từ nãy đến giờ không để ý: Trong tay nó vẫn còn con búp bê – mẩu gỗ bé tí mà lúc vội thằng Nam đã trao cho nó cầm hộ. Rồi nó nhớ đến chiếc ba lô nhét đầy những thứ cần thiết cho cuộc bỏ trốn, trong lòng chiếc xuồng, chắc bây giờ đang được giữ ở đồn biên phòng nào đó và được coi như là một tang vật có giá trị. Nó hoảng hốt thực sự khi thấy mình chỉ có tay không. Không tiền bạc, áo quần, nhà cửa, bạn bè… Hùng đứng dậy, cho con búp bê sang tay trái, lấy bàn tay phải vỗ vỗ vào túi quần, một tiếng lẻng xẻng khô khan sau lần vải. Chùm chìa khóa! Chùm chìa khóa vạn năng, công trình của hai năm trời ròng rã. Nó lại ngồi xuống, đặt con búp bê xuống hòn đá, rút chùm chìa khóa ra. Mỗi một cái chìa dù bằng đồng, bằng nhôm hay bằng sắt đều gợi cho Hùng những kỷ niệm khó quên, những câu chuyện làm nó nhức nhói. Đây là một trận đòn thừa sống thiếu chết của Sáu Xồm, vì Hùng loay hoay mãi mà suýt nữa Sáu Xồm bị tóm. Còn đây, chiếc chìa khóa đồng, cái mũi con này đây, ta đã bước vào một nhà do Sáu Xồm chỉ điểm, ta nhìn thấy một bà mẹ đang ngủ với mấy đứa con, ngủ say như chết sau một ngày đi làm ở cảng hay ở một nhà máy nào đó. Trông bà giống mẹ ta quá, nhà bà nghèo xác xơ, chỉ có mỗi chiếc đồng hồ báo thức trên bàn học của đám trẻ con là có giá, ta đã quay ra, nói dối Sáu Xồm và thế là một trận đòn nữa… Còn đây, “thằng bé” làm bằng nhôm, nó đã dẫn ta về nhà một lần, ta đã ngồi ngắm mẹ ta khi đang ngủ và khi bà nằm mê gọi “Hùng ơi!” thì ta hoảng hốt bỏ chạy ra ngoài… Hùng gọi tên từng chiếc chìa khóa, cuối cùng nó tháo “thằng bé” ra khỏi cái vòng sắt, cẩn thận nhét sâu vào lưng quần đùi. Nó quay quay chùm chìa khóa mấy vòng rồi bất thần quẳng xuống sông. Tội ác đang tự tử và chìm nghỉm xuống đáy, không để lại gì, kể cả một tiếng động nhỏ. Hùng đứng dậy.
Nó nắn vào lưng quần xem “thằng bé” còn trong đó nữa hay không rồi bước đi, tay vẫn còn cầm con búp bê gỗ. Vứt con búp bê xuống đống rác nào đó và thế là xong, trên người ta không còn gì của cuộc đời cũ, trừ chiếc quần đùi và cái áo rách. Nhưng vứt nó vào đâu? Hùng nhớ đến Nam Quỷnh, nhớ đến hai chị em bé Liên và con chuồn chuồn…
– Tao còn có việc với mày đây – Hùng nói với con búp bê gỗ và bước nhanh dọc bờ sông bấy giờ đã tràn ngập ánh nắng.
Một ý nghĩ xoắn xuýt đầu óc Hùng từ khi nó sực nhớ ra con búp bê. Nó muốn quay lại ngay chỗ chị em bé Liên. Nhất định phải thế – nó nghĩ – cho hết nợ.
Nhưng nó biết ngay rằng làm như vậy là mạo hiểm. Dù vậy, nó không chùn bước. Nó cảm thấy vượt qua được cuộc mạo hiểm cuối cùng này, đời nó chắc sẽ thong dong hơn. Nó sẽ có một cuộc đời khác, hoàn toàn không có chút gì giống với cuộc sống trước đây. Sáu Xồm đã bị tóm rồi. Nhất định nó sẽ sống được. Nó tin như vậy.
Hùng Lé vẫn bước thủng thẳng ven bờ sông. Lâu lắm rồi nó mới có dịp ngắm dòng sông Tam Bạc chảy qua lòng thành phố, cũng từ lâu rồi nó mới thấy mình có quyền ngắm những cảnh vật, con người, nhà cửa, thuyền bè mình thích. Trước đây, nó chỉ được phép lên bờ rong chơi vào những buổi tối. Thời gian còn lại là công việc phải làm cho Sáu Xồm.
Dãy phố bên phía Hạ Lý ửng lên dưới ánh mặt trời. Một suối mật ong chảy trên dãy nóc nhà cao. Hàng phượng lẻ loi phía cầu sắt phủ một lớp bụi than nhà máy xi măng như vừa được thay lá mới. Đứng bên này có thể nhìn thấy rõ những bông phượng sót lại của mùa Hè lộ ra sau một cơn gió rồi lại bị đống lá xanh um che khuất. Bốn con bò vừa đen vừa vàng kéo xe chở cát, bụi cát bay bay trên nóc xe.
Hùng sẽ có một con bò, một chiếc xe bò! Ước gì được thế nhỉ? Nó sẽ đi chở cát, chở than cho dân phố, sẽ nhận tiền công mua cỏ, mua cám cho bò ăn, mua một miếng đậu phụ cho mỗi bữa cơm, còn thừa ra thì để dành được một món kha khá sẽ gửi qua bưu điện về cho mẹ. Mẹ sẽ đến nhà bưu điện nhận tiền (số tiền chắc cũng không đến nỗi ít ỏi), mẹ sung sướng lắm nhưng không hề biết ai đã gửi cho mẹ số tiền đó.
Nhưng giấc mơ qua nhanh chóng. Hùng chẳng có bò, chẳng có xe bò, trong tay chỉ còn một mẩu gỗ, bụng lại cồn cào. Nó ngồi xuống bờ đá, nghỉ một lúc. Cô bé quàng khăn đỏ mỉm cười với nó như muốn an ủi, trò chuyện với nó. Bây giờ Hùng mới nhìn kĩ cái mẩu gỗ mà thằng Nam Quỷnh kia gọi là búp bê. Hùng chưa hề cầm một vật xinh xắn như vậy. Một mẩu gỗ biết quàng khăn, lại biết cười. Những đường khắc phết sơn chạy vòng quanh rồi túa ra phía dưới như rẻ quạt, đó là cái váy. Hùng nhìn thấy một đường vòng như vết nứt ở cổ cô bé. Nó lơ đễnh cầm lấy đầu quay một vòng, cái đầu quay nhẹ nhàng. Nó quay một vòng nữa, rồi một vòng nữa, cái đầu rời ra. Bên trong mẩu gỗ là một cô bé khác, một cô bé xinh hơn, tươi tắn hơn, tất nhiên bé hơn một chút. Điều ấy làm Hùng kinh ngạc. Trí tưởng tượng của nó bị kích thích. Nó cảm thấy trong tay mình không còn mẩu gỗ nữa mà là một sinh vật đang cựa quậy, hai cô bé quàng khăn đỏ hẳn hoi.
Hùng nhẹ nhàng đặt cô gái lớn xuống và lại quay đầu cô gái nhỏ. Cái đầu rời ra sau mấy vòng quay và bên trong lại có một cô bé khác, xinh hơn, nhỏ hơn cô bé kia. Hùng vã mồ hôi trán, nó thấy như mấy cô bé đang cười nhạo mình. Tay nó run lật bật. Nhưng nó vẫn tiếp tục quay cái đầu nhỏ nhắn kia mấy vòng và lại rút ra một cô bé quàng khăn nữa. Vậy là trên tay Hùng đã có bốn cô bé, bốn chị em sàn sàn tuổi nhau. Nó xếp cả bốn cô lên một hòn đá bằng phẳng nhất quanh chỗ ngồi rồi lặng lẽ ngắm từng cô một. Nó cảm thấy cô chị là cô gái có vẻ tần tảo, lam lũ và đảm đang nhất bọn. Bởi vì cô chị ở ngoài, bao bọc các em, chị phải chịu nắng gió, va chạm, sây sát. Điều ấy thật đơn giản biết bao.
Hùng thở dài. Nó lắp mấy cô bé vào chỗ cũ. Nhưng nửa chừng, nó chợt hi vọng. Hãy mở cô út ra, biết đâu lại còn một cô nho nhỏ hơn ở trong? Nó run run quay đầu cô bé út. Không còn cô bé nào nữa. Nhưng một tờ giấy rơi ra. Một băng giấy nhỏ, trên có hàng chữ viết nắn nót: Chúc các con hạnh phúc, hãy ngoan như những em bé gái này… Mẹ. Hùng chợt hiểu. Đây là chữ viết của mẹ bé Liên, chắc là để một ngày nào đó, lúc hai đứa bé biết đọc, chúng sẽ phát hiện ra tờ giấy và lời dặn dò của mẹ.
Hùng quấn cẩn thận tờ giấy vào ruột cô bé út, lắp mấy cô lại như cũ rồi đứng lên. Nó thấy hết đói, bước đi nhanh cho hết quãng đường bờ sông rồi rẽ vào một phố nhỏ. Nó biết rõ, ở quãng giữa phố này, bên cạnh một ngôi nhà ba tầng đổ nát vì bom Mỹ cách đây bảy, tám năm, có một cái ngõ hẹp nhưng dài và ngoằn ngoèo. Từ giữa ngõ này, chui qua một lỗ hổng của bức tường chắn, có thể ra phố Q, gần ngay ngôi nhà nó định đến. Nó quyết định đến ngôi nhà kia bằng lối này, bởi vì, nếu giữa đường bị phát hiện và đuổi bắt, nó sẽ dễ dàng mất hút trong cái ngõ vừa chật chội vừa tối tăm kia. Ở khu vực này người ta đang mở công trường sửa lại nhà bị bom tàn phá, dân cư được tạm dời ra nhà cao tầng ngoại ô, Hùng sẽ ít phải gặp những người có thể nhận ra nó.
Và bây giờ Hùng đã tìm ra cái lỗ hổng nhỏ giữa bức tường. Hùng chống hai tay xuống đất, cho hai chân vào cái lỗ rồi nhẹ nhàng đẩy người sang. Một hai giây sau, nó đã ở bên kia bức tường. Phía bên này quang cảnh còn vắng vẻ hơn. Một đống gạch vụn đổ nát nằm dưới chân những cột bê tông cao với những cái dằng ngang, dằng chéo rối rắm. Trên một mảng tường còn sót lại, có hàng chữ kẻ bằng son đỏ: “Nhà đổ, nguy hiểm chết người!”, bên cạnh hàng chữ là hình vẽ một cái đầu lâu với hai ống xương bắt chéo. Hùng mỉm cười nhìn cái đầu lâu, nó phác một cử chỉ chế nhạo những hốc xương gớm ghiếc kia rồi ngồi xuống ngay bên cạnh để thử. Ở đây thật vắng vẻ và yên tĩnh. Cả những tiếng xe ô tô chạy ngoài phố lớn cũng rơi rụng hết bên kia những khung nhà cao và các đống gạch vụn. Sau những phút căng thẳng chui qua bức tường, nó lại thấy đói, nhưng tìm đâu ra cái ăn. “Chà, chuột ngày bao giờ cũng đói!” – nó lẩm bẩm, bực bội nhưng lại yên tâm vì cho đến bây giờ vẫn chưa ai nhìn thấy nó. Nó có thể ngồi một lúc, tính kế, lập mưu cho mất đứt ngày hôm nay cũng được. Một ngày không ăn thì đã sao. Nó đã từng qua một đôi lần như vậy rồi. Đói một chút nhưng khi có gì ních vào bụng thì lại thấy khỏe khoắn ngay. Nó nằm xuống, hai tay đặt dưới đầu và khe khẽ hát: Bé bé bằng gang… Hát xong, nó mỉm cười.
Nhưng nó không hề chú ý đến một khuôn mặt ló ra từ cái lỗ hổng trên gác ba ngôi nhà đổ. Một khuôn mặt hốc hác, có đôi mắt sâu bị lấp dưới hai vệt lông mày rậm. Một khuôn mặt cú mèo. Ví von này cũng không lấy gì làm quá đáng, bởi vì, tận trên gác ba ngôi nhà đổ như vậy, phải leo qua dãy cầu thang sứt mẻ lòi cả dàn cốt thép bên trong ra, chỉ có thể có những con cú trú ngụ mà thôi. Nhưng đây quả thực là khuôn mặt người. Từ khi, do sự tình cờ, đôi mắt sâu với cặp lông mày rậm ấy nhìn thấy hai bàn chân của Hùng Lé thò ra ngoài lỗ hổng bức tường thì hầu như chúng không rời thằng bé ra nữa.
Hùng Lé đứng dậy, lần theo lối đi mọc đầy cỏ tìm đến dãy phố cũ. Khuôn mặt cú kia thụt vào và lát sau, trên dãy cầu thang đổ hiện ra một người đàn ông trạc năm mươi tuổi. Ông ta mặc áo sơ mi cổ bẻ, ngắn tay, bên dưới là chiếc quần ka ki vàng khè cũ kĩ. Ông ta tụt nhanh xuống, nấp sau một cái cột nhìn dõi theo Hùng Lé. Như vậy là giữa Hùng Lé và người đàn ông nọ đã có một sợi dây, hay như người ta thường nói: Hùng Lé đã có một cái đuôi mà nó không hề hay biết.
Khi Hùng bước ra đường thì “cái đuôi” nấp vào chỗ Hùng đứng hồi nãy. Từ đây, người đàn ông yên trí nhìn theo thằng bé. Đường phố khá rộng, ông ta có thể theo dõi Hùng trong một khoảng cách dài mà không sợ mất hút con mồi.
Hùng bước mấy chục bước nữa. Nó đi qua khu nhà tập thể mang số 154, nơi xảy ra vụ trộm cách đây mấy hôm. Lối đi vào cầu thang vắng người, dài hun hút. Hùng liếc nhanh lên các tầng trên, các cửa sổ đều mở, nhưng chẳng có gì chứng tỏ có người ở bên trong. Nó dấn thêm mấy bước rồi quay trở lại. “Cái đuôi” từ nãy vẫn theo sát từng bước chân của nó, vội tụt vào trong ngõ. Một chốc sau, Hùng lại trở về chỗ cũ, nơi gặp nhau giữa cái ngõ dẫn vào ngôi nhà đổ và đường phố. Người đàn ông đã đứng lùi hẳn về phía trong. Ông ta đang giả vờ sắp xếp lại mấy hòn gạch.
Đầu óc Hùng căng thẳng như trong bất kỳ hoàn cảnh tương tự nào, khi phải mạo hiểm, phải trông chờ vào sự may rủi nhiều hơn là khôn ngoan. Trở về đây sau vụ trộm có mấy ngày là chẳng khôn ngoan chút nào, nhưng nó nghĩ, dù có gặp rủi thì đây cũng là lần đầu tiên nó bị rủi ro vì làm một việc tốt đẹp. Nghĩ thế, nó rời chỗ đứng, lại bước nhanh đến ngôi nhà. Người đàn ông – cái đuôi – thấy nó đi khuất, liền chạy nhanh ra đầu ngõ, nghiêng người dõi theo. Đến lúc thấy Hùng bước vào lối lên cầu thang ngôi nhà, ông ta mỉm cười.
Hùng đi nhanh lên cầu thang dẫn đến gác hai. Nó mạnh dạn bước lên mấy bước rồi quyết định rẽ phải. Chỉ thêm mấy bước nữa thôi là nó đã có thể đứng bên cửa sổ nhà bé Liên, nó sẽ liệng con búp bê gỗ qua chấn song sắt. Thế là xong, nhưng nó chưa kịp làm thế. Một tiếng the thé như lưỡi dao rít phía sau nó:
– Ôi, làng nước ơi, thằng trộm!
Hùng phản xạ khá nhanh. Nó quay người lại, chạy như biến xuống cầu thang. Phía sau, tiếng người la hét nhiều thêm. Lúc bấy giờ, Hùng mới sực nhớ đến người đàn bà mà thằng Nam gọi là bác Nga hai đứa đã gặp ở cầu thang trong lần đầu tiên đến đây. Vừa chạy vừa liếc nhìn lại phía sau, Hùng thấy bà ta đang đuổi theo mình, miệng há hốc kêu không thành tiếng. Phía sau có vài người nữa, họ cũng chạy cũng la, nhưng chẳng ai hiểu điều gì xảy ra. Còn người đi đường thì chắc chắn là không hiểu gì hết. Họ không biết ai đang đuổi theo ai, vì sao lại đuổi và đuổi về hướng nào.
Tất nhiên Hùng Lé chạy vào cái ngõ có ngôi nhà đổ. Rẽ vào đây rồi, nó bình tĩnh hẳn lên. Bởi vì, vài chục bước nữa là đến chân tường, nó sẽ nhẹ nhàng chui qua “cái mõm” là thoát. Nhưng một người đàn ông đã đứng chắn mất cái lỗ chui. Ông ta khoanh tay, mỉm cười và điềm nhiên bảo Hùng:
– Lên cầu thang, vào buồng ta ở mà trốn, con!
Giọng ông ta dịu dàng nhưng kiên quyết, Hùng liếc qua bốn phía, nó chỉ thấy con đường duy nhất có thể đặt chân là lên cầu thang, dù đó là một cái cầu thang đổ. Nó trao mình cho số phận, chạy nhanh lên những miếng bê tông lởm chởm. Người đàn ông nhìn theo, lại mỉm cười.
Từ trên tầng hai, Hùng nhìn qua cửa sổ. Bà Nga, theo sau là mấy người đàn bà nữa, chạy đến chỗ người đàn ông. Sau cùng là Nam Quỷnh, thằng bé có lẽ vừa ngủ dậy ngơ ngác như gián ngày. Bà Nga hỏi người đàn ông:
– Bác có thấy thằng bé nào chạy vào đây không? Người đàn ông thản nhiên chỉ cái lỗ dưới chân tường:
– Đây, chuột vào hang rồi, vừa chui qua đây. Có việc gì vậy bà?
– Thằng trộm, đúng là thằng bé đi với lũ trộm vào nhà 154 hôm trước – Bà ta chỉ Nam – Bạn quý của ông mãnh này đây.
Hùng thấy Nam không nói gì, chỉ lắc đầu, vẻ ái ngại. Ôi, giá như Hùng có thể chạy xuống gặp nó, nói với nó những điều cần nói. Nhưng Hùng đành rời khung cửa ngồi lên một tấm phản trong gian buồng vừa trống vừa bề bộn, bẩn thỉu. Trên một cái bàn ba chân có hai thanh bánh mì. Hùng thấy đói hơn vì màu vàng rộm của những chiếc bánh cứ đập vào mắt nó. Nhưng nó quay mặt, cố tình quên những cái bánh hấp dẫn. Nó nghĩ: Đây không phải là bánh của mình. Vả lại, ngày hôm nay nó định nhịn đói. Không nhịn làm sao được khi trong tay chẳng có hào có xu nào, còn trong đầu chỉ có một ý nghĩ: Ta sẽ không ăn cắp nữa.
Người đàn ông bước vào. Ông ta đặt tay lên vai Hùng:
– Một quả điếc hả? Không may nhưng mà là may đấy, con ạ. Vì… con đã được gặp ta.
Hùng nhìn ông ta. Quần áo của người đàn ông bốc lên mùi ngai ngái chua chua của mồ hôi và cáu ghét. Có lẽ ông ta tắm giặt từ năm ngoái hay sao ấy.
– Ta đã cứu con, phải thế không? Con là bụi, một hạt bụi, nhưng từ nay con không là bụi nữa, con sẽ là con của ta. Đây là nhà của con. Bánh của con đó, ăn đi!
Ông là ai? Hùng muốn hỏi nhưng nó sợ đôi mắt người đàn ông. Nó im lặng, cúi đầu nhìn xuống đất.
o O o
Nghe bác Nga kể lại đầu đuôi câu chuyện, Nam chắc thằng bé bị đuổi là Hùng Lé. Nó tin như vậy, mặc dù tận mắt nó không nhìn thấy thằng bạn vừa mới chia tay ở đồn công an cảng. Nó chỉ lạ một điều, Hùng Lé đến đây để làm gì? Phải chăng nó muốn đến gặp Nam? Những điều cần nói, nó đã nói rồi. Ở đồn công an cảng, các chú đã xác nhận lời Hùng nói là đúng. Nếu không ngăn chặn kịp thời, đêm nay bọn Sáu Xồm sẽ đánh quả vào chỗ nào đấy ở cảng. Ai cũng tiếc rằng Hùng đã không ở lại, ai cũng lo ngại Hùng sẽ gặp không may nếu nó lang thang mãi trên đường phố.
Nam thấy việc đầu tiên nó cần phải làm là đi gặp chú Miên. Chú ấy dặn trong thời gian ở lại thành phố, khi cần Nam có thể tìm gặp chú bất kỳ lúc nào. Chú Miên cho rằng vụ này chưa hoàn toàn xong xuôi nếu như các chú ấy chưa gặp và nói chuyện được với Hùng Lé. Chắc Hùng Lé còn biết những điều mà bọn Sáu Xồm giấu giếm.
Chú Miên đưa Nam đến gặp chú cán bộ đã hỏi chuyện và đưa cho Nam xem tập ảnh những người lạ mặt hôm trước. Chú Miên lui ra và trong phòng chỉ còn hai chú cháu: chú Quảng và Nam.
– Suýt nữa thì trôi ra biển hả? – Chú Quảng vui vẻ nói – Các chú ấy bảo rằng cháu khá lắm, chú rất mừng. Mừng nữa là lũ trộm đã được phanh phui nhanh chóng, của cải của nhà bác Thịnh đã được trả lại gần đủ – chú mỉm cười – hầu như chỉ còn thiếu con búp bê. Đứa con gái bác ấy vẫn còn khóc…
– Đó là lỗi ở cháu – Nam đỏ mặt – Cháu đã cầm ở tay thế rồi cháu lại nhờ Hùng Lé giữ hộ. Nó đi mất luôn…
– Thằng bé không đi mất đâu, chắc là chỉ quanh quẩn ở trong thành phố – Chú Quảng lấy hai ngón tay bẹo cằm mình, nói tiếp, dáng suy nghĩ – Nhưng cũng thật đáng tiếc. Giá như Hùng Lé ở lại… thì sẽ tốt cho nó và cho chúng ta…
Nam vội vã:
– Thưa chú, hồi nãy hình như Hùng Lé trở lại chỗ nhà cháu… Chú Quảng buông hai ngón tay khỏi cằm, đứng bật dậy:
– Vậy à? Nhưng sao lại hình như?
– Cháu không gặp nó, nhưng theo lời bác Nga thì chắc là Hùng Lé. Nó vừa ló đầu ra khỏi cầu thang thì gặp bác Nga, bác ấy la lên, thế là nó bỏ chạy.
– Nó chạy đi đâu?
– Nó chạy vào cái ngõ bên cạnh rồi chui qua một cái lỗ hổng nhỏ, biến mất.
– Đúng như thế?
– Cháu không thấy nhưng một người đàn ông đứng ở đó bảo với bọn cháu thế.
Chú Quảng cười, nhưng Nam biết rõ chú cười không phải vì chú đang vui. Chú nói:
– Lại nghe người khác nói. Thật là đáng buồn, phải không cháu? Được rồi, có thể chiều nay chú thử đến chơi chỗ cháu xem sao. Có điều là chú sẽ mặc thường phục, cháu sẽ nhận chú là bạn của bố cháu. Nhớ nhé. Còn bố cháu thì chỉ nội ngày mai là về đến nhà rồi. Các chú đã cho người báo tin cho bố cháu rồi. Sướng nhé!
Được gặp bố, Nam thích lắm, nhưng rồi Nam sẽ nói với bố thế nào về việc đưa Hùng Lé về nhà? Nam định ở lại một hôm rồi tìm cách về quê, Nam sẽ nói hết với mẹ, sẽ nhận lỗi với mẹ. Còn bố, Nam sợ lắm. Bố không dễ tha thứ cho Nam như mẹ đâu. Nhưng dù sao thì bây giờ Nam cũng phải chờ bố rồi…
Chú Quảng lại nói:
– Nhưng ta hẵng trở về với Hùng. Cháu nghĩ về cậu bé ấy thế nào?
Nam nói ngay:
– Cháu thấy nó cũng tốt. Chú Quảng cười dịu dàng:
– Có thể cháu nói đúng. Hùng đã làm một số việc để chú cháu ta có thể nghĩ tốt về nó. Nó đã rủ cháu bỏ trốn khỏi chiếc thuyền. Nó đã nói với cháu về âm mưu sắp tới của bọn lưu manh. Nhưng Hùng Lé có một biệt tài… khá nguy hiểm. Trong bọn bụi đời, không mấy tên có thể mở khóa vào nhà người ta dễ dàng như nó. Để một thằng bé lang thang trên đường phố với chùm chìa khóa đặc biệt như vậy là không nên! Vả lại, chú cháu ta cần phải giúp nó. Hùng thì khác gì cháu? Chỉ có điều là cháu may mắn hơn nó thôi. Thật đáng thương… – Chú bỗng đứng lên, đi lại mấy bước rồi lại ngồi xuống bên cạnh Nam, nói tiếp – Cháu có thấy như thế không? Hùng thật đáng thương. Không hiểu sao chú cứ nghĩ… à, mà thôi ta xuống vườn cho mát. Chú muốn kể cho cháu nghe chuyện này.
Hai chú cháu xuống cầu thang, ra vườn. Chú Quảng kéo Nam ngồi xuống một chiếc ghế đá. Chú im lặng một lúc lâu rồi mới bắt đầu kể:
– Năm một ngàn chín trăm bảy mươi, nghĩa là cách đây mười năm, hồi đó chú công tác ở giới tuyến Vĩnh Linh. Nhiệm vụ trên giao cho đơn vị chú là phải theo dõi những hoạt động tình báo của địch qua giới tuyến. Trong đơn vị, có chú và chú Bình là người Hải Phòng. Tình cờ, hai anh em đồng hương đều được giao cương vị phụ trách, chú là phó còn chú Bình là trưởng. Bọn chú trinh sát dọc sông Bến Hải. Thế rồi hôm đó, trong cuộc săn lùng một tên gián điệp vừa được đánh ra miền Bắc, chú Bình bị nó bắn vào cổ. Chú Bình tắt thở trên tay chú. Trước khi chết, chú ấy chỉ dặn chú hai điều: Một là phải tìm ra và theo dõi tên điệp viên có mật danh Cóc Vàng, hai là sau này có dịp ra công tác ở quê hương Hải Phòng nếu có thể, đưa thằng con chú ấy về nuôi và dạy dỗ cho mẹ nó đỡ khó khăn.
Chú Quảng im lặng một lúc. Rồi chú kể tiếp:
– Vậy mà cả hai việc chú ấy nhờ, chú đều không làm tròn. Cóc Vàng mất dấu vết ở Vĩnh Linh. Nó lộ ra trong vài ngày ở Thanh Hóa rồi biệt tích. Hai năm rưỡi sau các cơ quan phản gián của ta tìm thấy vết tích nó ở Hà Nội, nhưng cuộc săn tìm đang tiếp tục thì nó lại biến mất. Việc thứ hai cũng không xong. Chú tìm đến nhà chú Bình quá muộn, bởi vì công việc không cho phép, cuộc sống các chú ở giới tuyến căng thẳng quá mà! Nghĩa là hơn tám năm sau, ba năm sau chiến thắng, chú mới có dịp trở lại Hải Phòng. Vợ chú Bình không còn ở đấy nữa. Cô ấy đã lấy chồng và theo chồng ra khu mỏ. Chú ra Hòn Gai rồi Cẩm Phả tìm cô ấy. Cũng may, sau nửa tháng trời lận đận nhờ anh em quen biết giúp đỡ, chú đã tìm ra. Chú mừng lắm, tâm niệm rằng khi gặp vợ chú Bình, chú sẽ xin cô ấy đưa con chú Bình về làm con nuôi, dạy dỗ nó nên người, vì nghĩa tình đối với bạn. Nhưng cũng buồn thay, cô Bình và người bố dượng cho biết là thằng bé đã bỏ nhà đi cách đó hai tuần! Ôi, giá như chú về Cẩm Phả sớm được hai tuần! Chú đánh điện xin cơ quan ở lại khu mỏ một tuần nữa. Chú đã nhờ nhiều cơ quan công an và anh em giúp đỡ sục tìm những thị trấn vùng mỏ, nhưng việc tìm kiếm chẳng đi đến kết quả nào. Thế rồi, đến hôm xảy ra vụ trộm và nhất là sáng nay, sau khi nghe các chú báo cáo lại chuyện của cháu và Hùng Lé, chú cứ nghĩ rằng Hùng Lé chính là thằng Nghĩa, con trai chú Bình! Theo chỗ chú biết thì ở thị xã Cẩm Phả lũ trẻ vẫn gọi tên thằng con riêng của cô Bình là Hùng, Hùng Lé và chỉ khi nào có hai mẹ con với nhau, cô Bình mới gọi tên con là Nghĩa. Chắc là cô ấy phải đổi tên con theo yêu cầu của người chồng mới. Người ta không muốn trong gia đình có nhiều chuyện phức tạp, con anh, con tôi đấy thôi. Còn Hùng hay Nghĩa có biết điều ấy hay không, chú không hiểu. Chú chắc rằng nó biết bởi vì khi mẹ nó đi lấy chồng thì nó đã lên tám rồi còn gì. Chẳng nhẽ lại có hai đứa trẻ cùng tên là Hùng Lé, cùng ở Cẩm Phả và cùng một cảnh ngộ. Chỉ có điều trục trặc là chỗ này: Trong câu chuyện kể trên biển cho cháu nghe, nó không hề nói với cháu rằng nó là con liệt sĩ?
– Đúng thế ạ – Nam nói.
– Vô lí! Nhất định con cô Bình biết điều đó. Nhưng thôi, tất cả sẽ rõ ràng nếu chúng ta tìm ra Hùng Lé. Cháu về đi, lát nữa hay chiều nay chú sẽ xuống thăm cháu.
o O o
Nam không vào nhà ngay mà đi thẳng đến cái ngõ. Thật ra, nó cảm thấy có điều gì không được tự nhiên khi nhớ lại thái độ người đàn ông hồi sáng: “Chuột vào hang rồi, nó vừa chui qua cái lỗ này đây!”. Từ câu nói đến nét mặt người đàn ông có điều gì đó không bình thường. Giá như trước đây thì Nam tin ngay, nhưng bây giờ nó đã học được bài học cảnh giác. Người đàn ông ấy là ai? Tại sao lại đứng ở đó đúng lúc vậy?
Nam bước theo lối ngõ, dừng lại trước lỗ “hang chuột”. Khu nhà đổ vắng ngắt vắng ngơ. Có mấy tấm biển đề hàng chữ: “Nhà đổ, nguy hiểm chết người!” với cái đầu lâu và hai khúc xương bắt chéo. Có lẽ nhờ có chúng mà lũ trẻ từ lâu ít bén mảng đến cái ngõ này. Nam đưa mắt nhìn xung quanh. Bỗng nó chú ý đến một mẩu vải phất phơ khi ẩn khi hiện trong khung cửa sổ một gian chuồng cu rách nát tận gác ba ngôi nhà. Có thể đó là một cái khăn mặt. Như thế là có người. Nam đắn đo không biết có nên mạo hiểm leo lên gian buồng đó không? Suy nghĩ một lúc, nhớ lại chuyện theo dõi Sáu Xồm rồi bị hắn bắt cóc xuống thuyền hôm nọ, Nam lưỡng lự. Khôn ngoan hơn cả là đứng canh chừng ở đây, chờ chú Quảng. Nam nhịn cơm, nó lảng vảng đầu ngõ suốt buổi trưa.
Trong lúc đó, Hùng Lé đang lẳng lặng nhai bánh một cách ngon lành. Vốn dạn dày trong cuộc đời gió bụi và thường xuyên phải chạm trán với nguy hiểm đủ điều, Hùng đã mất ngay cái vẻ e sợ ban đầu. Nó vừa ăn vừa quan sát người đàn ông, cố tìm ra trên khuôn mặt, quần áo ông ta những chi tiết nào đó để có thể trả lời câu hỏi gay gắt trong đầu nó: Ông ta là hạng người nào vậy? Nhưng nó cảm thấy khó vô cùng. Việc khám phá ra con người khó hiểu này hình như là quá sức đối với nó.
o O o
Ở trong phòng làm việc của đồng chí công an hộ tịch tiểu khu, chú Quảng và Nam được biết là trong ngôi nhà đổ mang số 138 có một người đàn ông ở. Ông ta tên là Nguyễn Văn Mì, nhân viên bảo vệ của Công ty nhà cửa. Ông ta không có hộ khẩu thường trú ở đây, nhưng có nhiệm vụ đến đây để trông coi khu nhà, chuẩn bị cho việc mở một công trường xây dựng. Ông Nguyễn Văn Mì đến đây đã hai tháng. Đồng chí hộ tịch cho biết từ ngày ông ta dọn đến ở, khu đất bề bộn sạch sẽ hơn hẳn. Người ta không vào đó phóng uế và đổ rác như trước, trẻ con cũng không đến nghịch ngợm hay lấy gạch quẳng vung vãi lung tung trên đường phố nữa.
– Giấy tờ của ông ta? – Chú Quảng hỏi.
– Ông ta có mang đến một giấy giới thiệu của Công ty.
Chú Quảng cảm ơn đồng chí công an hộ tịch rồi kéo Nam ra về. Chú dắt Nam đi bách bộ dọc đường phố. Ngang qua ngõ 138, chú nói:
– Dù sao thì cháu cũng phải giúp chú để mắt tới cái ngõ một chút. Có việc gì thì gặp chú Miên nhé.
– Cháu muốn về quê lắm rồi!
– Thế cháu không đợi bố về à? Cháu không muốn gặp lại Hùng à?
Nam nhớ lại câu chuyện chú Quảng kể rồi nói:
– Vâng, cháu sẽ ở lại ạ.
– Đúng, phải đi đến nơi về đến chốn chứ. Cháu chưa gặp được bố cháu là đi chưa đến nơi về chưa đến chốn đâu…
o O o
Hùng bừng mắt dậy lúc trời đã về chiều. Ngủ quá say vì thấm mệt, đầu óc nó nhức như búa bổ. Gian phòng sáng lên một góc nhờ nắng chiều rọi chếch ngang càng thêm vẻ ma quái. Hùng tưởng mình đang lạc vào một hang động nào cổ xưa, tách biệt hẳn với thế giới bên ngoài.
Ngả lưng trên một cái ghế xếp vải bạt, người đàn ông vừa hút thuốc vừa lặng lẽ nhìn Hùng. Trông ông ta khác hồi sáng rất nhiều, trầm lặng và oai vệ, ra dáng ông chủ nhà.
– Ngủ nữa đi cậu bé – Ông ta nói.
– Cháu ngủ chán mắt rồi.
– Vậy à? Tốt. Ở đây chỉ hiếm một thứ là nước. Con lấy khăn của ta lau mặt cho tỉnh ngủ. Còn con bé kia – Ông ta hất hàm chỉ con búp bê Hùng vẫn cầm trên tay – Hãy đặt lên bàn, trông nó cũng ngộ nghĩnh đấy chứ.
Hùng lấy khăn lau mặt, đặt con búp bê lên bàn, ngồi xuống.
– Ông cho con về… con cám ơn ông. Người đàn ông nhướn đôi lông mày rậm:
– Con hãy gọi ta là ba và ở lại đây.
Hùng thấy chẳng thà nuốt một con chuột còn hơn gọi người trước mặt mình là ba. Vả lại, tiếng ba quá xa lạ đối với nó.
– Không, ông cho con đi…
Lần này nó không nói về mà đi. Người đàn ông nhận ra điều đó.
– Con đi đâu? Chỉ cần ló đầu ra ngõ là con đã rơi vào tay bọn họ. Họ nhẵn mặt con ở đây rồi mà. Vả lại từ trưa đến giờ ta vẫn thấy một thằng bé lảng vảng quanh đây. Một thằng bé vẻ nhà quê đặc trưng nhưng lại nho nhoe làm thám tử, nó đâu có lừa nổi mắt ta. Vậy thì tốt hơn hết là cứ ở lại đây chờ tối. Ta cũng muốn nói với con một câu chuyện…
Ông ta từ từ rít thuốc lá. Rồi ông ta thổi một hơi khói dài lên trần nhà, một mảng trần đã mọc rêu và có những rễ cây li ti đâm từ sân thượng xuống.
– Con biết đấy, ta rất cô đơn – Ông ta trở lại vẻ dịu dàng – Người ta con đàn cháu đống còn khó sống trong tuổi già huống gì ta, một thân một mình trơ trọi. Ta không muốn làm con mủi lòng, nhưng biết thế nào hơn, quả thực hoàn cảnh của ta thật đáng thương. Mẹ con mất sớm, hai anh con đứa chết rồi, đứa làm ăn tận đâu đâu. Thằng bất hiếu, nó coi như trên đời này không còn người đẻ nó ra nữa. Ta buồn lắm, ta chỉ muốn con ở đây với ta, rau cháo với ta, có thế thôi. Con còn e ngại điều gì? Việc ta giúp con thoát hiểm hồi sáng chưa đủ làm con hiểu lòng ta ư?
Hùng lặng im. Quả thật những lời dịu dàng của người đàn ông làm mềm lòng nó.
– Ta không yêu cầu gì con – người đàn ông nói tiếp – Ta chỉ cần một tình thương, con ạ, ta cần một bát cháo lúc ốm, con mang đến bên ta và nói: “Cháo đây, ba ăn đi!”. Con có hiểu ta nói gì với con không?
– Con hiểu…
Hùng biết là nó đã lỡ lời. Nhưng nó không ân hận. Tim nó rung lên. Nó nhìn thấy trước mặt mình một người đàn ông khác. Không phải bộ quần áo ấy. Không có mùi hôi ấy, không có cái nhìn kì dị ấy nữa. Trước mặt nó là một người cha đau khổ. Một người đàn ông đang khao khát tình thương, cũng như nó. Những ngày sống với Sáu Xồm như một vụ hạn hán kéo dài làm khô kiệt bao mạch nước khiến cõi lòng nó trở nên cằn cỗi, lạnh giá. Nó thèm một lời nói dịu dàng, một tình thương yêu. Nó đã có một ông bố và ông ấy chỉ cho nó roi vọt, những cái đạp thô bạo. Nó đã có một bà mẹ hết lòng thương yêu nó, nhưng bà không đủ sức giữ nó lại nhà.
Người đàn ông mỉm cười. Ông đứng dậy, đến bên Hùng vuốt ve tóc nó:
– Vậy chứ, ta cảm ơn con, chính là ta phải cảm ơn con mới đúng. Ta cứu con khỏi trại trừng giới, nhưng con đã kéo ta ra khỏi cảnh cô đơn. Bây giờ ta dặn con: Con đừng ra khỏi nhà nếu ta chưa đồng ý. Chắc con biết người ta đang rình mò con. Nếu người lạ đột ngột vào, khi họ leo qua cầu thang thì con cũng còn thì giờ để lên đây – ông ta chỉ tay lên một cái lỗ vuông trên trần – con hiểu chứ?
Hùng nhìn lên và nó thấy không phải ngẫu nhiên mà cái bàn lại được kê phía dưới cái lỗ.
Tối hôm đó, Hùng ăn cơm, uống một cốc nước chè, một ca nước trắng rồi nằm xuống bên cạnh người đàn ông, ngủ mê mệt.
Sáng hôm sau ngủ dậy nó thấy chỉ còn lại mỗi mình trong gian phòng. Nó dụi mắt nhìn chung quanh. Tất cả vẫn y nguyên: con búp bê gỗ trên bàn, chiếc ghế xếp bên cạnh, mấy hòn gạch lăn lóc đây đó trên nền nhà nứt nẻ và ẩm ướt. Một miếng giấy nhỏ lăn cạnh gối: “Cơm ở góc chạn, bô ở chân giường. Con nhớ cái lỗ trên trần”. Hùng mỉm cười. Ông già chu đáo quá. Nó mở cái chạn vừa cũ vừa ọp ẹp ra. Một chiếc cặp lồng ba ngăn đậy điệm tử tế. Ngăn cơm, ngăn canh, còn ngăn kia là một bìa đậu phụ. Hùng lấy khăn mặt lau qua đôi mắt đầy ghèn, bụng nghĩ: “Không biết ông già kiếm các thứ này từ lúc nào?”. Vốn quen phán đoán mọi tình huống, nó tự trả lời ngay: “Đúng là lúc mình đang ngủ. Vậy lúc mình ngủ thì ông già thức và làm mọi thứ cho mình”. Nó thấy cảm động về sự săn sóc của người mà nó vẫn chưa quen gọi là “ba” ấy. Hùng lấy cơm ra ăn. Nó đã thấy đói. Nó vừa ăn vừa mong sớm được tự do, được ra ngoài và trong ngày đầu tiên ấy thế nào nó cũng làm một việc gì để có thể mua được những thứ cho vào bụng. Bám một ông già hom hem thế này, nó thấy xấu hổ thế nào đấy. Nhưng tất nhiên cửa đã bị khóa bên ngoài. Nó ngán ngẩm ngồi xuống giường, dọn dẹp các thứ lại cho ngăn nắp. Trong khi quét dọn, nó phát hiện thấy một viên gạch trên tường bong ra, phía trong là một cái hốc trống không, một cái tổ chuột nhắt. Hùng nghĩ ngợi, đoạn lấy con búp bê gỗ bỏ vào. Nó nghĩ: “Hãy cất vào đó, rồi sẽ tìm cách trả lại cho bé Liên”. Sau khi lấy một viên gạch che kín con búp bê, nó thấy yên tâm hơn, coi như chuyện thế là xong rồi, không phải nghĩ ngợi gì nữa.
Hùng đứng dậy. Nó không quen bị nhốt chặt trong một căn buồng bẩn thỉu, hôi hám như thế này. Hồi trước nếu cần nhốt nó lại, Sáu Xồm và Muỗi Vằn khóa tay, khóa chân nó. Nhưng nó mở ra được ngay và thênh thang một mình trong con thuyền 162, giữa trời nước bao la. Còn bây giờ là cả một cái địa ngục. Hùng nhìn lên: Khung cửa sổ duy nhất trên tường đã được che chắn kĩ bằng tấm cót cài vào song sắt. Nó muốn hé tấm cót nhìn ra ngoài một chút. Nghĩ sao, làm vậy. Hùng đứng lên phản, kéo tấm cót xuống. Nó cẩn thận lùi vào trong nhìn ra. Nhưng như vậy nó chỉ thấy một đoạn của bức tường trơ những hàng gạch mọc rêu xám xịt. Hùng bước lên và nó liều mạng thò đầu cho chạm vào dãy song sắt. Một làn gió thơm nức mùi hoa lá, mùi nước phù sa đang lên làm tóc nó phất phơ. Hùng hít một hơi dài. Bỗng nhiên tim nó như đứng lại. Nó nhìn thấy thằng Nam, chính là thằng Nam Quỷnh, đang cúi xuống nhặt cái gì dưới đất, lối đi vào ngõ. Đúng rồi, nó nhặt một viên đạn, lắp vào súng cao su và bắn vu vơ về phía ngôi nhà. Hùng tụt đầu vào: Nó đánh giá ngay được sự nguy hiểm. Bây giờ thì không thể đóng tấm cửa lại được nữa. Nam, mày chơi súng cao su thật hay chỉ là giả vờ? Mày có nhìn thấy tao không? Giá như cửa mở thì Hùng có thể tung ra, chạy ngay xuống với thằng Nam, kéo nó cùng đi đến một đồn công an nào đó rồi ra sao thì ra. Nhưng đâu có làm thế được.
o O o
Nam đã nhìn thấy cái đầu tụt vào. Sáng sớm nay nó thấy ông già bảo vệ ra mở cửa, ông ta khóa cửa bằng một cái khóa đồng ngoắc vào hai đầu vòng xích rồi lập cập bước xuống cầu thang. Nam đứng chờ ở đây, nó chắc rằng ông già đi ăn sáng đâu đó rồi sẽ trở về. Nhưng chờ mãi, chờ mãi vẫn không thấy ông ta trở lại. Nó muốn chờ ông ta trở về, như lời chú Quảng dặn, xem có gì khác thường không. Nó thất vọng. Một người đàn ông rời khỏi căn buồng mình vào sáng sớm. Ông ta khóa cửa lại rồi xuống cầu thang. Tất cả những chuyện ấy thì có gì lạ? Nhưng điều khác thường đã xảy ra. Nam không thể nghi ngờ đôi mắt mình. Nó đã nhìn thấy một cái đầu. Nam phải tin cho chú Miên, chú Quảng biết mới được.
Nam chạy đến nhà chú Miên. Chú đi vắng. Nam lên cơ quan gặp chú Quảng. Nó sải bước như có ai đuổi, nó muốn gặp chú Quảng mau mau. Bởi vì nó nóng ruột. Nó nghĩ đến Hùng Lé. Nam nghĩ về Hùng Lé từ hôm qua đến giờ, có lẽ vì thế mà nó nhìn gà hóa cuốc chăng? Gặp chú Quảng thì Nam phải nói thật với chú những điều nó nghĩ mới được.
Chú Quảng đi vắng, một chú đưa Nam vào phòng của mình. Chú hỏi Nam:
– Cháu là Nam phải không?
– Đúng ạ.
– Chú Quảng có nhờ chú chuyển cho cháu một lá thư.
Đây, cháu đọc đi.
Chú rút trong ngăn kéo ra một chiếc phong bì, dán lại hẳn hoi, Nam lấy lá thư ra. Thư viết:
Cháu Nam của chú! Không ngờ chú cháu ta phải chia tay đột ngột và chú không còn thì giờ để gặp cháu nữa. Chú phải đi công tác xa, vừa xa vừa lâu, chưa biết còn có dịp trở lại Hải Phòng gặp cháu nữa không.
Chú chỉ buồn vì phải chia tay cháu mà chưa được gặp bố cháu. Chú đã định bụng về quê cháu chơi một hôm. Đành khất cháu vậy. Việc buồn thứ hai, như cháu đã biết đấy, chú chưa đủ thời giờ tìm ra Hùng Lé. Vụ Sáu Xồm coi như đã đóng lại rồi, chúng nó sẽ ra tòa nay mai. Nhưng riêng chú, chú muốn tìm ra Hùng. Nếu như Hùng đúng là con của chú Bình thì sao? Gặp được nó, lòng chú đỡ ân hận.Vậy mà chú phải đi ngay. Chú nghĩ là cháu có thể giúp chú tìm Hùng. Cháu có thể ở lại thành phố với bố một thời gian nữa không? Tất nhiên không thể qua vụ hè này bởi vì cháu còn phải tựu trường vào tháng Chín. Cháu hãy cố tìm được Hùng! Chú cũng đã nhờ chú Miên và các chú khác giúp đỡ, nhưng các chú ấy quá bận. Vả lại, Hùng không còn là một đối tượng quan trọng của các chú ấy nữa. Nếu gặp được Hùng rồi (chú cầu mong cháu gặp được nó) cháu hãy dẫn nó đến chú Miên. Các việc về sau, chú Miên sẽ lo giúp. Nam thân yêu của chú! Cháu hãy kể lại mọi chuyện với bố cháu và xin bố cho ở lại. Cháu cũng đừng quên viết thư cho mẹ để mẹ khỏi lo. Chú nhờ cháu nói với bố rằng chú Quảng gửi lời thăm sức khỏe và lời yêu cầu tha thiết cho cháu ở lại. Chú tin rằng cháu sẽ thành công nhờ vào sự thông minh, tấm lòng tốt của cháu. Và nhờ có những sự tình cờ ít ai ngờ đến nữa.
Đến chỗ công tác mới, chú sẽ gửi địa chỉ và viết thư cho cháu.
Nam rơm rớm nước mắt:
– Chú Quảng đi từ bao giờ ạ?
– Cách đây hai tiếng rồi. Được lệnh là chú ấy sắp xếp ba lô, lên xe đi ngay.
o O o
Dù đã quen chạm trán với nguy hiểm từ lâu, Hùng vẫn hồi hộp. Nó cảm thấy mắc hợm để ông già nhốt lại trong căn buồng tối tăm. Cái lối thoát lên trần nhà không làm nó yên tâm chút nào. Hùng chỉ mong ông già về sớm. Nó định chờ ông ta về là sẽ đi khỏi đây. Đối với nó, vỉa hè và sân ga quen thuộc hơn, an toàn hơn. Nó sẽ tìm việc làm, có thể sẽ đến săn sóc người bố nuôi những lúc rỗi rãi và làm chủ cuộc đời mình chứ không thể tiếp tục ẩn náu như con chuột thế này mãi được.
Ba giờ chiều, ông già mới về, mệt mỏi, mặt càu cạu. Nhưng chỉ một lát, ông ta tươi tỉnh ngay. Ông vui vẻ bảo Hùng:
– Con nóng ruột lắm hả? Biết làm thế nào được khi phải trốn tránh. Nhưng ta sẽ tặng con món quà này…
Ông đặt cái túi xách tay xuống nền nhà, lấy ra một chiếc sơ mi ca rô và một quần vải chéo may khá đẹp. Ông đưa cho Hùng, bảo mặc thử. Vừa quá, cứ như là đi cắt may vậy.
– Đêm nay con sẽ được ra ngoài, sẽ được rong phố. Ta không muốn con ăn mặc như lũ bụi thế kia. Hãy chịu khó ẩn nấp ở đây một thời gian ngắn rồi ta sẽ cho con đến chỗ khác. Lúc đó mọi chuyện chắc đã ổn cả rồi!
Trong chiếc túi xách có bánh mì kẹp pa-tê, mấy quả chuối và một gói lạc rang, một chai rượu màu xanh.
– Đây là bữa chiều của hai bố con. Ăn đi!
Đường phố lên đèn được một lúc, ông già bảo Hùng:
– Đêm rồi. Đêm là của con – Ông ta cười – Chúng ta là những con chim đêm – Như lỡ lời, ông ta chữa lại – Đấy là ta muốn nói đến hoàn cảnh của con hiện nay. Ta sẽ tìm cho con một việc làm tử tế, kiếm ăn được. Chẳng phải là ta không nuôi nổi con đâu, nhưng ta muốn con ta phải được sống đàng hoàng, phải không con? Một thời gian ngắn thôi, chẳng ai gây phiền phức cho con được nữa. Bây giờ ta nhờ con một việc nhỏ này, con giúp ta nhé?
Ông ta lấy trong túi xách ra hai cái bánh nướng gói lại trước mắt Hùng. Rồi ông rút ví ra, đưa Hùng một tờ giấy mười đồng còn mới:
– Việc nhỏ thôi: Ta có một người bà con bị ốm, một người bà con xa, nhưng quá nghèo. Bà ta bị một bệnh kinh niên, không làm ăn được. Mà con cái thì đông, ông chồng lại nát rượu. Ta vẫn giúp đỡ bà ấy. Nhưng phiền quá, phiền cả mình lẫn người ta. Mình chẳng có gì ra tấm ra miếng để cho, người ta thì xấu hổ. Con đưa món quà này đến số nhà 174 phố S, trước nhà có một cây cơm nguội bị gãy sau trận bão vừa rồi. Con gõ cửa, sẽ có người ra, con nói: “Chị Thảo gửi quà cho các em…”. Chị Thảo là người thân của gia đình, ta nói chệch vậy họ mới chịu nhận. Thương quá, bầy con quanh năm nhịn thèm. Sáng nay, ta vừa biết là bà mẹ lại bị cúm hay sốt xuất huyết gì đó. Ta sẽ đến thăm bà vào ngày mai, nhưng làm sao mỗi ngày gửi đến cho lũ trẻ chút gì đó. Ta hay động lòng, nhưng trời lại bắt ta nghèo khó. Còn những lũ giàu tiền thì nghèo lòng trắc ẩn, phải không con?
Ông già lại mở gói bánh ra. Ông ta lấy dao nhíp cắt hai cái bánh nướng thành những miếng nhỏ trước mắt Hùng. Vừa làm ông ta vừa nói: “Dạo này bọn gian thương hay bán đồ giả. Có khi vỏ bánh nướng bên ngoài nhưng ruột lại là khoai lang!”. Ông lấy tờ mười đồng trong tay Hùng, đặt lên bánh, gói tất cả lại, lấy một sợi dây nhỏ hình chữ thập rồi thắt nút như người ta gói thuốc bắc.
Hùng cầm trong tay gói bánh, thản nhiên leo cầu thang xuống đất. Nó cẩn thận nấp sau một cái cột xem có ai để ý đến mình không rồi bình tĩnh bước ra phố. Trên đường đến phố S, nó phải rẽ hai lần. Cả hai lần nó đều giả vờ đứng lại để xem có đuôi không. Yên trí, nó đi tới. Việc làm và những lời nói nhân từ của ông già làm Hùng cảm động. Kể ra, lúc đầu Hùng có nghi ngại, không biết ông già có thể giấu cái gì trong hai chiếc bánh. Nhưng ông đã cắt bánh trước mắt Hùng. Con người tử tế và ý tứ làm sao, cho bà con một gói quà thôi mà cũng cẩn thận thế.
Hùng tìm đúng số nhà, gõ cửa. Cánh cửa gỗ mở ra. Một cô gái chừng hai mươi tuổi, đứng chắn kín ở cửa hỏi Hùng:
– Có việc gì thế em?
– Chị Thảo gửi quà cho các em…
– Vậy à? – Cô gái cầm gói quà, nhìn rất kĩ mối buộc. Chị ta nhìn lại một lần nữa rồi bảo Hùng – Cảm ơn em. Nhờ em đưa cho chị Thảo cái này – cô ta quay vào lấy đưa cho Hùng một gói sáu bao diêm – em bảo nhà vừa mua được diêm mậu dịch, chị lấy một ít mà dùng. Khổ, chị vẫn kêu một tuần nay không có diêm nhóm bếp.
Hùng ra về. Nó đã làm xong việc ông già nhờ. Bây giờ được ra ga chơi một chút, tìm mấy thằng lỏi quen kháo chuyện thì thú vị đấy. Nhưng hẵng về nhà, mai đi cũng được. Nó rẽ vào một phố mất điện, đi về ngôi nhà đổ.
o O o
Nam từ cơ quan chú Quảng về, nấu cơm xong thì nhìn thấy bố. Bố đen như thợ lò, nhưng béo và khỏe ra. Nam nhận ra bố từ đằng xa, cách nhà đến hàng chục cây phượng. Từ trên gác hai nó phát hiện ra ngay dáng đi tất tả, quả quyết của bố. Như mọi lần thì nó chạy ngay xuống đường rồi cứ thế mà đánh đu vào tay bố, bắt bố “xách” về tận nhà như xách một cái túi. Nhưng Nam lùi ngay vào nhà, lúi húi bên nồi cơm đã ghế xong. Nó châm thêm một bếp dầu nữa, bắc nồi, đổ nước luộc mì. Nếu kịp, bố về có mì ăn ngay, bố sẽ ngạc nhiên, thế là bố quên hết mọi chuyện. Nhưng tiếng dép của bố đã lê ngoài cầu thang. Tiếng dép ấy thì không lẫn được. Hai tai Nam nóng nhừ.
Cửa mở.
– Bố! – Nam đứng dậy hai tay vẫn còn cầm đôi đũa.
– Con nấu cơm đấy à? Cho bố ăn với, mì cũng được. Chà, có mì là tốt rồi.
Bố vứt cái túi du lịch xuống giường, rút khăn lau mặt, lau tay rồi ngồi xuống ghế. Ngực áo bố phanh ra, mồ hôi nhễ nhại.
– Mẹ với em có khỏe không? Mùa khá chứ? Con thỏ đen thế nào rồi? À này, hôm trước bố nhìn thấy ở Quý Kim có nhà nuôi một con thỏ nặng đến bốn kí lô đấy.
Bố cầm khăn ra vòi nước rửa mặt. Nam ghé đầu ra cửa nhìn theo bố. Ngang chỗ nhà bác Thịnh, bố đứng lại bên cửa sổ hỏi chuyện bé Liên (chúng nó vẫn bị nhốt trong nhà từ khi bác Thịnh lấy lại được đồ đạc, mà lần này những hai cái khóa cơ).
Ăn cơm xong, bố hỏi:
– Nào, cậu cả, cậu kể tôi nghe, chuyện gì đã xảy ra? Nam kể một thôi.
– Suýt nữa nhá – Bố nói – Nhưng cũng được một bài học. Bây giờ bố thử đặt ra mấy chữ nếu, bố hỏi con nhé. Nếu… bác Thịnh không lấy lại được đồ đạc? Nếu Sáu Xồm tìm thấy trong tận cùng ngăn kéo của bố tấm bản đồ nhà máy đang mở rộng? Nếu con và Hùng Lé cứ trôi ra Biển Đông?... Chuyện gì sẽ xảy ra nào? Toàn những chuyện tày đình cả. Nhưng thôi, ta nói đến chuyện Hùng Lé. Con thấy thế nào?
– Bố cho con ở lại thành phố với bố một thời gian nữa.
– Để làm việc chú Quảng nhờ?
– Vâng ạ.
– Được. Bố nói thêm với con. Đâu phải vì chú Quảng nhờ, mà bố thấy đó là việc của con. Bố sẽ giúp con. Nhiều người tốt bụng sẽ giúp con. Nhưng tối nay bố sẽ dẫn con đi xem phim cái đã. Ưng chứ?
Và hôm ấy, Hùng Lé ra đi mà không có cái đuôi vì cái đuôi đang ngồi trong rạp Lê Văn Tám theo dõi chàng Rôbinxơn dũng cảm.
Trên đường từ rạp về, Nam đã mạnh dạn hơn. Nó cầm chặt tay bố. Cả hai đều bước rất chậm. Chợt bố hỏi:
– Theo con thì có lẽ Hùng đang trốn trong ngôi nhà đổ với người đàn ông à?
– Khi nhìn thấy cái đầu của ai đó thụt vào trong khung cửa sổ, con nghĩ ngay đến Hùng Lé.
Bố đưa tay xem đồng hồ:
– Bây giờ còn sớm, hai bố con ta hẵng đến thẳng ngôi nhà đổ. Bố sẽ dẫn con vào nhà ông ta đàng hoàng. Để bố nghĩ một cái cớ nào đó… Được rồi, bố thương lượng với ông ta cho tiểu khu mượn miếng đất đủ kê một bàn bóng bàn cho trẻ em, ngay trong khu vực ông ta trông coi. Chắc ông ta cũng biết bố là ủy viên ban đại diện nhà.
Hai bố con phải quẹt gần hết một bao diêm mới lần được lối lên cầu thang. Đèn trong nhà tắt, ông già đang ngả lưng trên chiếc ghế xếp, điếu thuốc lá lập lòe trên môi. Ông ta mở cửa châm đèn, trải một chiếc chiếu xuống đất mời khách ngồi. Ông kêu ca với “ban đại diện” rằng trẻ con thường hay vào đây nhặt trộm gạch vụn, có đứa còn lấy gạch ném ông, một lão già yếu đuối, cô đơn. Rồi ông bắt đầu ca cẩm về giá cả thị trường, về đồng lương ít ỏi, về cuộc sống buồn chán của mình và cuối cùng là chửi bọn mậu dịch viên cửa quyền, ăn bớt.
– Quý ông xem, suốt ngày ngồi một chỗ, tự đấm lưng cho mình! Cơm cũng không buồn nấu lấy mà ăn nữa – Ông ta ngước mắt lên trần – Lại không biết bao giờ cái của nợ này nó sụp xuống đầu. Lúc ấy thì tôi bẹp lại như con gián. Ái chà, chẳng có hớp nước mà mời khách!
Nam thấy ông ấy nói rất to, to quá mức cần thiết. Vì chỉ có ba người trong gian phòng hẹp này thì nói thầm cũng nghe được rồi. Bố ngồi nghe, mỉm cười, vẻ ái ngại:
– Sao bác không tìm một đứa con nuôi cho nó vui nhà?
– Quý ông không nói bỡn đấy chứ? Con tôi đẻ rứt ruột ra còn chẳng ăn ai nữa là! Quý ông xem, hai thằng con trai mà bây giờ thế này đây!
– Xin lỗi bác, quý danh bác là gì nhỉ? – Bố hỏi.
– Tôi tên là Mì ạ, giấy tờ tôi đã nộp công an hộ tịch từ hôm xuống đây.
– Vâng, bác Mì này, hay là tôi bảo cháu thỉnh thoảng đi lại với bác cho vui, xem có đỡ đần được gì không? Cháu mới học lớp sáu thôi, cũng rỗi. Nam! Liệu con có khiêng nước hộ bác được không?
Từ hôm gặp và cho đến cả hôm nay nữa, Nam chưa hề có cảm tình gì với ông ta. Nó thấy ông ta thế nào ấy. Nó im lặng. Nhưng rồi chợt hiểu mục đích của bố, nó trả lời:
– Dạ, được ạ! Ông già giãy nảy:
– Xin cảm ơn lòng tốt. Nhưng nước, chao ôi là nước, mỗi ngày tôi dùng hết bao nhiêu? Hai cặp lồng, vâng chỉ thế ạ. Một để rửa mặt, một để nấu cháo, còn nấu cơm thì chỉ hết nửa cặp lồng thôi.
Rồi ông ta quay sang khen Nam nức nở:
– Cậu bé ngoan quá đi mất. Chà, trông giống bố như hai giọt nước vậy.
Thực ra ai cũng nói Nam giống mẹ hơn là giống bố.
– Cậu thỉnh thoảng sang chơi thì còn gì bằng. Nhưng nguy hiểm là cái cầu thang và dãy tường sắp đổ. Thế nào cũng có ngày nó đè gãy lưng lũ trẻ cạy gạch trộm cho mà xem. Công ty lại kỷ luật tôi mất thôi!
Bố Nam chuyển sang mục đích cuộc thăm. Ông già từ chối, giọng ôn tồn:
– Kể ra ban đại diện quan tâm đến các cháu như vậy thì quý hóa quá, nhưng ông thông cảm cho, ở đây cái gì cũng chực đổ xuống cả. Để các cháu vào, tôi không an tâm được.
Bố nói rằng rất thông cảm điều đó và xin phép ra về. Lúc xuống cầu thang, vì hết diêm, nên hai bố con đành phải nhích từng bước một. Nam đâu ngờ rằng, nấp sau một bụi tầm gửi mọc sau cánh cửa căn buồng, Hùng Lé đã nhìn thấy, đã nghe hết đầu đuôi câu chuyện. Khi ngang qua bụi cây, suýt nữa thì Nam giẫm phải bàn chân nó.
Khi biết chắc là bố con Nam đã đi ra ngõ, Hùng đẩy cửa vào buồng. Ông già nhanh nhẹn liến thoắng hẳn lên. Ông ta săn đón:
– Con có nghe ba nói chứ? Ba cố tình nói to lên là để cho con biết nhà có người. Đúng là thằng bé nhà quê ba thấy hôm qua.
Hùng đưa ông mấy bao diêm cô gái gửi. Ông cầm lấy vui vẻ:
– Có diêm à? Vậy là tốt! Con của ba ngoan quá. Nhưng hẵng chuồn khỏi đây ngay đã, con ạ. Ba sẽ đưa con đến nhà chị Thảo… mèo đã ngoáy đuôi vào hang chuột rồi, chuột phải đi thôi.
Khoảng mười lăm phút sau, hai “bố con” xuống vườn, đứng lại một lúc rồi lần lượt chui qua cái lỗ thủng ở chân tường, biến mất trong những căn nhà bát úp kéo dài đến tận phố bờ sông.
Thế là từ hôm đó Hùng ở lại với “chị Thảo”. Chị Thảo thực ra là một người đàn bà trạc bốn lăm, năm mươi tuổi gì đó. Ông già bảo Hùng gọi bà ta là má rồi căn dặn:
– Má là người tốt bụng. Má sẽ chăm sóc con hộ ta cho đến ngày con có thể ngang nhiên đi lại trên đường phố mà không sợ ai. Má nhiều việc, lại phải đi đây đó luôn, con nên cố gắng giúp đỡ má.
Ông già hôn chụt một cái rõ kêu vào má “chị Thảo” rồi ra phố, nhanh như một con sóc.
Nếu ông già là một người lắm lời, hay dùng những câu âu yếm để khen ngợi, chuyện trò với Hùng Lé thì má Thảo lại khác hẳn. Suốt ngày má chẳng nói một câu, đôi mắt luôn lo âu, miệng thì lẩm bẩm tính toán điều gì. Từ ngày Hùng đến, bà ta giữ riết Hùng trong nhà và hình như bà không biết làm bất cứ việc gì nữa. Cơm nước, giặt giũ, quét dọn, tất cả đều do Hùng làm. Hùng tự hỏi: Không biết trước khi Hùng đến, bà ta có ăn không, có tắm giặt không? Nó muốn bỏ đi, đi thật xa, không trở lại với ông già nữa. Nhưng rồi nó tự nhủ: “Hẵng để một thời gian nữa xem sao!”. Không phải nó thích buông thả đời cho số phận, mà là vì không có cách nào hơn.
Làm việc vặt nhiều, mất tự do, không được nói, được đùa, nhưng bù lại, má Thảo cho ăn rất khá. Bữa nào nó cũng phải xào rán một thứ gì. Nhà ở thì đàng hoàng, rộng rãi, không chê được. Ba phòng thênh thang, nhà tắm hố xí máy và bếp riêng. Má Thảo bán hàng khô. Hành, tỏi, lạc nhân và các thực phẩm linh tinh khác. Nhưng hình như hàng của má đắt giá so với những cửa hàng khác trong phố. Nên Hùng thấy rất ít khách đến mua. Có ngày chỉ bán được vài đồng, má Thảo không lấy làm buồn về chuyện đó. Thỉnh thoảng má lại kêu nhức đầu, đóng cửa hàng im ỉm suốt ngày. Đi ra phố, trở về, lúc má vui như hội, lúc buồn thiu.
Còn ba thì biệt tích, không hề quay lại lần nào. Được dăm hôm, má Thảo bảo Hùng:
– Con sửa soạn đi Hà Nội với má.
Hùng dạ khe khẽ. Nó rất mừng vì được đi Hà Nội, được xa cái thành phố đầy nguy hiểm đối với nó. Nhưng nó không hề lộ ra mặt.
Cô gái hôm nọ đến trông nhà cho má Thảo và hai má con lên tàu đêm, ra đi.
Ở Hà Nội, Hùng bị nhốt chặt trong phòng. Cửa không khóa, nhưng phòng bên cạnh có một gã thanh niên to như vâm, chân hơi khuỳnh, ngực nở, bắp thịt cuồn cuộn và có một đôi mắt chim cắt. Hễ Hùng mở cửa là gã cười nhăn nhở, hỏi ngay:
– Đi đâu vậy, chú em?
Hố xí, nhà tắm đều ở trên gác. Hùng không có lí do gì để xuống phố nữa.
“Má Thảo” gửi Hùng cho gã thanh niên “trông coi hộ” rồi đi biệt tích. Hùng muốn thoát ra khỏi chỗ này quá nhưng Hà Nội quá lạ lẫm đối với Hùng. Những lời hứa hẹn của ông già không làm cho Hùng yên tâm nữa. Nó cảm thấy mỗi ngày một xa cuộc sống mơ ước. Và chính trong căn phòng đó, sự nghi ngờ lớn dần lên. Lần đầu tiên Hùng tự hỏi: “Ba, má là ai?”. Sáu Xồm và Muỗi Vằn thì quá rõ. Bước lên thuyền 162, Hùng đã biết họ là ai, họ đang làm gì, họ muốn ở Hùng những gì. Nhưng ba và má – những người tử tế, có nhà cửa, có đồ đạc, có sổ hộ khẩu, không như bọn Sáu Xồm nay đây mai đó, họ ăn nói lịch sự, nhân từ, họ nuôi nấng Hùng chu đáo tử tế – họ là ai? Những câu hỏi khác nhau giày vò đầu óc Hùng, làm nó ăn không ngon, ngủ không yên. Nó cảnh giác.
Ba hôm sau, má Thảo trở về, mang theo một cái túi đựng măng khô và quả mắc coọc. Một túi khác, nhỏ hơn, đầy những quả tai chua. Má vào phòng Hùng ngay. Khác với vẻ lầm lì mọi ngày, má vồn vã:
– Con tôi chồn chân lắm hả? Thôi, chịu khó tí nữa. Tối nay má con ta sẽ lên tàu…
Má gọt quả mắc coọc cho Hùng ăn, hết quả này đến quả khác. Tối hôm đó hai má con ra tàu. Gã thanh niên đô vật đi tiễn, nhưng Hùng thấy gã đi sau má Thảo khá xa. Khi má Thảo và Hùng vào sân ga thì gã đứng ở cửa soát vé nhìn theo hai người, cho đến lúc tất cả bị bóng tối che khuất. Má Thảo lấy vé cho Hùng hẳn hoi, nhưng chỗ ngồi lại xa nhau. Hùng đầu toa, gần phòng vệ sinh, còn má Thảo ở giữa. Bên cạnh Hùng là một anh bộ đội. Còn cạnh má Thảo là một cặp vợ chồng trẻ. Họ gọt dứa cho nhau ăn. Toa tàu chưa có điện, vừa nóng vừa tối. Hùng nhớ lời má Thảo dặn: “Con phải làm như không hề quen biết gì má cả, nghe không?”. Tuy vậy, Hùng vẫn không rời mắt nhìn theo má Thảo. Má đang bình thản chải đầu dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn dưới sân ga.
Tàu qua Gia Lâm. Điện trong toa bật sáng, Hùng bình tĩnh nhìn ra ngoài cửa sổ khi người soát vé, công an đường sắt mặc áo vàng qua chỗ Hùng, đến toa bên cạnh. Nhưng mắt Hùng không rời má Thảo. Má không chải đầu nữa. Má chống tay lên cằm, nhìn về phía cuối toa, vẻ tư lự. Cái túi đựng tai chua đặt gọn trong lòng. Hùng nhìn theo tia mắt má. Hùng thấy đứng ở lối đi phía cuối toa có một người thanh niên, mặc quần áo bảo hộ màu cỏ. Anh thanh niên chống một tay vào cửa thông sang toa bên, lơ đễnh nhìn những cái quạt đang quay tít trên trần toa, gần hàng xích đông để hành lí. Anh có vẻ buồn ngủ và mệt mỏi. Hùng thấy anh ta lơ đễnh nhìn, lơ đễnh gõ ngón tay vào cánh cửa. Nhưng anh bỗng rời mắt khỏi những cái quạt. Anh lia mắt dọc dãy xích đông chất đầy hành lí, vẫn lơ đễnh nhìn. Nhưng có lẽ trong con tàu chỉ có Hùng biết rằng anh ta không hề lơ đễnh. Anh như điểm từng cái túi, chiếc cặp và bao bì chất đống lộn xộn trên xích đông. Tia mắt anh dừng lại một chớp chỗ cái túi đựng tai chua trong lòng má Thảo. Rồi anh lại lơ đễnh nhìn những cái quạt. Những cái quạt quay tít trên trần toa tàu. Đến lúc này, Hùng biết có một người nữa biết rằng anh thanh niên không hề lơ đễnh. Đó là má Thảo. Má đã thôi chống tay lên cằm. Má lấy lược chải đầu, soi gương rất lâu. Má không muốn quay lại nhìn Hùng. Má đang nhìn Hùng qua cái gương soi. Hùng biết rõ, từ đây giữa má Thảo, cái túi trong lòng má và anh thanh niên có một sợi dây vô hình ràng buộc. Hùng chắc chắn anh thanh niên không hề để ý đến mình.
Tàu vẫn chạy với tốc độ cũ, không dừng ở mấy ga xép. Khách trên tàu đã ngủ gật gù. Đôi vợ chồng trẻ ngồi cạnh má dựa vào nhau mà ngủ. Má Thảo có vẻ bứt rứt. Chỉ Hùng biết điều đó. Hùng nhìn thấy lưng má giựt giựt sau làn áo mỏng.
Anh thanh niên vẫn gõ gõ ngón tay vào tấm kính cánh cửa thông toa. Hùng thấy bên ngoài có người dán mắt vào tấm kính. Bỗng cánh cửa mở toang. Một gã thanh niên vai bè bè cánh phản bước vào như một con gấu đâm sầm vào anh thanh niên.
– Đứng với ngồi ngang như cua gạch! – Gã thanh niên mới vào mắng anh thanh niên kia. Rồi gã đưa hai tay xoay người anh ta, kéo lại sát mặt mình.
– Lậu vé hả, chú mình?
Cãi nhau. – Gã thanh niên quay đầu lại phía giữa toa, đưa mắt cho má Thảo. Hùng nhận ra gã. Chính gã, gã là người “chăm sóc” Hùng trong mấy ngày vừa qua. Khách đi tàu tỉnh giấc. Mấy cô gái dồn cả về một phía để xem cãi nhau. Một nhân viên soát vé đi tới. Anh ấy dẹp mọi người ra, mời cả hai người – anh thanh niên nhỏ nhắn và gã to xác – sang toa bên gặp trưởng tàu vì cả hai cùng không có vé. Gã thanh niên to xác thì bảo rằng gã làm mất vé trong vụ cãi lộn. Còn anh kia nói rằng anh ta nhảy tàu, chưa kịp mua vé.
Khi người nhân viên đường sắt kéo được cả hai sang toa bên, sợi dây vô hình bị cắt đứt. Hùng biết là má Thảo đã được “giải vây”. Má bình tĩnh, nhưng quyết đoán và nhanh như chớp, đứng dậy bước tới nhà vệ sinh. Ngang qua chỗ Hùng, má khẽ đá vào chân nó. Má đã vào nhà vệ sinh, Hùng nhìn xuống đất, dưới chân Hùng là một cái túi nhỏ đựng quả tai chua. Hùng ngần ngừ một chút rồi lấy chân đẩy nó vào dưới ghế.
Má Thảo trở lại rất nhanh. Má ngồi vào chỗ cũ. Đôi vợ chồng trẻ cạnh má vẫn ngủ gật. Lát sau, anh thanh niên nhỏ nhắn trở lại. Anh không chống tay lên cửa mà xin ngồi ghé vào một ghế sát cửa thông toa. Anh vẫn lơ đễnh. Anh nhìn những cái quạt, những gói hành lí và dừng lại một chớp ở cái túi trong lòng má Thảo.
Một bà cụ bắt chuyện anh thanh niên nhỏ nhắn:
– Họ có phạt không?
– Dạ, có ạ – Anh trả lời.
– Cái chú lấc cấc kia đâu rồi?
– Mua vé về Hải Dương rồi ạ.
– Thật là chẳng có gì mà cũng thành chuyện cãi nhau! – Bà cụ nói tỏ ý tiếc.
– Vâng ạ – Anh thanh niên đưa đẩy – Chẳng có gì.
Trong khi anh ta nói chuyện với bà cụ, Hùng vẫn thấy anh ta lơ đãng nhìn cái quạt, đống hành lí và dừng lại một chớp mắt khoảng ghế má Thảo ngồi. Anh có vẻ thảng thốt. Anh ấy biết chiếc túi nhỏ đựng tai chua bị tráo đổi chăng? Nếu vậy thì là một cái “đuôi” có hạng đấy.
Cửa mở. Một anh công an áo vàng, một cán bộ thuế đeo băng và một chị soát vé bước vào.
– Đề nghị quý khách cho xem lại vé – Chị soát vé nói.
– Xin phép bà con cho kiểm tra hành lí – Người cán bộ thuế có đeo băng nói. Anh đưa tay chỉ một gói hành lí.
– Xin lỗi, gì đây ạ?
– Quần áo – Một cô gái trả lời.
– Xin lỗi, gì đấy ạ? – Anh chỉ vào một chiếc bao tải to tướng.
– Tôi mang về Phòng cho các cháu ít khoai – Bà cụ vừa hỏi chuyện anh thanh niên trả lời.
Anh cán bộ thuế nghiêng người bên này, bên kia. Anh không bỏ sót gói hành lí nào. Khi được trả lời anh tin ngay,
không mở ra xem người có hành lí nói sai hay đúng. Ngang qua chỗ má Thảo, anh chỉ cái túi trong lòng má, lễ phép:
– Xin lỗi bà, túi gì đấy ạ?
– Vài gói măng với một ít mắc coọc về làm quà đất cảng thôi – Má Thảo trả lời.
– Bà mở cho xem.
– Vâng. Mời bác tự nhiên.
Má tự đổ các thứ vào tấm ni lông nhỏ trải xuống nền toa tàu. Ba gói măng khô và năm quả mắc coọc rơi ra với gương, lược, khăn mặt, bàn chải đánh răng. Má Thảo dốc ngược cái túi, vỗ vỗ phía đáy:
– Chỉ thế thôi ạ.
Khách đi tàu nhìn má, vẻ khâm phục về thái độ hòa nhã, tử tế và tôn trọng cán bộ của má.
– Xin cảm ơn – Anh cán bộ thuế nói, mặt anh mất vẻ điềm tĩnh.
Cả mấy người bước tới hàng ghế sau, tiếp tục hỏi nhưng rõ ràng người cán bộ chỉ hỏi chiếu lệ.
Tất nhiên trong toa tàu chỉ có Hùng biết rằng dưới chân nó có một túi đựng tai chua. Nó lấy gót chân đá cho cái túi tụt sâu vào bên trong rồi cúi đầu xuống mặt bàn con, nó giả vờ ngủ.
Hùng không ngủ. Nó đang điểm lại chuỗi sự việc từ hôm bị bác Nga đuổi rồi chạy vào trú trong căn buồng chuồng cu đến nay. Thái độ ân cần chăm sóc, giọng nói nhân từ, gói bánh, mấy bao diêm, má Thảo, gian hàng khô không cần khách mua, chuyến đi Hà Nội, sợi dây vô hình trong những cái nhìn, gã đô vật… Còn những chỗ nó không giải thích được cặn kẽ. Nhưng lần chuỗi sự việc ấy, Hùng biết được thân phận mình. Người đàn ông giàu lòng thương người kia và má Thảo đang cần Hùng. Họ nhặt Hùng ở vỉa hè lên để vứt nó vào những căn buồng, những toa tàu với những cái túi mờ ám. Không, Hùng không muốn rời vỉa hè và con thuyền 162 đen tối để chui vào thòng lọng của bọn họ. Hùng muốn điều khác. Hùng muốn được sống, được đi lại thênh thang trên đường phố như bao đứa trẻ khác. Nó nghĩ: Biết thế này thì hôm ấy cứ đi với thằng Nam vào đồn công an cảng còn tốt hơn. Thôi, bây giờ vẫn chưa muộn. Chỉ còn phân vân một điều không biết trong cái túi này chỉ có tai chua hay có thứ gì khác? Mặc, ta sẽ trả lại cho má Thảo rồi bỏ đi. Nhưng có nên trả cho bà ta không? Nếu không có ta thì cái túi đâu còn của má Thảo nữa. Ta vứt chùm chìa khóa xuống sông, đã nói hết với thằng Nam âm mưu của Sáu Xồm, vậy thì ta sẽ lột mặt nạ cái bọn người mờ ám này. Nếu họ tử tế thì họ không phải lén lút như vậy.
Điều này thì Hùng biết rõ lắm.
Tàu về ga. Má Thảo xách túi măng khô ra trước, vượt qua cả đôi vợ chồng trẻ. Ngang qua chỗ Hùng, bà dúi vào tay nó một mẩu giấy. Đặt mẩu giấy vào trong lòng bàn tay, Hùng đọc nhanh: “Về sau má, nhớ cái túi”. Nó chờ mọi người xuống hết rồi mới nhảy một cái như con sóc xuống sân ga.
Đồng hồ chỉ hai giờ sáng.
o O o
Thế là nguyên tuần nay không còn hi vọng được gặp Hùng nữa. Nam buồn vô cùng. Thời gian trôi qua, nó chỉ là một đứa trẻ vừa mới ở nhà quê lên chưa đầy hai tuần lễ. Thành phố công nghiệp ầm ầm như cơn giông bão suốt ngày. Người đi lại nườm nượp trên đường phố làm nó hoa mắt. Vậy mà nó còn hi vọng tìm thấy thằng bạn trong cái tổ ong cơ man là người, hàng trăm ngõ ngách, đường phố lớn ấy. Nó nhớ lời chú Quảng: Chú tin trí thông minh, tấm lòng tốt của cháu… và chú cũng tin cả những sự tình cờ may mắn nữa… Nam thấy xấu hổ. Nó thấy mình chẳng thông minh chút nào, mình có tốt bụng nhưng khờ khạo lắm. Còn sự tình cờ, chỉ thấy những tình cờ rủi ro!
Bố đã đi làm. Cũng chỉ vì Nam, vì những việc chẳng ra gì làm bố mất cả hứng thú tắm biển và phơi nắng, bỏ dở mấy ngày nghỉ mát.
Nam đã một hai lần vào gian buồng chuồng cu của ông Mì. Nó chắc chắn căn buồng đó hiện nay không có Hùng Lé hay bất kỳ ai khác ngoài ông già có vẻ bẩn tính và giảo quyệt. Dù vậy, nó vẫn tin rằng Hùng đã từng ở đây.
Bố trở về với bản đồ án cần cẩu triền đà của mình. Vì vậy, bố không mấy khi chú ý đến Nam và chuyện Hùng Lé nữa. Nam hiểu rằng, bây giờ chỉ có sự cố gắng của mình nữa mà thôi. Chú Miên cũng như bố đều rất bận. Chú Quảng nói đúng, Hùng không còn làm các chú công an chú ý nữa sau khi đã chấm dứt vụ án Sáu Xồm. Nhưng với Nam, Hùng Lé là một ân nhân.
Sắp hết một tháng rồi. Ở nhà quê chắc mẹ mong lắm. Vả lại càng ngày Hùng càng biệt tích. Hay là nó đã đi xa, đã về Cẩm Phả với gia đình nó?
Sáng hôm ấy chú Miên đến tìm Nam:
– Chú báo với cháu một tin vui nhé! Nam tưởng chú đã tìm ra Hùng Lé:
– Không phải Hùng, mà là chú Quảng! Chú có gửi cho cháu lá thư này đây, các chú vừa mới cầm về hộ.
Chú Quảng hỏi thăm sức khỏe của bố và Nam. Chú không nhắc gì đến Hùng Lé, nhưng khi đọc thư, Nam cảm thấy chú nhắc mình về việc đó. Vậy là sẽ được gặp chú Quảng. Nam ước gì mình tìm ra Hùng trước khi gặp chú.
o O o
Hùng bước ra sân ga. Nó mất hút bóng má Thảo, cả người thanh niên nhỏ nhắn. Hình như họ biến mất trong tiếng ồn ào của khu ga nửa đêm trời sáng.
Bây giờ phải tìm xem trong túi tai chua này có những gì để có một quyết định. Nếu má Thảo, ông già là những người lương thiện thì nói làm gì, nhưng họ không như mình nghĩ thì sao? Không hay ho gì khi lục túi người khác, vậy mà Hùng phải làm việc đó. Nó muốn chứng minh được những điều nghi ngờ. Họ là người thế nào?
Hùng rẽ vào phố ga, tìm một quãng tối, ngồi xuống dưới gốc phượng. Nó đặt cái túi trong lòng, bốc quả tai chua ra, đặt xuống đất. Một nháy mắt, cái túi rỗng không. Hùng dốc ngược túi, vỗ vỗ vào đít túi như má Thảo đã làm ở trên tàu. Nó lắc đầu: ngoài những quả tai chua, trong túi không có gì hết. Vậy là mình đã khéo tưởng tượng! Anh thanh niên nhỏ nhắn, rồi thái độ hoảng hốt của má Thảo, rồi vụ đánh lộn “giải vây” của gã đô vật… tất cả chỉ do mình nghĩ ra! Những nghi ngờ và giả thiết tan biến như bong bóng. Hùng thấy xấu hổ vì đã nghĩ xấu về người khác.
Nó rảo bước, về nhà má Thảo. Hai má con ngủ bù đến tận trưa. Mười giờ sáng, Hùng ngủ dậy, xuống bếp nấu ăn. Cô gái trông nhà, tức “chị Gái”, ra về khi hai má con đang ngủ. Mười một giờ “ba” đến. Ông già có vẻ vui, nói luôn mồm, đùa cợt, châm chọc và có lúc bẹo cả má của má Thảo. Ăn xong, ông gọi Hùng đến bộ xa lông, cho ngồi lên chiếc ghế trước mặt.
– Hôm nay ba nói với con một việc nghiêm túc – Ông nói sau khi rít một hơi thuốc – Ba rất bằng lòng về con! Con có tư cách lắm! Chuyến đi Hà Nội vừa rồi, con đã giúp má Thảo được nhiều việc, lại có kỷ luật, ngoan ngoãn. Nhưng dù sao thì cũng phải làm cái gì chứ ngồi không thì buồn chết. Một gia đình nhỏ mấy cũng cần ăn! Con biết đấy, mấy thứ hàng khô lèo tèo của má đâu đủ để nuôi ai. Vậy mà má còn cáng đáng những món chi lớn của ba nữa. Bây giờ lại thêm con, thương má vất vả quá. Con sẽ làm ăn với má! Sẽ có việc cho con làm. Rồi má sẽ bảo ban con, nhưng ba có thể nói trước là công việc cũng rất nhẹ nhàng, hợp máu giang hồ của con lắm. Con sẽ đi với má, sẽ đỡ đần má hoặc cũng có lúc phải làm những việc nguy hiểm hơn má nữa kìa. Con là một chàng trai rồi mà!
Rồi con sẽ được đối xử phải chăng. Con là con của ba, ba cũng như má Thảo đâu có tiếc gì với con!
Hùng sửng sốt. Có kinh nghiệm sống mấy năm với Sáu Xồm, nó mang máng được công việc mà “ba” bắt nó làm. Chắc chắn không phải là những việc dễ. Ước gì ông ta gọi Hùng đến, quẳng cho nó một cái búa, một cối xay bột, hay cùng lắm, một cái bơm xe đạp cũng được rồi nói: “Làm việc đi, trưa nay sẽ có ăn”. Nó đâu có máu giang hồ! Nó chán lắm rồi cái cảnh sống chui lủi, lén lút. Ba năm đủ rồi. Nó là thằng Hùng, nó muốn sống đàng hoàng chứ đâu phải là một con chuột? Nhưng có lẽ ông già nói đúng. Hoàn cảnh không cho phép nó như vậy. Chẳng phải vừa ló đầu tới ngôi nhà 154 nó đã bị đuổi chạy bán sống bán chết đó sao? Nó cúi đầu xuống. Từ chối cũng khó mà nhận lời thì lại càng khó nữa.
Ông già bỗng đổi giọng, không còn vẻ dịu dàng, thon vuốt nữa mà sắc lạnh.
– Ba đã nói rồi, mà chắc con cũng hiểu, con biết con đang bị công an truy lùng chứ? Chỗ khu nhà 154 người ta bảo rằng nếu còn thấy con lảng vảng trở lại nữa, người ta sẽ dìm con xuống sông Lấp! Chính vì vậy mà ba và má Thảo phải có cách bảo vệ con, nghĩa là, trong thời gian trước mắt con không được tự do như con muốn. Việc ra đường đối với con là ngặt nghèo. Tất nhiên, đến lúc nào đó, ba biết rõ là lúc nào, con sẽ không còn nơm nớp lo sợ nữa…
Cũng từ hôm đó, Hùng bị nhốt trong nhà má Thảo. Nó biết mình bị nhốt, bởi vì khi má Thảo ở nhà, má không hề sai bảo Hùng ra phố. Khi má đi vắng (dạo này má đi vắng luôn) má khóa nhà lại rất kĩ càng. “Phải bảo vệ con trai!” – Má nói.
Lần đầu tiên, Hùng thấy hối tiếc là vứt chùm chìa khóa xuống sông.
Nó muốn gặp thằng Nam quá chừng. Nó viết vội một lá thư:
Nam, Hùng Lé gửi lời thăm mày. Tao cần gặp mày quá. Tao đang nguy. Nhưng tao không thể biết chính xác là lúc nào có thể ra đường để mà hẹn mày. (Hùng cắn bút suy nghĩ: Có nên tiết lộ cho Nam nhà của má Thảo? Không, làm như vậy sẽ nguy hiểm cho nó mà cho cả mình nữa). Vậy mày còn nhớ chỗ bờ sông thuyền 162 của Sáu Xồm đậu hôm trước không? Tao hẹn mày ở đó, nhưng vào lúc nào thì chưa biết trước được. Mày chờ tao ở đó nhá. Nhưng tao giao hẹn với mày: Mày chưa được nói gì với ai về chuyện tao trước khi gặp mày nhá.
Ba có đến một lần. Ba an ủi Hùng:
– Tù cẳng hả? Đừng lo. Rồi con sẽ tha hồ vẫy vùng. Đi với lũ Sáu Xồm, con chỉ có việc mở khóa. Trò trẻ. Nhưng đây là chuyện nghiêm túc. Ba và má Thảo không bao giờ phí phạm tài năng của con. Hãy chịu khó, hãy kiên nhẫn, con ạ.
Nhưng Hùng hoàn toàn không muốn kiên nhẫn như vậy chút nào. Làm sao sớm gửi được lá thư cho thằng Nam. Chỉ có thằng Nam mới có thể làm mọi người hiểu nó, thanh minh cho nó.
Mãi rồi, Hùng cũng tìm được một cái tem. Khi nó nhấc chiếc đồng hồ báo thức để lên giây, nó nhìn thấy con tem ấy. Nó dán lên phong bì. Vậy là trong tay nó đã có một lá thư.
Chỉ cần đề địa chỉ (nó thận trọng, chỉ đề địa chỉ vào phút cuối cùng, sợ lá thư rơi vào tay má Thảo hay ai đó), bỏ vào thùng thư là mẩu giấy này sẽ có cánh bay đến cửa sổ nhà thằng Nam. Nhưng làm sao bỏ được vào thùng thư bây giờ? Nó chắc mẩm thế nào ngày một ngày hai má cũng sai nó làm một việc gì đó. Nhưng má chẳng sai bảo gì cả. Ba nói rằng cần phải nhốt nó để khỏi phí sức nó, kì thật!
Hùng ngán ngẩm bắt một con gián chơi. Nó lấy hai cái dây thắng vào con gián to kềnh như thắng ngựa rồi cột bức thư vào phía sau. Con gián kéo bức thư đi băng băng trên nền nhà. “Giá mà mày có thể bay đến thùng thư, thả cái này vào trong đó cho tao. Nhưng mày chỉ là con gián! Mày đâu có trí khôn?”. Hùng cầu mong có một người hát rong, một người mù gõ cửa. Nó sẽ cho người ta một cái gì đó rồi nhờ gửi bức thư. Nhưng sực nhớ ra, cửa nhà này hai lớp, trong kính, ngoài chớp, cả hai đều được má Thảo khóa kĩ kín mít. Hùng nhớ lại ba người lính ngự lâm pháo thủ. Ước gì có một chàng pháo thủ nhà vua phi ngựa đến và nhân danh tình bạn cao cả, giải phóng cho Hùng. Nó nhẩm hát, những câu lục bát nó nhớ lộn xộn còn nhạc điệu thì do nó tự nghĩ ra. Nhưng nhờ vào giọng hát khá ấm, Hùng vẫn có thể cất lên những tiếng hát vui vẻ.
Kiếm xanh tuốt khỏi vỏ rồi
Mau mau hãy cứu bạn đời gặp nguy
Ngựa hồng đã đến một khi,
Ngựa lâm pháo thủ sá chi hiểm nghèo!
Tình tính tang, sá chi hiểm nghèo!
Một con sáo non đậu trên nóc tường rồi sà xuống sân sau bên cạnh chân Hùng. Bên kia tường, có tiếng một đứa trẻ.
– Nó bay qua tường, chúng mày ạ.
– Đúng rồi! Tao vừa nghe tiếng nó kêu – Đứa khác nói.
– Nó kêu to như con mèo thế này này… – Một đứa khác nói.
Hùng vồ ngay con sáo. Nó đứng lên. Bức tường cao gấp đôi nó. Hùng đã từng nhiều lần đứng bên bức tường suy nghĩ. Nó có thể lấy bàn, ghế hay những thanh củi làm một cái thang rồi nhảy sang bên kia bức tường. Nhưng sau đó thì sẽ có gì xảy ra? Chắc chắn người đó sẽ la lên: “Trộm! Trời ơi, trộm!” và thế là dân phố sẽ ùa ra xua nó như xua một con gián. Sau khi đến nhà má Thảo vài hôm, Hùng đã nghĩ đến chuyện thoát thân qua bức tường, nhưng rồi nó xua tan những toan tính ấy ngay. Muốn gì thì cũng phải gặp thằng Nam cái đã! Bây giờ, nó nghĩ, chính bức tường lại là lối thoát. Nó cầm con sáo trong tay, bóp một cái nhẹ. Con sáo kêu: “Kẹc, kẹc…”. Bên kia tường, tiếng một thằng bé nói:
– Đấy, đúng là nó đang kêu! Hùng nói chõ sang:
– Một con sáo đen, mỏ vàng phải không?
– Vâng – Thằng bé mừng rỡ – Một con sáo đen ạ. Nó vừa bay sang bên đó, anh cho chúng em xin.
– Được – Hùng nói – Tớ sẽ giả các cậu. Nhưng thương lượng với nhau cái đã.
– Anh cho chúng em chuộc lại được không? Một đồng anh nhá?
– Một đồng, ít quá.
– Em chỉ có ngần ấy thôi.
– Không. Tớ muốn cái khác cơ. Bây giờ thương lượng nghiêm chỉnh nhé. Các đằng ấy đưa bức thư của tớ bỏ vào thùng thư đầu phố. Tớ sẽ trả con sáo cho.
– Được rồi. Tưởng gì, chứ bỏ thư thì em quen lắm. Em vẫn bỏ thư cho bố em.
– Bây giờ vứt sang bên ấy nhé.
– Không, anh vứt con sáo cơ.
– Để rồi các ấy chuồn mất à?
– Chúng em hứa sẽ bỏ mà. Lời hứa danh dự đấy. Anh tin chưa?
– Được. Hứa nhé. Bây giờ tớ sẽ thả sáo và thư sang bên ấy cùng một lúc.
Bức thư cùng con sáo đen mỏ vàng bay qua bên kia tường.
Hùng mỉm cười: Chàng ngự lâm pháo thủ sẽ đến.
o O o
Ba đứa trẻ cùng ở trong ngõ bên kia nhà má Thảo. Chúng nó là: Mỹ, Quang và Hiếu béo. Ba đứa cầm sáo và thư ra ngồi đầu ngõ rồi bắt đầu cãi nhau. Thằng Quang nói:
– Cái nhà bà Thảo bán hàng khô tao còn lạ gì? “Bờ lờ” đấy! Thằng nào ở nhà đấy chắc cũng chẳng tử tế gì. Vậy mà chúng mày định chuyển lá thư cho nó. Tao thì tao không chuyển.
Hiếu béo nói:
– Nhưng chúng mình đã hứa. Chúng mình phải chuyển chứ. Không nuốt lời hứa dễ như vậy được.
Quang:
– Nhưng mày giúp bọn buôn lậu à? Tao hỏi chúng mày nếu là một bức thư tử tế thì việc gì muốn gửi phải nhờ lén lút như thế? Chỉ việc ra thùng thư, bỏ vào trong gọn thắc.
Mỹ từ nãy đến giờ không nói gì. Nó góp ý:
– Cứ đưa cho chú Miên tao ấy. Chú Miên tao là công an đấy. Nhờ chú ấy chuyển cho.
Hiếu béo bĩu môi:
– Chú Miên mày là công an à? Tao có thấy chú ấy mặc áo vàng bao giờ đâu?
Quang cười:
– Ngố ơi là ngố. Công an cảnh sát mặc áo vàng, công an vũ trang áo xanh, còn công an như chú Miên thì mặc áo gì cũng được. Tao thấy thằng Mỹ nói đúng. Bọn mình đưa bức thư cho chú Miên nhờ chú ấy bỏ vào thùng thư hộ. Chú Miên làm thế nào tùy chú ấy.
Chúng nó cùng với Mỹ về nhà gặp chú Miên.
o O o
Nam đi qua trước căn nhà Hùng ở. Nó mừng rơn. Cửa đóng, một vòng xích sắt treo lủng lẳng cái khóa đồng to như một cái hộp đựng thuốc lá. Bây giờ thì chắc là má Thảo đi vắng rồi. Nhưng liệu Hùng còn có nhà không? Nó còn ở đây nữa không?
Nam vòng ra lối sau. Điện không có, ngõ thì tối, những khoảng trống giữa các ngôi nhà cũng tối om. Phía bên kia tường vắng lặng như tờ. Bỗng Nam nghe tiếng hát:
Kiếm xanh khi đã tuốt rồi
Tìm mau đến cứu bạn đời đang nguy…
Đúng là giọng Hùng Lé rồi. Nó đang hát, hát một cách đàng hoàng. Như vậy là nó cũng chưa đến nỗi lâm nguy lắm như nó viết trong thư. Chắc là trong nhà chỉ còn một mình nó. Cửa khóa bên ngoài. Đúng là nó đang bị nhốt.
Nam vội vã tới nhà chú Miên tìm Mỹ.
Lát sau, ba bóng đen đã lúi húi ở chân tường, bắc một cái thang. Nam trèo lên thang. Hiếu béo và Mỹ mỗi đứa giữ một bên thang. Trời vẫn tối. Càng lên cao, Nam càng thấy run. Bây giờ nó mới sực nhớ ra một điều quan trọng: Nếu có người kêu trộm thì biết ăn nói thế nào? Ngực nó đánh trống. Nó bước đến bậc thang cuối cùng, đưa tay níu vào chỏm tường để đu người lên. Nó nhìn thấy một cái sân tối mịt. Không động tĩnh. Bỗng nó thấy Hùng cầm đèn Hoa Kỳ từ một gian buồng nhỏ phía trong đi ra.
– Hùng! – Nam gọi.
– Ai đấy? – Hùng chụm tay che ngọn đèn cho khỏi chói nhìn lên.
– Nam đây mà! – Nam hạ giọng – Làm sao xuống được Hùng?
– Trời ơi, mày đấy à? Dễ ợt. Đợi tao một tẹo.
Nó lấy hết sức bẻ gập chiếc móc thùng gánh nước thành một cái lưỡi câu lớn, rút ngay đoạn dây dù phơi quần áo trên sân, cột vào chiếc móc thùng rồi quẳng lên cho Nam để móc vào tường.
– Tụt xuống theo dây. Còn ai nữa không hả? Một nháy mắt Nam đã ở trong sân.
– Bà ta đâu? – Nam hỏi.
– Đi vắng rồi! Tao với mày vào trong buồng của tao đi. Hai đứa chưa kịp vào thì bên ngoài có tiếng nói:
– Đây rồi! Ông ơi, đây rồi. Không biết thằng mảnh nào lấy thang dựng ở đây này – Tiếng một người đàn bà.
– Lạ nhỉ! – Người đàn ông hẳn là ông chồng – Tôi vừa tụt xuống đi khuấy một thùng vôi thì cái thang không cánh mà bay. Tìm từ chiều đến giờ mà không thấy. Lại mấy thằng bắt chim đấy thôi!
Có tiếng loẹt quẹt. Chắc là họ đang vác thang đi. Không biết hai thằng bé chạy lối nào.
– Mày nhận được thư tao rồi hả? – Hùng vặn to đèn.
– Chú Miên bảo tao nói với mày là cứ ở lại. Nhưng nếu mày thích ra thì tao sẽ cứu mày ra.
– Ông lỏi ơi, ông lại còn cứu tôi ra à? Tôi đang nghĩ không biết làm cách nào đưa ông qua tường đây. Nhưng chú Miên nào mới được chứ?
– Chú công an làm vụ Sáu Xồm ấy. Chú ấy bảo rằng mày chỉ cần nộp lại chùm chìa khóa là không còn vấn đề gì nữa. Mày đã lập công. Mày hãy ở lại. Chú ấy bảo tao thế.
– Tao hiểu rồi. Cái chuyện ấy bọn Sáu Xồm thường gọi là máy chụp dạ dày. Thế này nhé, muốn biết cái bao tử có lở loét gì không, người ta cho bệnh nhân nuốt vào một cái máy ảnh nhỏ. Ông ấy muốn tao làm máy chụp dạ dày đây. Mày biết không? Sáu Xồm mà tìm ra máy chụp dạ dày trong ổ của nó thì mẻ với nó ngay. Nhưng thôi, nếu các chú ấy muốn tao ở lại, tao sẽ ở lại. Tao không sợ gì đâu. Tao chỉ chán thôi. Tao chán sống với các thứ của nợ này lắm rồi. Tao muốn được tung tẩy như mày ấy.
– Khi nào cần thiết thì mày tìm cách gặp tao. Bố tao cũng muốn gặp mày. Chết rồi, bé Liên còn hỏi búp bê đấy. Nó khóc hoài!
– Bảo với nó rằng tao sẽ đền cho nó bốn con cơ. Nhưng để một dịp khác.
– Còn chùm chìa khóa?
– Tao vứt xuống sông rồi, ngay hôm đó.
Có tiếng một cái ống sữa bò rơi xuống đất leng keng và một thứ gì đó họa theo. Hùng vươn người thổi đèn, lấy tay đẩy Nam vào tận trong vách, rồi thả màn xuống, chui vào trong. Hùng thì thầm:
– Bà ta về đấy. Cứ bình tĩnh. Tao làm một cái chuông báo mà.
Nó vòng tay ôm choàng lưng Nam:
– Mày run à? Lại toát cả mồ hôi nữa. Thằng quỷnh! Có gì mà sợ. Thôi, đúng rồi, cũng có khi mèo vào hang chuột mà vẫn run đấy.
Nam im lặng. Nó thật không thể bình tĩnh như thằng Hùng được. Nếu bà ta vào đây. Mở màn ra…
– Hùng ơi!
Má Thảo gọi lần thứ ba, Hùng mới thưa. Nghe thấy Hùng ậm ọe giả ngái ngủ, Nam muốn bật cười và nó hết sợ. Nó đã bảo với bố rồi mà, thằng Hùng mà đóng kịch hay làm trò thì không chê vào đâu được!
Khoảng nửa tiếng sau, khi “má Thảo” đã lên giường ngủ say, Nam leo dây lên đầu tường rồi lại tuột xuống phía bên kia cũng bằng sợi dây ấy.
– Nhớ tìm gặp tao chỗ bờ sông nhé – Hùng thì thầm.
o O o
Má Thảo bảo Hùng:
– Chúng ta sắp có một chuyến đi xa. Con sẽ được sổ lồng. Tối nay con tìm đến “chị Gái” và nói với chị ấy mua hộ hai má con ta vé tàu thủy đi Hòn Gai. Nhà “chị Gái” thì con biết rồi đấy.
Tối hôm đó, Hùng đến nhà “chị Gái”. Làm xong việc rồi, nó thủng thẳng ra bờ sông, tìm đến chỗ thuyền 162 đỗ hôm nọ.
Nó nấp vào một chỗ tối nhìn bao quát quãng bờ sông và thuyền bè. Nó biết chắc là không có “đuôi”, nhưng dù sao thì vẫn phải canh chừng. Kinh nghiệm đời dạy nó thế.
Nó nhìn thấy thằng Nam. Phải, đúng là thằng Nam bạn cũ không sai. Nó đang ngồi câu bên bờ sông, sát ngay chỗ hẹn.
Hùng đến gần vỗ nhẹ vai Nam. Nam đứng dậy, cần câu xách tay. Hai đứa thủng thẳng đi. Hùng nói nhỏ:
– Rẽ vào đây.
Đó là một cái ngõ hẹp và tối.
– Má Thảo sắp đưa tao đi xa. Bao giờ mày về quê hả Nam?
– Cũng sắp sắp rồi. Tao có thể về quê vì đã gặp được mày.
Nhưng cũng buồn. Giá như mày có thể về quê tao chơi.
– Tao cũng muốn thế. Nhưng đâu được Nam. Mày bảo với các chú ấy rằng ngày mai tao sẽ theo má Thảo đi Hòn Gai.
o O o
Hai má con ra bến tàu thủy từ sáng sớm. Lần này má đi sau. Như ba nói, má là người tinh nhanh. Hùng biết má muốn tự mình kiểm tra xem hai người có “đuôi” không.
Chuyến tàu khá đông. Theo lời dặn của má Thảo, Hùng ngồi chen vào giữa một gia đình nông dân. Trông nó ai cũng tưởng là thằng con lớn của gia đình nọ. Má Thảo ngồi trên dãy ghế đầu. Má thiu thiu ngủ, nhưng Hùng biết rõ là má không hề ngủ trong lúc đi đường. Chợt Hùng nhìn thấy hắn, gã đô vật. Không biết gã rơi từ đâu xuống? Gã về Hải Phòng lúc nào? Lần này gã ăn mặc chải chuốt hơn. Một bộ quần áo đắt tiền, mũ Adidas, giày quả táo. Trông gã đứng đắn và lịch sự như những thanh niên thợ mỏ khác đang trò chuyện trên boong tàu. Hùng thấy gã đứng ngoài boong, khuất sau tấm cửa kính. Nghĩa là gã chọn một chỗ ở quãng giữa Hùng và má Thảo. Từ chỗ gã đứng có thể nhìn thấy má Thảo cũng như Hùng.
Đến Hòn Gai, gã thanh niên biến mất. Má Thảo lên Hòn Gai, vào chợ. Hai má con ăn quà thỏa thuê rồi má Thảo đứng dậy trước. Lần này Hùng đi sau má một quãng xa. Má đi bộ ra cọc 5, rồi cọc 8. Má đi bộ ra Cẩm Phả chăng? Hùng chỉ lo cứ lẽo đẽo sau má thế này thì mỏi nhừ chân, lại còn sợ gặp người quen cũ ở Cẩm Phả nữa. Đến khoảng ba giờ chiều, má ngồi xuống đợi Hùng ở một cái dốc. Má đợi Hùng là biết chắc chắn rằng bây giờ không thể có cái “đuôi” nào bám nữa.
Má hỏi Hùng có mỏi chân không? Hùng có nhận ra “anh trai” (gã thanh niên đô vật) không? Má nói: Anh trai ra Móng Cái bằng tàu thủy. Còn má con ta sẽ vẫy ô tô.
Rồi má cho Hùng biết:
– Má sẽ đi trước hay đi sau là tùy vào xe cộ. Ta không đi cùng nhau được. Từ đây một mình con sẽ đối phó với tình thế. Má tin ở con.
Má đưa cho Hùng một cái túi xách. Má mở cho Hùng xem rồi lấy ra từng thứ một đặt xuống vệ cỏ bên đường. Chẳng có gì giá trị ngoài mấy đồ dùng đi đường mà ai cũng có.
– Thế thôi – má nói – Chúng ta ra đó để mua ít thuốc. Dạo này trong mình thuốc khan hiếm. Đường ra biên giới thì xa mà lại khó đi, phải đủ giấy tờ mới vào thị trấn được. Con sẽ phải xin họ xuống cách thị trấn mười cây số rồi đi bộ đến lối rẽ vào lâm trường. Ở đó con hỏi nhà chị Đào, buôn bán hoa quả. Má sẽ đợi con ở đó. Con cầm lấy ít tiền mà tiêu.
Một chiếc xe tải đi đến. Má chạy ra lòng đường gọi:
– Chú bộ đội ơi, chú bộ đội ơi!
Chiếc xe dừng lại. Ở trong ca bin có hai anh lính trẻ.
– Gì vậy hả? – Một anh lính hỏi.
– Chú giúp chị với, chú cho cháu đi nhờ một quãng. Cháu là dân ra khai hoang ngoài Móng Cái đấy mà, cháu vào Hòn Gai thăm bố cháu nằm viện, các chú giúp cho cháu về với…
– Mình nó thôi à?
– Vâng, mình cháu. Nhanh lên con! – Má vẫy Hùng rối rít.
– Xe về đến Đầm Hà thôi – Anh lái xe nói.
– Về Đầm Hà cũng tốt rồi. Cháu sẽ xin xe khác về nhà.
Hùng thấy anh phụ xe mở cửa. Anh vẫy Hùng đến. Nó lên xe, ngồi giữa anh lái và anh phụ.
– Cảm ơn các chú quá đi mất – Má nói.
Thế là hai má con chia tay. Ngồi trên xe, Hùng suy nghĩ đến nát óc. Bây giờ, đơn giản nhất là nhảy xuống Cẩm Phả, về nhà, xin mẹ tha thứ. Một tháng nữa sẽ đến trường. Rồi mặc tất cả trên đời, mặc tất cả. Không! Mình nhất định phải làm được một cái gì đó trước khi về nhà với mẹ. Mình đã hứa với chú Miên và thằng Nam… Mình không thể nhảy xuống Cẩm Phả.
Khi chiếc xe men theo con đường rải nhựa dọc vịnh Bái Tử Long, chạy qua Cẩm Phả, Hùng chập chờn như đang sống trong một giấc mơ. Mái trường đen, mái nhà đen, những lá cây đen. Bụi than phủ lên tất cả. Nó không nhận ra ai (hai năm rồi còn gì) nhưng tất cả đều quen thuộc vô cùng. Tim nó nhức nhối và nó chỉ mong xe chạy thật nhanh!
Thảo nguyên mênh mông trải dài hai bên đường số 4, gấp khúc và hiểm trở. Những đồi cỏ gianh trồng thông, trồng trẩu lướt qua. Mái nhà rải rác trên đồi. Những chuyến phà rộn rịp người xe lên biên giới… Nhưng má Thảo cần gì ở mình? Rõ rồi, mình sẽ mang về cho bà ta một ít hàng lậu mua tận biên giới. Mình và gã thanh niên đô vật. Mình và gã ta sẽ là những con lừa thồ hàng, những thứ hàng nguy hiểm mà bà ta không dám mang. Cũng được thôi, bà má ạ, chuyến này bà sẽ lời lãi ra phết đấy. Bà ra tận biên giới cơ mà, đâu phải Hà Nội.
Nó nhẩm hát:
Ngựa hồng đã đến một khi,
Ngự lâm pháo thủ sá chi hiểm nghèo.
Tính tính tang, sá chi hiểm nghèo…
Chú phụ lái nói:
– Thằng bé hát hay nhỉ.
Qua thị trấn Tiên Yên. Hai chú đãi nó một bát bún riêu. Ăn xong, xe lại lên đường.
Xe nghỉ lại Hà Cối. Hùng ngủ với hai chú bộ đội trong thùng xe, trên những bao bột mì. Đêm hôm đó cả ba chú cháu hát nghêu ngao. Rồi Hùng kể cho các chú nghe chuyện “Ba chàng ngự lâm pháo thủ”. Lâu lắm rồi, từ những ngày hè rực rỡ bên bờ vịnh Hạ Long, nó đâu còn nhớ nữa. Nó chỉ nhớ rằng, tình bạn là rất cao cả, người ta có thể hy sinh vì tình bạn. Nó nhớ rằng, những người luôn nghĩ tới hạnh phúc của người khác là những người tốt. Nó nhớ rằng, có người xấu, người ác trên đời nhưng khi những người lương thiện không biết sợ hãi mà biết sát cánh bên nhau, trung thành với lương tâm, với tình bạn, thì họ sẽ thắng! Nó quên hết câu chuyện và tên các nhân vật. Nhưng những điều nhớ được về bộ phim ấy đã làm nó tràn trề cảm hứng. Nó bịa ra một chuyện phiêu lưu dài, trong đó có cả một chàng ngự lâm biết mở tất cả mọi thứ khóa nhà tù của bọn phù thủy!
Sáng hôm sau, chú lái xe nói:
– Mày khá đấy, Hùng ạ. Giá không phải về đơn vị thì tao chở mày về nhà. Nhưng tao phải đưa bột mì về đây.
Chú chỉ một ngọn núi cao ngất trời phía biên giới rồi đãi Hùng một bát mì vằn thắn ở cửa hàng ăn. Hai chú bịn rịn chia tay nó.
Trưa hôm ấy, Hùng Lé lên xe khách về phía thị trấn Móng Cái và tìm ra nhà chị Đào bán hoa quả. Má đang chờ nó. Nó không hiểu má đã vượt qua nó lúc nào? Có lẽ lúc xe của nó ngủ lại Hà Cối chăng? Chiều hôm sau nữa thì gã đô vật đến.
“Nào, để xem má tôi bảo tôi làm gì nào?”, Hùng nghĩ bụng khi má Thảo gọi nó và gã đô vật vào buồng của chị Đào. Má bảo Hùng cởi áo ra đưa cho má (bộ quần áo nó đang mặc là của ba mua cho hôm nọ). Thường thường má Thảo giặt rồi cất vào tủ. Đi đâu xa má mới đưa cho Hùng mặc. Ở nhà nó chỉ thắng cái quần đùi cũn cỡn, lưng quần có giắt “thằng bé” (tức là chiếc chìa khóa mở được cái ổ khóa nhà nó ở Cẩm Phả).
Má chỉ cho Hùng xem cái nẹp áo:
– Đây là việc ba con nhờ. Sáng mai, con làm xong việc này thì quay về đây, đi lấy hàng cho má – Má chỉ con đường rẽ vào lâm trường có thể nhìn thấy qua cửa sổ – Sáng mai, con cầm lấy một cái liềm, một cái đòn xóc, đi lấy củi. Con đi thẳng vào con đường kia, đi thẳng, nhớ chưa, không rẽ vào bất kì lối nào, chừng năm cây số là bờ sông biên giới. Đến bờ sông, con rẽ trái một đoạn, lên phía ngọn đồi trồng quế. Đồi quế, con nhớ chưa? Ở chân đồi có mấy ngôi nhà của người Cao Lan. Con hỏi thăm ông lang Pào. Gặp ông ta, con nói: “Cháu là con của ba cháu, đến gặp ông”. Nói đúng như thế, không thêm bớt một tiếng. Rồi con cởi áo đưa cho ông ta, bảo ông ta lấy dao cắt chỗ nẹp này ra. Trong đó có hàng của ba gửi. Ông ta sẽ nhận hàng, sẽ gửi hoặc không gửi con thứ gì đó. Con chào ông ta rồi về đây với má.
Giọng má Thảo trở nên rắn rỏi, khi nói, hai hàm răng của má dính chặt.
– Đây là việc quan trọng ba nhờ con. Chỉ thế thôi. Người khác vào nhà ông ta thì khó mà con thì lại dễ ợt. Ai hỏi, con bảo đi lấy củi về đun. Nhà con ở thôn Đồng Vùi, dân khai hoang từ Hải Phòng lên, chủ nhiệm hợp tác xã là ông Quán, quê ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Nhà ông ta có một chó lài to như con bê. Nhưng chẳng ai hỏi con đâu mà sợ. Công an biên phòng họ đi ngựa, nghe tiếng vó ngựa thì con chui vào bụi hái củi, chẳng ai thèm chú ý đến con. Ngoài họ và dân lấy củi ra, chẳng có ai hết. Vùng biên giới, vắng lắm mà. Đó là việc thứ nhất của con.
Má ngừng lại một lúc rồi nói tiếp:
– Má dặn: Con phải tự tin, không sợ gì hết. Nếu gặp bất trắc cũng chẳng lo. Con không hở môi thì không ai làm gì con cả. Ba bảo, vật con mang trong người là vô hại cho con, đừng lo. Không ai làm gì con cả. Còn chuyện hàng hóa thì con chỉ cần nói khéo với cán bộ thuế, cùng lắm là mất hàng thôi, con nghe chưa?
Hùng nghe rõ. Hùng đang nghĩ về những việc má dặn Hùng làm, cố đoán xem đây là những trò gì? Khéo lại trò chơi thử thách Hùng như chuyến Hà Nội. Không! Người ta không bỏ tiền, bỏ công ra làm một trò chơi tốn kém và vất vả như chuyến này. Bây giờ thì Hùng chỉ lo đây là một trò chơi, một trò chơi thì uổng quá. Má ạ, con đâu phải là một con gián, một con cào cào mà má có thể bắt con làm những việc nguy hiểm thay má! Con đâu phải là con bò, con lừa để thồ hàng cho má qua những trạm kiểm soát ngặt nghèo. Con là Hùng, Hùng Lé, má chưa biết hay sao?
Sáng tinh mơ hôm sau, Hùng ra đi. Vai vác đòn xóc, tay cầm liềm, đội một cái nón rách, nó đi thẳng vào con đường ô tô rẽ vào lâm trường. Đường vắng vẻ quá. Người đi lại thật thưa thớt. Lâm trường thì ở tít mù khơi, thỉnh thoảng Hùng gặp một chiếc xe tải đi ngược chiều, chở những công nhân lâm trường mặc quần áo bảo hộ lao động. Ước gì Hùng có thể nhảy lên xe, cùng đi làm với họ. Có hai người đàn ông mặc quần áo nông dân, đuổi kịp Hùng. Tay họ cầm đòn xóc, liềm và mỗi người thêm một cuộn dây. Người thanh niên trẻ hơn gọi:
– Chú em, chờ bọn anh đi với cho vui!
Hùng nấn ná. Họ dấn lên và đuổi kịp Hùng. Anh trẻ hơn nhìn Hùng, hỏi:
– Chú em ở hợp tác xã nào vậy?
– Em ở Đồng Vùi – Hùng nói.
– Vậy à? Đồng Vùi. Phải rồi, hợp tác xã em to đấy. Ông Mịch làm chủ nhiệm phải không? Ông Mịch, quê ở Tiên Yên ấy mà.
– Không phải ông Mịch mà là ông Quán, ông Quán người Vĩnh Bảo cơ, anh ạ. Ông Quán có con chó lài to như con bê ấy mà!
– Phải rồi, ông Quán. Anh nhầm đấy. Người nhiều tuổi hơn, ít nói hơn mỉm cười:
– Chú mình đi hái củi mà không mang lạt bó à?
– Trên rừng thì thiếu gì dây hả chú? – Hùng nói.
– Bây giờ đến lượt chú mình nhầm rồi. Rừng ở đây không có dây đâu. Ai hái củi mà chẳng phải mang lạt từ nhà. Chắc chú mình mới đi lần đầu hà?
Hùng toát mồ hôi lưng. Nó định bụng đi vài cây số rồi sẽ tìm đường rẽ ngang hay quay lại, đến một đồn công an biên phòng gần nhất. Nó sẽ nói lại với các chú ấy tất cả. Nó tính: Vậy là chậm lắm sáng mai đã có thể lên xe về Hải Phòng.
Nó định hỏi hai anh thanh niên đường về công an biên giới. Nhưng nó có cảm giác gai gai phía gáy. Đúng là có ai đang nhìn mình. Hùng quay lại: Cách nó chừng mươi bước là gã đô vật. Gã đã thay quần áo của người đi lấy củi, tay gã cầm đòn xóc và liềm, cũng không có dây lạt. Hùng tái mặt. Người thanh niên cứng tuổi cũng quay lại.
– A! – Anh ta hoạt hẳn lên – Lại thêm một ông bạn nữa. Ta cùng đi chứ! – Anh nói với gã đô vật.
Gã này liếc mắt cho Hùng rồi dấn lên. Gã nói:
– Thì cùng đi!
– Cậu ở đâu ra nhỉ?
– Đồng Vùi – Gã đô vật nói.
– Lại Đồng Vùi. Còn cánh tớ thì Chiêm Lăng, gần nhau ấy mà. Bên này con gà nó gáy, bên kia cũng nghe. Ông Mịch vẫn làm chủ nhiệm đấy nhỉ?
– Ừ… À, bây giờ là ông Quán.
– Phải. Con chó lài nhà ông ấy phải to bằng con bê.
– Thằng con trai về phép đã đi chưa?
– Rồi, đi rồi. Hỏi gì vớ vẩn bỏ mẹ – Gã đô vật gắt.
– Kìa, hàng xóm láng giềng người ta mới hỏi chứ.
Lúc sau cả bọn đến con đường rẽ. Hùng nhìn thấy những bụi lau đằng xa, nó đoán đấy là bờ sông. Hùng nhớ: “Đến bờ sông, con rẽ trái, đi một đoạn rồi đến đồi quế…”, mình phải rẽ rồi. Nhưng mình không rẽ. Mình quay lại hoặc rẽ phải. Mình sẽ chờ tiếng vó ngựa trong rừng. Nhưng gã đô vật ở đây, biết làm thế nào? Má phí phạm quá, một việc nhỏ như vậy mà phải những hai người đi! Hùng châm biếm. Nó vốn có đầu óc hài hước mà.
Người thanh niên cứng tuổi bỗng nói:
– Ngồi xuống đây nghỉ một chút đi. Anh trẻ hơn đồng ý ngay:
– Phải đấy. Mỏi chân lắm rồi.
Gã đô vật nói:
– Thì nghỉ. Hùng nói:
– Cháu cũng mỏi nhừ cả chân.
Hùng biết gã đô vật không thú gì khi phải ngồi cùng hai người thanh niên. Nhưng đã đến chỗ rẽ. Gã không muốn cho hai người kia biết gã đi về hướng nào.
Gã nói tiếp:
– Nghỉ một chút rồi mỗi thằng một phương. Củi đâu mà dồn vào một chỗ.
Người cứng tuổi nói:
– Phải đấy. Hay là đằng ấy vớ được món bở? Cho cánh tớ theo với. Củi dạo này hiếm quá chừng.
– Đâu có.
– Này, cái thằng gì hàng xóm nhà ông Quán dạo này còn điên nữa không hả? Nó có lấy chổi nhóm bếp nữa không hả?
– Phải có phổi trời cho nó ăn mới lành.
– Đúng đấy. Nó thì khó lành lắm. Gã đô vật nói:
– Này, cánh đằng ấy lấy củi nơi nào thì đi đi, đừng hỏi han vớ vẩn nữa.
– Bọn tớ đi đây, nhưng đằng ấy ăn nói tử tế một chút.
– Thôi đi đi!
– Thì đi. Bọn tớ lên đồi gianh này thôi. Bòn đến trưa cũng thừa hai gánh.
Gã đô vật nhăn mặt, đôi lông mày rậm của gã như muốn vồ lấy nhau. Hùng biết gã bực bội vì hai người thanh niên kia lấy củi ở đây chứ không phải nơi nào khác. Vậy mà Hùng phải rẽ đây rồi. Rẽ ở đây, đến đồi quế kia dưới sự yểm trợ và giám sát của gã đô vật. Hùng đoán má Thảo cho gã này đi theo là vì mục đích ấy. Hùng mang hàng trong gấu áo, Hùng có thể bị bắt, bị bắt quả tang, trong khi đó, gã đô vật, cách Hùng hàng trăm mét, là người trong trắng nhất đời. Gã sẽ biến, sẽ lại về với má Thảo, lại đi những chuyến hàng khác với những thằng bé khờ dại khác. Khi những người thợ mỏ xuống một cái giếng sâu, đề phòng dưới đáy giếng có hơi độc, người ta ròng xuống trước một con chuột. Má đang ròng một con chuột nhắt xuống đấy. Hùng là con chuột nhắt ấy. Người miền núi đi đường gặp hổ, người ta thả ngựa ra. Hổ đuổi ngựa ăn thịt, người thoát thân. Má đang thả ngựa ra đấy. Nhưng con đâu phải con chuột, con ngựa hả má? Con là thằng Hùng kia mà, má “yêu quý” ạ. Và cả “ba” nữa, ba cũng đừng hi vọng như vậy mà nhầm, ba “yêu quý”, “ông già cô đơn bất hạnh”… gì gì nữa ạ.
– Ta đi thôi chú – Người thanh niên cứng tuổi đứng dậy trước tiên, hất hàm bảo người trẻ.
– Vâng. Ở ngay mép đường đây thôi.
Họ nhảy qua mấy bụi găng rừng, đi lên phía trên vài chục mét. Lên càng cao càng nhìn thấy rõ, họ khôn thật – Hùng nghĩ bụng.
Gã đô vật thì thầm như ra lệnh:
– Phải gây lộn rồi cho gục hai thằng này. Nó ám ghê quá. Trong khi tao cãi nhau với chúng nó thì mày chuẩn bị.
Tao quật đổ thằng già thì mày đè ngực nó, để tao quật nốt thằng kia. Thế là xong. Nghe chửa, nhóc?
Hùng im lặng.
– Nghe chửa, nhóc?
– Nghe rồi ạ!
– Để tao gọi chúng nó xuống.
Gã quay người lên phía đồi, chụm tay lên làm loa:
– Này bọn ngố rừng, xuống cánh tớ bảo.
– Này, ăn nói cẩn thận! – Hình như anh trẻ trả lời.
– Xuống làm điếu thuốc rồi chia tay mà. Hay là cánh tớ lên đó. Lũ ngố!
Gã nói thầm với Hùng:
– Phải gây sự rồi hẵng đập. Ra tòa còn có chỗ mà cãi. Ta lên chỗ chúng nó đi. Càng tốt, xa đường cái.
Gã chưa kịp lên thì hai người thanh niên đã xuống. Họ đi tay không.
– Mày là cái gì mà ăn nói như đồ mất dạy thế? – Người trẻ hỏi.
– Này, thằng nhãi, lại đây bố mày dạy cho biết thế nào là lễ độ! Mày ăn nói với bố mày thế à? – Gã đô vật nói.
Gã bước lên một bước rồi xoay ngang người để lấy thế ngang bằng với hai người kia. Bờ đường hơi dốc, gã muốn bắt đầu từ điểm cao. Hùng thì đã đứng sẵn bên cạnh gã. Thằng này mà quật ai thì khó dậy lắm đấy, Hùng nghĩ. Tốt hơn hết là đừng cho mày quật người ta trước. Hùng bước sang cạnh một bước. Lúc đó gần như đối diện với gã đô vật.
– Này, trước hết mày hãy học ăn nói cái đã – Người cứng tuổi nói.
Gã đô vật không trả lời. Gã vẫn chưa tìm được thế đứng lợi nhất. Nhưng rồi gã nhích được lên và xích lại gần người cứng tuổi. “Có lẽ bây giờ là vừa!” – Hùng nghĩ. Nếu để gã đô vật quật đổ một người trước, còn lại người kia cộng với mình nữa cũng không ăn thua gì với gã. Vậy thì phải làm cách gì để gã này mất thế bất ngờ, không đánh trước được người ta. Trong cuộc này, ai đánh trước sẽ thắng. Gã đang lấy thế, Hùng thấy gã đang tính toán thế nào để khi quật đổ người này thì không bị người kia đánh vào lưng. Gã rê rê bàn chân phải. Không muộn hơn được nữa. Hùng ngồi xuống, nó nhô người ra phía trước, lao thẳng đầu vào bụng dưới gã đô vật, miệng la lớn: “Bắt lấy nó!”. Một sức mạnh không kịp chuẩn bị cũng bằng thừa. Gã đô vật choáng váng, kinh hoàng, bởi gã không thể ngờ được cú đầu tiên lại là của “thằng nhóc”. Sức khỏe của gã giữ gã đứng được sau cú húc, tuy gã thấy đau thót ở bụng dưới. Gã lùi lại đạp một cái vào bụng Hùng. Nhưng hình như chỉ chờ có thế, người thanh niên ít tuổi đưa chân phải ra và quật đổ gã đô vật to con bằng một miếng võ nhanh đến mức Hùng không thể tin được.
– Trói nó lại – Người thanh niên cứng tuổi nói, anh cúi xuống Hùng đang ôm bụng vì cái đạp của gã đô vật – Có việc gì không? Đứng lên thử nào, cố lên. Thôi, chẳng sao cả. Chúng ta xuống đường cái.
– Các anh là gì mà trói tôi? – Gã đô vật cãi, vùng vằng hất dây trói trên tay người thanh niên trẻ.
– Này, đừng có đùa! – Người đứng tuổi không biết rút từ đâu ra một khẩu súng lục chỉ nhỉnh hơn cái bao diêm – Mày quên mày đang bị truy nã à, Thoại Khuỳnh?
Khẩu súng bắt được Thoại Khuỳnh ngoan ngoãn.
Tất cả ngồi nghỉ ở vệ đường gần chỗ ngã ba có lối đi về phía bờ sông. Hùng phân vân. Không biết hai chú này coi mình là người thế nào? Xem cung cách từ sớm đến giờ thì mình cũng đang bị theo dõi như Thoại Khuỳnh vậy.
– Em từ đâu đến? – Chú cứng tuổi kéo Hùng ra một chỗ, hỏi nó – Cứ bình tĩnh rồi tất cả sẽ được soi sáng. Chốc nữa thôi, ngựa đến là chúng ta sẽ về đồn.
– Cháu từ Hải Phòng ra ạ. Về đồn, cháu sẽ có nhiều điều nói với chú.
– Chú hiểu, tên cháu là gì?
– Hùng ạ!
– Hùng? Hùng Lé?
– Vâng ạ.
– Và Nghĩa, Hùng cũng là Nghĩa?
Hùng thấy giật thót toàn thân nhưng nó cố nén cảm xúc, cúi đầu xuống, đáp khẽ.
– Vâng ạ.
– Chú giới thiệu với cháu: Chú là Quảng. Nhưng mà cháu cũng chẳng biết chú là ai. Ngựa đến rồi, ta về đồn biên phòng thôi. Còn nhiều việc phải làm lắm.
o O o
Đêm ấy chú Quảng dẫn Hùng đi lang thang trong vườn cây của đồn biên phòng. Quế dâng hương trong không khí ban đêm. Hai chú cháu ngồi xuống gốc một cây quế. Chú Quảng nói:
– Những việc cần kíp đã làm xong rồi, bây giờ chú mới có thì giờ nói chuyện với cháu. “Má Thảo” của cháu – chú cười – vẫn yên trí chờ cháu và Thoại Khuỳnh ở nhà chị Đào, bây giờ đang bị giữ vì trong người bà ta có những thứ hàng cấm. Thoại Khuỳnh đã được gửi về cho chi khu. Các chú cũng đã đánh điện khẩn về Hải Phòng để các chú dưới ấy có cách đối xử với “ba” cháu sau khi cháu cho biết những tin tức hết sức quan trọng. Cháu biết không, chú nhắc lại là hết sức quan trọng! Để rồi ta sẽ trở về với những chuyện đó sau. Bây giờ, chú giải thích cho cháu nghe một số điều đang rất khó hiểu đối với cháu. Nói nhanh nhanh cho nó xong đi, phải không? Thế này nhé… bọn buôn lậu bao giờ cũng có những đường dây nối các ổ chứa hàng mà người ta thường gọi là “chuy ô” ấy, những vựa những xới như chúng thường gọi. Đường dây rải càng dài thì lãi càng to. Bọn gián điệp, thám báo cũng có những đường dây như vậy. Để nối liền những ổ này, chúng thường dùng điện đài và những phương tiện thông tin hiện đại. Nhưng bọn buôn lậu không có những thứ đó. Vì làm ăn phi pháp nên chúng không thể sử dụng các phương tiện công cộng như điện tín, thư từ. Chúng phải dùng người, hãy tạm gọi là những liên lạc viên, để xuyên suốt đường dây kiếm tiền hôi hám ấy. Bọn cá mập yên vị ở các ổ mà buôn bán, trao đổi, thu lời…
Cháu hiểu chưa? “Ba”, “má” cháu có con mắt tinh đời đấy. Quả thực những thằng bé như cháu mà làm liên lạc cho bọn họ thì không chê vào đâu được! Cháu yên tâm. Họ chưa cho cháu vào trận đâu. Họ còn thử thách cháu chán, hàng năm nữa, cũng huấn luyện thực tập, đủ kiểu, cho đến khi nào họ hoàn toàn tin tưởng được vào cháu. “Má Thảo” đưa cháu lên biên giới lần này cũng là một trò chơi mà thôi. Lần trước Hà Nội, lần này biên giới, mai kia có thể một chuyến rong chơi, vào Sài Gòn. Vậy là cho đến nay, chỉ có Thoại Khuỳnh sẽ bị bắt vì đang bị truy nã. Hắn đánh một người khách đi tàu bị thương để giật va li của người ta sau khi xuống ga Hải Phòng trong chuyến tàu cùng đi với cháu ấy. Còn “má Thảo”, bà ta sẽ bị xử lí bình thường như những người buôn hàng cấm khác. Vấn đề là… nhưng thôi, chú nhức đầu quá…
Chú Quảng căng thẳng thực sự. Một lúc sau, chú nói tiếp:
– Chú nghĩ đến “ba” nhiều hơn. Chỉ một hai ngày nữa thôi sẽ có người đưa ảnh “ba” đến cho chú. Nhưng chú nóng ruột quá.
Hùng đỏ mặt:
– Không ạ, cháu chưa bao giờ gọi ông ta là ba cả. Ông ta tự nhận thế thôi.
– Cháu tinh đấy. Nhưng cháu có thể cho chú biết một đôi điều về nhân vật chính. Chú nghĩ thế đấy, có lẽ “ba” lại là nhân vật chính cơ. Có phải ông ta có hai chiếc răng vàng ở hàm dưới?
– Không ạ. Ông ta không có răng vàng.
– Một vết sẹo dưới cằm?
– Cũng không ạ. Trên mặt ông ta không có cái sẹo nào hết.
– Người hơi đảo đảo về phía trước, nhất là lúc đi?
– Có ạ, lúc đi thì hơi đảo đảo về phía trước.
– Những đồ dùng cá nhân của ông ta, cháu thấy có gì đặc biệt không?
– Cháu không thấy có gì đặc biệt.
– Có bao giờ cháu thấy ông ta đeo nhẫn?
– Không đeo nhẫn, nhưng có đeo một sợi dây ở cổ.
– Bằng vàng?
– Không ạ. Có lẽ bằng mạ kền, mảnh lắm. Cháu chỉ nhìn thấy một lần lúc giội nước cho ông ta tắm.
– Đầu dây đeo một quả tim?
– Không ạ. Không có quả tim.
– Một tượng Chúa nhỏ xíu?
– Không phải ạ.
– Một hạt đậu? Nghĩa là một hạt kim khí nhỏ như hạt đậu.
– Đúng là bằng hạt đậu. Để cháu nhớ xem. Phải rồi, bằng hạt đậu, mà có lẽ bằng vàng thật. Hình như…
– Chạm hình một con cóc phải không?
– Vâng, đúng rồi. Đúng rồi ạ. Đúng là hình một con cóc bằng hạt đậu.
– Cám ơn cháu. Ta dạo chơi một chút rồi về ngủ đi. Có lẽ đêm nay chú cháu ta phải về Hải Phòng thôi. Ngay đêm nay cháu ạ.
Chú Quảng dắt Hùng đi trong vườn quế. Hùng thấy tay chú run run. Và chú có vẻ nóng ruột lắm.
Chú ngồi xuống một phiến đá, hai tay ôm lấy đầu:
– Ôi, chú thấy căng thẳng quá. Vấn đề là không hiểu tại sao ông ta lại có vẻ thiếu thận trọng đến thế? Cũng có thể, trong bước đường tuyệt vọng, người ta thường vớ lấy từ cái cọng rơm trở đi. “Má Thảo” đùa giỡn, thử thách và hết sức cẩn thận đối với cháu. Nhưng ông ta, ngay trong chuyến đi này, ông ta gửi vào cháu một công việc mà thường thì chỉ có bản thân ông ta mới làm được.
Chú rút trong túi ra một vật nhỏ, mỏng và bằng một phần tư con bài tam cúc.
– Cháu có biết trong nếp áo của cháu có gì không? Một cái lược nhựa nhỏ xíu, đúng hơn, một nửa cái lược nhựa mà thôi. Nửa kia có lẽ là người con rể của ông lang Pào giữ. Đó là mật hiệu móc nối đơn giản nhưng chắc chắn vô cùng. Hắn sẽ khớp miếng lược, sẽ nhận mặt cháu và từ đó cháu là một con thoi. Có lẽ “má Thảo” không hề biết điều này. Hai người đó cũng chỉ là một tấm màn che mà thôi. Việc buôn lậu cũng chỉ là tấm màn che mà thôi.
Chú Quảng im lặng. Rồi chú đứng lên:
– Thôi, đó là việc lâu dài. Bây giờ, chú hỏi, có phải cháu còn có một cái tên nữa là Nghĩa?
Hùng cúi đầu:
– Vâng ạ!
– Bố cháu đã hy sinh?
– Vâng ạ!
– Cháu có biết bố hy sinh trong hoàn cảnh thế nào không?
– Không ạ!
– Cháu có muốn biết không?
– Có ạ!
– Cháu hãy nhìn kĩ miếng lược – chú bấm đèn pin – ở góc in hình một con cóc màu vàng nhỏ xíu. Suýt nữa thì đời cháu rẽ sang một khúc quanh không lường tới được. Nhưng thôi, chú sẽ kể cho cháu nghe về bố cháu. Hồi đó, hơn mười năm rồi, chú và bố cháu cùng một đơn vị. Công việc cũng như bây giờ thôi. Nhưng bố cháu không gặp may. Bố bị một tên gián điệp hạ sát. Bố và chú đã gặp nó. Chờ bố cháu làm xong việc cuối cùng là kiểm tra sợi dây chuyền ở cổ nữa là chú sẽ xông lên khóa chặt tay nó. Núp trong một bụi cây sát liền đó, chú ngồi chờ và ngắm nó từ đầu đến chân. Nhưng, thật không may, bố cháu bị choáng, bố vẫn hay bị như thế vì vết thương cũ, tên gián điệp thoát mất, bố cháu hy sinh. Còn chú thì rất đau buồn vì đã không bảo vệ được bố cháu.
Chú Quảng nhìn thẳng vào mắt Hùng, nói giọng dữ dằn:
– Chú đã ngắm nó gần nửa tiếng đồng hồ, trong khi bố cháu hỏi giấy tờ và kiểm tra các chi tiết khác. Nó đóng vai một cán bộ địa chất, bị lạc đường. Chú đã có thể ước lượng được chiều dài của vết sẹo dưới cằm nó, chú đã nhìn thấy những cái răng vàng lấp lóe trong miệng nó. Bây giờ thì sao? Không có sẹo, không có răng vàng! Dù như thế, chú vẫn muốn nói riêng với cháu, tên gián điệp đã giết bố cháu chính là ông ta.
Ông bảo vệ, người đã tình cờ gặp cháu và nhận là “bố” cháu! Chưa đủ chứng cớ gì lắm, nhưng trực giác của chú nói như vậy đấy. Để rồi ta hãy xem xem. Ông ta đã ẩn mình được mười năm. Có thể chủ cũ đã bỏ hoặc bán ông ta cho chủ mới. Nhưng ông ta sẽ không thoát được. Ông ta, tay gián điệp lợi hại có mật hiệu là Cóc Vàng!
Có người gọi từ trong nhà chỉ huy. Chú Quảng chạy vào.
Lát sau, chú ra nói với Hùng, giọng buồn buồn:
– Điện trong nhà vừa trả lời: Đã khám xét ngôi nhà đổ nhưng “người bảo vệ nhà cửa” ấy đã biến mất. Vậy là con rắn lại thoát thân lần nữa. Có thể ông ta dời chỗ ngay sau khi giao cho cháu việc đó và sẽ tìm cháu sau. Nhưng chẳng sao, đó là việc của các chú. Ngày mai, chú sẽ đưa cháu về Cẩm Phả, thăm lại gia đình. Rồi chú sẽ xin mẹ cháu cho cháu đi học lại. Cháu phải vào trường học, bao nhiêu triển vọng tốt đẹp đang chờ cháu. Hay là, cháu về quê, cùng học với thằng Nam, được không? Xem chừng hai đứa cháu còn nhiều duyên nợ với nhau lắm đấy!
Hùng im lặng. Nó hỏi:
– Còn ông ấy, thì sao ạ?
– Đấy là việc của các chú mà. Không thoát được đâu. Có điều là… cháu phải nhớ những bài học cay đắng vừa học được.
Chú Bé Có Tài Mở Khóa Chú Bé Có Tài Mở Khóa - Nguyễn Quang Thân Chú Bé Có Tài Mở Khóa