Đôi khi, những thành quả tuyệt vời lại xuất phát từ những thất bại sớm gặp phải.

Thomas H. Huxley

 
 
 
 
 
Tác giả: Joseph Delaney
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 28
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1751 / 26
Cập nhật: 2017-05-09 22:24:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 18 - James – Người Thợ Rèn
hật là một đêm dài. Tôi cố chợp mắt, những mong xóa sạch được bao chuyện vừa xảy ra chỉ trong một chốc, nhưng vô ích, cuối cùng, tôi leo trở lên pháo đài và chờ cho mặt trời ló dạng.
Có vẻ như ở trong tháp này tôi khá được an toàn. Cầu kéo đã dựng lên, lỗ hổng trên tường thành đã được lấp lại và hai nữ yêu sẽ ngăn không cho lũ Mouldheel lẫn Malkin quay lại đây thông qua đường hầm mà leo ngược lên tháp. Nhưng tôi cần phải biết tình hình anh Jack thế nào.
Giá như tôi có thể mang Jack cùng gia đình anh vào chốn an toàn trong tháp này... Và một trong những loại dược thảo trong chiếc rương đầu tiên rất có khả năng giúp được cho anh. Tôi cũng muốn gặp Thầy Trừ Tà nữa – để cảnh báo thầy về mụ Wurmalde và kể cho thầy nghe mọi chuyện; nhưng điều cần kíp hơn nữa là tôi phải nói chuyện với Alice. Cô ấy biết tôi đang ở đâu, và nếu thông tin về những gì đã xảy ra đến được tai cô thì có lẽ Alice sẽ quay lại tháp. Cô sẽ nhìn qua đống dược thảo kia và nói không chừng là biết nên dùng thứ nào. Tình hình ngoài kia thật nguy hiểm trong khi lòng can đảm của tôi đã suy giảm rất nhiều, nhưng tôi biết nếu sang ngày hôm sau mà Alice vẫn không tìm đến tháp, chắc tôi sẽ phải đi tìm cô ấy.
Mặt trời ló dạng, nền trời trong vắt, không gợn chút mây. Buổi sáng dần trôi đi, nhưng ngoài đám quạ và vài con thỏ hay hươu nai gì đấy thi thoảng vụt qua, khoảnh đất trống giữa những rặng cây đến chân tháp vẫn tịnh không một bóng người. Nói theo cách nào đấy như văn thơ hay phóng tác, thì tôi là “vua của lâu đài”. Nhưng điều này thật vô nghĩa. Tôi đang cô đơn, sợ hãi và chẳng mường tượng ra được làm thế nào cuộc sống có thể trở lại như bình thường. Liệu chánh án Nowell có quay lại đây và hạ lệnh cho tôi đầu hàng không? Nếu tôi không khuất phục, liệu ông ta có đưa cảnh sát đến để bao vây ngọn tháp lần nữa?
Đến trưa, thấy thèm ăn trở lại, tôi leo xuống khu vực sinh hoạt. Lửa trong lò sưởi vẫn còn âm ỉ nên tôi cời than hồng ra rồi bắt tay vào nướng khoai tây đút lò làm món điểm tâm. Tôi ăn khoai được lấy trực tiếp từ trong đống lửa ra nên còn rất nóng, không thể cầm quá một giây mỗi lần. Miệng tôi bị bỏng đôi chút nhưng món khoai ngon tuyệt nên có đau chút cũng đáng thôi. Điều này khiến tôi nhận ra, kể từ lúc đặt chân đến Pendle, tôi đã ăn uống ít ỏi đến thế nào.
Tôi tìm thấy thanh trượng trong góc phòng nên ngồi xuống, gác trượng ngang gối một đỗi. Chẳng biết vì sao nhưng làm thế lại khiến tôi thấy khá hơn. Tôi nghĩ đến sợi xích bạc đã bị ngài Nowell tịch thu. Tôi muốn lấy lại nó – tôi cần sợi xích ấy cho công việc của mình. Nhưng ít ra thì những chiếc rương của mẹ đã trở về tay tôi. Người còn mệt mỏi và hãi sợ nhưng tôi vẫn quyết định rằng, sau khi trời tối, tôi phải đi tìm Alice cùng Thầy Trừ Tà. Trong đêm, khả năng không bị bắt sẽ cao hơn – dù đó có là đám phù thủy hay tên cảnh sát cùng thuộc hạ của hắn. Tôi sẽ không thể dùng đến cây cầu kéo: một khi tôi hạ cầu xuống rồi rời khỏi ngọn tháp thì sẽ không có ai nâng cầu lên, và bất cứ mụ phù thủy nào cũng có thể dễ dàng lẻn vào tháp. Vậy là tôi sẽ phải rời đi bằng đường hầm, chấp nhận mạo hiểm đụng độ với thủy ác vong. Quyết định xong xuôi, tôi bỏ thêm khoai tây vào đống lửa để làm bữa tối cho mình, đoạn leo lên pháo đài để thăm dò địa thế xung quanh.
Tôi quan sát, chờ đợi và tích tụ lòng can đảm của mình khi mặt trời lặn xuống đằng chân trời. Sau khoảng chừng nửa giờ đồng hồ, tôi nhác thấy một chuyển động giữa rặng cây. Ba người từ trong rừng bước ra và bắt đầu đi về phía cầu kéo. Tim tôi nhảy lên, chứa chan hy vọng. Một người là Thầy Trừ Tà, thật dễ dàng nhận ra thầy với thanh trượng cùng tấm áo choàng kia. Thầy mang hai cái túi và bước đi quả quyết, một dáng vẻ mà tôi luôn có thể nhận ra từ rất xa.
Người đi bên trái thầy là Alice – điều không có gì phải bàn cãi – nhưng thoạt đầu tôi không nhận ra người đồng hành còn lại, người đang vác thứ gì đấy trên vai. Anh thật to cao, và khi anh đến gần hơn, tôi cảm thấy dáng vẻ của anh cũng có nét quen thuộc; cái cách hai vai anh đong đưa khi sải bước. Thế rồi đột nhiên, tôi nhận ra anh là ai.
Là James, anh trai tôi!
Tôi chưa gặp James ngót nghét ba năm rồi, và anh đã thay đổi thật nhiều. Khi anh tiến đến gần, tôi thấy nghề thợ rèn đã giúp anh có được cơ bắp cuồn cuộn, đôi vai thêm rộng. Tóc trên trán anh dường như thưa đi một chút nhưng gương mặt anh lại ngời ngời sức sống, anh trông như đang trong thời kỳ tuổi trẻ sung mãn. Và James đang vác theo một chiếc búa rèn to tướng.
Tôi đứng trên tháp vẫy tay điên cuồng. Alice là người đầu tiên trông thấy tôi và vẫy chào lại. Tôi thấy cô nói gì đấy với James rồi anh lập tức cười toe và vẫy tay theo. Nhưng Thầy Trừ Tà vẫn chỉ bước tiếp, gương mặt âu lo ảm đạm. Cuối cùng, ba người họ cũng dừng lại trước hào nước, đối mặt với chiếc cầu kéo vẫn còn đang dựng ngược.
“Thôi đi anh bạn!” Thầy Trừ Tà nói to, không kiên nhẫn huơ trượng chỉ trỏ. “Đừng lần khần nữa. Chúng ta không có cả ngày đâu! Hạ cầu xuống cho chúng ta vào nào!”
Nói thì dễ hơn làm đấy. Tin mừng là vòng bánh tời nặng trịch dường như được thiết kế cho hai người cùng vận hành chứ không phải một, có hệ thống bánh cóc. Như thế nghĩa là khi tôi quay tời, nới xích ra, thì trọng lượng của cây cầu trong một lúc sẽ chỉ khiến cho bánh xe quay không quá một phần tám vòng quay rồi bánh cóc sẽ ngăn bánh răng lại. Bằng không tay tời sẽ quay tít không kiểm soát được, đập gãy tay tôi hay còn tệ hơn nữa ấy chứ.
Việc hạ cây cầu kéo xuống mới chỉ là một nửa khó khăn thôi. Tiếp sau đấy tôi phải mở cánh cửa to tướng có tán đinh sắt hoen rỉ. Nhưng vừa khi tôi rút then cài nặng nề ra thì cánh cửa liền xoay ken két trên bản lề. Loáng sau James đã huých mở cửa, quẳng búa xuống mà choàng tay ôm lấy tôi, siết tôi chặt đến nỗi tôi cứ sợ xương sườn mình sẽ gãy vụn ra mất.
“Anh rất mừng khi gặp được em đấy Tom! Mừng thật đấy. Anh tự hỏi là mình còn có cơ hội gặp lại em không ấy chứ,” James vừa nói vừa giữ tôi ở khoảng cách một tầm tay và cười rạng rỡ với tôi. Trước đây, trong một tai nạn tại nông trại, James đã bị gãy nát mũi, giờ thì mũi anh ép sát vào mặt, tạo cho anh một vẻ nghịch ngợm. Đấy là một gương mặt “có cá tính”, như bố từng bảo, và chưa khi nào tôi hạnh phúc hơn lúc này đây, khi được nhìn thấy gương mặt ấy.
“Sau này hẵng sẽ có thời gian để trò chuyện,” Thầy Trừ Tà vừa nói vừa bước vào trong tháp, Alice theo ngay sau thầy. “Nhưng trước hết James này. Đóng cửa lại, cài then rồi nâng cây cầu kia lên đi. Xong rồi chúng ta có thể nghỉ ngơi chốc lát. À há, xem chúng ta có gì trong đây nào...?”
Thầy ngừng lời, liếc xuống vệt máu dẫn vào trong nhà kho, đoạn nhướn mày.
“Là máu của bọn Mouldheel đấy ạ. Chị gái của mẹ con ở trong mấy chiếc rương kia,” tôi đáp. “Họ là nữ yêu hoang dã...”
Thầy Trừ Tà gật gù nhưng không có vẻ gì là quá ngạc nhiên. Có phải từ hồi nào tới giờ thầy đã biết rồi chăng? Tôi bắt đầu băn khoăn.
“À, có tin đồn rằng bọn Mouldheel đã tháo chạy khỏi tháp Malkin chẳng bao lâu sau lũ Malkin, nhưng chúng ta không biết là vì sao,” thầy nói. “Vậy thì điều này lý giải cho chuyện ấy rồi đây. Hiện tại đám nữ yêu đang ở đâu?”
“Dưới kia ạ,” tôi đáp, dùng ngón cái ra hiệu.
James đã đóng cánh cửa gỗ to tướng lại và chèn then cửa vào chỗ cũ. “Máy móc vận hành cây cầu ở trên kia phải không Tom?” anh vừa hỏi vừa chỉ lên trên.
“Đi qua cửa sập, rẽ trái,” tôi đáp, James liền nhoẻn cười với tôi rồi chạy lên cầu thang từng hai bước một.
“Cậu không sao chứ Tom?” Alice dò hỏi. “Tớ đã đi tìm người giúp Jack rồi bọn tớ mau chóng quay lại nơi này.”
“Khi cả ba người ở đây thì tớ thấy khá hơn rồi, nhưng tớ vừa trải qua vài khoảnh khắc đáng sợ. Jack sao rồi?”
“An toàn. Anh ấy, Ellie và Mary đang được người tốt chăm sóc. Tớ cũng làm hết sức mình nữa, để phòng hờ thôi mà. Tớ đã nấu cho anh ấy chút thuốc khác. Jack vẫn còn chưa tỉnh táo, nhưng hơi thở của anh ấy đã khá hơn, hai má đã hồng hào đôi chút. Xét về mặt thể trạng thì Jack có vẻ đã khỏe hơn hẳn.”
“Anh ấy đang ở đâu vậy? Downham à?”
“Không đâu Tom. Downham quá xa nên tớ không mang anh ấy đến đó được, tớ còn muốn quay lại đây để xem có giúp được gì cho cậu không. Jack đang ở Roughlee với một trong những bà cô của tớ...”
Tôi thất kinh nhìn Alice. Roughlee là làng của tộc Deane. “Một mụ Deane! Cậu bỏ gia đình tớ lại cho một mụ phù thủy nhà Deane ư?”
Tôi nhìn qua thầy mình nhưng thầy chỉ nhướn mày.
“Cô Agnes không giống những người còn lại đâu,” Alice đáp. “Cô ấy không xấu xa đến thế. Tớ và cô luôn thân thiết với nhau. Họ của cô là Sowerbutts, cô từng sống tại Whalley, nhưng khi chồng cô qua đời, cô đã quay lại Roughlee. Cô tớ chỉ sống một thân một mình. Căn chòi của cô ấy ở ngoài rìa làng và sẽ không một ai trong đám kia biết gia đình cậu đang lánh tại đấy. Tin tớ đi Tom. Đấy là điều tốt nhất tớ làm được. Sẽ ổn thôi mà.”
Tôi chẳng vui vẻ gì, nhưng khi Alice vừa dứt lời, có tiếng bánh tời đang quay và âm thanh cây cầu dựng lên vọng lại. Chúng tôi im lặng chờ đợi cho đến khi James lại bước xuống mấy bậc thang.
“Chúng ta có rất nhiều chuyện cần trao đổi nên ta hãy ngồi xuống nào,” Thầy Trừ Tà lên tiếng. “Lại đằng kia gần lò sưởi trông cũng được đấy...”
Thầy tự với lấy một chiếc ghế kéo gần đến ngọn lửa. James cũng làm tương tự, nhưng tôi và Alice chỉ ngồi bệt xuống sàn ở hai bên lò lửa mà thôi.
“Tom này, tớ sẽ không chê một trong mấy củ khoai kia đâu,” Alice bảo. “Bao nhiêu ngày nay đã không ngửi thấy thứ gì thơm ngon như thế này rồi!”
“Số khoai ấy sẽ chín ngay thôi, tớ sẽ nướng thêm ít nữa...”
“Trước đây ta từng thử qua tài nấu nướng của con rồi nên ta không chắc đấy lại là ý kiến hay,” Thầy Trừ Tà lãnh đạm, buông ra lời chế giễu quen thuộc. Nhưng cho dù là thế, tôi biết thầy sẽ thích món khoai nướng thôi, ngay cả khi thầy phải phỏng vài ba ngón tay. Thế là tôi đi vào nhà kho mang ra một ôm vun những khoai và bắt tay vào việc dùng que cời đẩy đống khoai vào trong than hồng.
“Trong khi con đang lu bu với việc tự đẩy mình vào rắc rối chết người, thì bản thân ta cũng bận rộn vô cùng,” Thầy Trừ Tà kể. “Ta có cách riêng của mình để đánh hơi ra mọi chuyện, và khi nào cũng luôn có một hai người dân không hề sợ lên tiếng nói ra sự thật.
“Có vẻ như từ sau lễ Halloween năm rồi, những tên đặc phái viên của tộc Deane đã dần dà di chuyển xuống vào làng Downham để gieo rắc tội ác và khủng bố những người dân lương thiện. Đa số người dân trong làng quá khiếp sợ nên không dám cảnh báo cho cha Stocks biết, còn cha thì, ngoài những vụ trộm trong nghĩa địa, lại không hề hay biết rằng tình hình đến lúc ấy đã trở xấu rồi. Nỗi sợ hãi là một điều kinh khủng. Ai có thể trách họ được chứ khi con cái họ đang bị đe dọa? Khi bầy cừu của họ chết dần chết mòn ngay trước mắt còn đám gia súc thì lâm cảnh hiểm nghèo? Đến cuối mùa hè thì cả vùng ấy rồi sẽ lọt vào sự cai quản của một tộc phù thủy. Như con biết đấy, ta thích đơn đả độc đấu – nghĩa là ngoài chân học việc của ta ra ấy – nhưng lúc này đây thì không phải là lúc hoạt động như thế được.
“Ta đã cố kêu gọi bà con ra tay hành động nhưng ta lại phí hoài thời gian một cách vô ích. Như con biết đấy, đa số bọn họ sợ công việc của thầy trò ta và đám dân làng thật quá lo ngại đến nỗi thậm chí còn không mở cửa nhà chào đón ta nữa kia. Nhưng rồi anh trai James của con đến đấy, và sau lần đầu tiên nói chuyện thẳng thắn với Matt Finley, người thợ rèn vùng Downham, anh con đã khiến cho mọi người nhận thức được mối nguy hiểm khôn lường đang chực chờ họ cùng cùng gia đình. Rốt cuộc vài thanh niên trai tráng trong làng cũng hợp lại giúp sức. Ta sẽ không kể chi tiết cho con nghe làm gì, nhưng chúng ta đã dẹp tan bọn Deane, nhổ sạch tận gốc rễ, và bọn này còn lâu lắm mới có thể quay lại, nếu không muốn nói là không bao giờ!”
Tôi liếc sang Alice nhưng cô bé trong để lộ bất cứ phản ứng nào trong toàn bộ câu chuyện về tộc Deane.
“Vì toàn bộ chuyện này,” thầy tôi nói tiếp, “nên mãi muộn sau này ta mới nhận được tin nhắn con để lại, anh bạn ạ. Quá muộn nên không thể giúp được gì con. Bọn ta lên đường đi đến Read rồi gặp được Alice, con bé đang chờ đợi chúng ta ở ngoài ven trảng cỏ. Thế là chúng ta cùng nhau từ đấy đi đến rừng Quạ. Cha Stocks đáng thương,” thầy vừa nói vừa lắc đầu buồn bã. “Cha ấy là một chân học việc tài giỏi và là một người bạn trung thành với ta. Ông ta không đáng phải chết như thế...”
“Con xin lỗi thưa thầy Gregory,” tôi nói. “Con chẳng có thể làm gì để giúp cho cha ấy hết. Tibb đã uống lấy máu ông ấy nhưng rồi mụ Wurmalde lại dùng dao giết chết cha—” Ký ức về cha Stocks bị sát hại nằm dài trên giường ấy trở về sống động trong tôi khiến tôi sém chút nấc nghẹn không nói nên lời. “Mụ ta ra vẻ như là bà chủ của ngôi nhà ấy vậy – khống chế cả ngài Nowell nữa. Mụ ta buộc con tội sát nhân; ngài Nowell thì lại tin vào bất cứ lời nào mụ ta bảo với ông ta và sẽ giải con đến Caster chịu án treo cổ ngay sau khi tòa tháp bị chọc thủng. Rồi ông ta sẽ lại truy đuổi con cho xem. Và ai sẽ đi tin lời con cơ chứ?” tôi hỏi, lòng mỗi lúc một thêm hãi sợ khi nghĩ đến việc mình vẫn có khả năng bị bắt đến lâu đài Caster.
“Bình tĩnh lại đi anh bạn. Bị treo cổ phải là điều mà con ít lo nghĩ đến nhất chứ! Người ta đồn là cả chánh án Nowell lẫn cảnh sát Barnes đều đã mất tích. Ta ngờ rằng cả hai người này sẽ chẳng ai còn có khả năng kết án buộc tội gì cả đâu.”
Thốt nhiên tôi nhớ đến những gì mụ quản gia đã nói với tôi trong buồng giam tại điền trang Read: “Mụ Wurmalde đã bảo với con rằng chỉ trong vài ngày thôi rồi ngài Nowell sẽ chết và toàn bộ quận này sẽ lọt vào tay bọn chúng.”
“Vế đầu tiên có thể đúng đấy,” Thầy Trừ Tà bảo, “nhưng vế thứ hai thì không đâu. Lãnh thổ của chúng ta có thể đang lâm vào tình trạng chiến tranh nhưng chúng ta vẫn còn một hai trận đấu của riêng chúng ta chưa được tiến hành cơ mà. Nhất định là tình hình vẫn chưa kết thúc đâu – chưa đâu trong khi ta vẫn còn chút hơi tàn trong thân xác này. Chắc hẳn là chúng ta đã quá muộn không thể cứu mạng được cho ngài chánh án nhưng chúng ta vẫn còn có thể xử lý mụ Wurmalde – cho dù mụ ta có là ai đi nữa...”
“Mụ ta là một kẻ cựu thù của mẹ con ạ, như con đã thưa với thầy trong thư ấy,” tôi đáp. “Mụ ta là nguồn lực thúc đẩy đàng sau những gì mà bọn chúng sẽ cố thực hiện tại Lễ Hội Mùa. Mụ ta muốn hủy diệt toàn bộ những điều tốt đẹp mà mẹ con từng đấu tranh để gìn giữ. Mụ ta muốn giết con, ngăn không cho con trở thành thầy trừ tà, rồi sau đấy sẽ nhấn chìm toàn bộ Hạt này vào bóng tối. Đấy là lý do vì sao mụ ta muốn có được những chiếc rương của mẹ con. Chắc là mụ ta nghĩ trong đấy có chứa nguồn sức mạnh của mẹ. Và trò khơi dậy Quỷ Vương là ý tưởng của mụ ta đấy ạ. Mab đã từ chối không muốn tham gia cùng với các tộc khác, nhưng ngay trước khi các nữ yêu đuổi cô ả cùng tộc của ả ra khỏi tháp, Mab nổi giận và nói rằng ả sẽ gia nhập cùng tộc Malkin và Deane; rằng ả sẽ giúp cho mụ Wurmalde đấy.”
Thầy Trừ Tà gãi gãi chòm râu ra chiều trầm ngâm. “Trông có vẻ như chúng ta đã trả một giá khá cao để đuổi bọn chúng ra khỏi ngọn tháp này. Mục tiêu chính yếu của chúng ta là giữ cho các tộc chia cắt với nhau nên mấy chiếc rương kia buộc chúng ta đánh đổi một cái giá rất đắt. Ta thấy hình như mụ Wurmalde kia là chìa khóa trong mọi chuyện này. Một khi chúng ta giải quyết được mụ ta rồi, rất có thể có khả năng là toàn bộ âm mưu này sẽ tan thành mây khói. Mấy tộc phù thủy lâu nay luôn lăm le cắn xé lẫn nhau. Wurmalde mà biến mất thì tình hình sẽ trở lại như cũ. Còn có ba ngày nữa thôi là đến Lễ Hội Mùa nên chúng ta còn rất ít thời gian. Chúng ta phải gây chiến với mụ ta thôi. Chúng ta sẽ tấn công vào thời gian và địa điểm mà mụ ta ít ngờ đến nhất.
“Rồi khi đấy, dù thua hay thắng, chúng ta sẽ phải chuyển chú ý sang lễ sabbath của đám phù thủy và ra sức ngưng nghi lễ lại. James cuối cùng cũng đã thuyết phục được những dân làng ở Downham rằng tương lai của gia đình họ phụ thuộc vào việc họ giúp sức cho chúng ta, nên người dân đã hứa là họ sẽ ra tay giúp đỡ. Khi đấy họ đang còn thấy can đảm lắm, vẫn còn lâng lâng sau khi đánh đuổi được bọn Deane, nhưng từ đó đến nay cũng đã qua mấy ngày rồi và việc nhớ lại sự hiểm nguy có thể sẽ làm giảm bớt sự quyết tâm của họ – mặc dù ta chắc chắn rằng vài người vẫn sẽ giữ lời. Mà thôi anh bạn này,” Thầy Trừ Tà nói, xoa xoa hai tay, mắt nhìn chăm chú vào đống than hồng, “mấy củ khoai nướng kia đâu rồi ấy nhỉ? Ta đang đói như con sói đấy nên thôi thì cũng đành liều ăn một củ xem sao!”
Mấy củ khoai mới nướng vẫn chưa chín, nhưng tôi dùng que cời kéo từ than hồng ra một củ lúc nãy tôi chuẩn bị cho mình. Tôi nhặt khoai lên rồi nhanh nhảu quăng qua cho thầy mình. Thầy khéo léo bắt lấy còn tôi thì cố không cười cho lắm vào khi thầy bắt đầu chuyển khoai qua lại giữa hai tay để mấy ngón tay thầy không bị bỏng.
Và mặc cho bao chuyện tồi tệ đã xảy ra, tôi vẫn có thể nhoẻn cười được. Tôi đã có được nhiều hơn là chỉ một tin tức tốt lành. Ellie cùng con gái đang được an toàn, và Jack, nếu không hồi phục, thì hình như cũng là đang tiến triển tốt. Và có lẽ rốt cuộc thì tôi cũng sẽ không bị bắt đến Caster nữa rồi.
Nhưng còn có một chuyện khác mà tôi đã không kể cho Thầy Trừ Tà nghe. Vì không tin vào chuyện tiên tri, nên thầy hẳn sẽ chỉ bực bội mà thôi. Trong thư mẹ tôi đã nói rằng thế lực bóng tối bằng xương bằng thịt sẽ sớm rảo bước trên trái đất này. Ý mẹ là muốn nói đến Quỷ Vương. Trước đây mẹ tôi từng nói đúng. Nếu lần này mẹ cũng nói đúng nữa, thế có nghĩa là chúng tôi sẽ thất bại trong việc phá tan nghi thức sabbath trong Lễ Hội Mùa, khiến cho Ác Quỷ được sổng ra thế giới.
Bên ngoài chẳng mấy chốc trời tối dần, và trong lúc chúng tôi đang ăn, đang đắm mình trong ánh sáng cùng hơi ấm tỏa ra từ lò lửa, tôi cảm thấy khá lên hơn bao nhiêu ngày qua. Ít ra thì mẹ tôi cũng đã cân bằng những lời lẽ u ám của mình bằng sự lạc quan. Tôi không thể biết được làm cách nào mình sẽ tìm thấy sức mạnh để chống lại Ác Quỷ, nhưng tôi phải đặt lòng tin vào những gì mẹ tôi tin tưởng.
Sau chừng một giờ đồng hồ thì cả hội quyết định chúng tôi cần phải nghỉ ngơi chốc lát; với bao chuyện đã xảy ra cùng sự phấn khởi khi được gặp lại James, Alice cùng Thầy Trừ Tà, tôi biết mình sẽ không thể chợp mắt được, thế là tôi xung phong canh gác. Dù sao thì tốt hơn là tôi nên đề cao cảnh giác phòng trường hợp hai nữ yêu đến đây đánh hơi. Tôi tin chắc mình và James sẽ không nằm trong thực đơn đâu, nhưng tôi không rõ về những người còn lại. Mới đầu tôi tính nói cho James biết rằng hai nữ yêu này là dì của anh ấy, nhưng càng ngẫm nghĩ nhiều hơn, tôi càng thấy việc này có vẻ không phải là ý hay. Bất chấp hơn cả năm trời huấn luyện làm kẻ trừ tà, tôi vẫn thấy thật khó khăn làm sao khi phải đối mặt với ý tưởng rằng hai sinh vật đó thật ra là chị em của mẹ mình. Hẳn với James để chấp nhận chuyện này còn khó khăn hơn nhiều lắm. Thế là, sau khi nghĩ đi nghĩ lại, trừ phi là tuyệt đối cần thiết, tôi quyết định giữ kín chuyện này với James.
Thầy Trừ Tà cùng Alice chốc lát đã ngủ say, nhưng sau một đỗi thì James đứng lên, đặt ngón tay lên môi rồi chỉ ra bức vách đầu bên kia cách xa lò lửa, nơi để mấy chiếc rương của mẹ. Tôi đi theo anh sang đấy.
“Anh không thể ngủ được Tom à,” James bảo. “Anh không biết em có muốn trò chuyện một lát không?”
“Tất nhiên là muốn chứ James. Gặp lại anh tốt quá. Em chỉ lấy làm tiếc mà mọi chuyện lại ra nông nỗi này. Em cứ mãi nghĩ đấy là lỗi của em,” tôi bảo anh trai. “Làm chân học việc cho thầy trừ tà hình như chỉ lôi kéo rắc rối mà thôi. Ellie và Jack trước nay vẫn luôn lo sợ rằng rồi chuyện gì đấy như thế này sẽ xảy đến—”
James lắc đầu. “Chuyện còn sâu xa hơn thế Tom ạ. Sâu xa hơn nhiều. Mẹ muốn em lãnh lấy việc ấy. Bà đã mong muốn điều này hơn bất cứ thứ gì. Đấy là điều mẹ đã nói với anh tại đám tang của bố. Và còn điều gì đấy khác nữa. Mẹ đã kéo anh sang một bên mà bảo rằng cái ác đang ngày càng lớn mạnh trên thế giới này và rằng chúng ta phải chiến đấu chống lại nó. Mẹ đã yêu cầu anh, nếu đến lúc, anh phải quay về nông trại để phụ giúp cho Jack cùng gia đình anh ấy. Và anh đã đồng ý.”
“Ý anh là về sống tại đấy ấy à?” tôi hỏi.
James gật đầu. “Tại sao lại không chứ? Anh đâu có ràng buộc thân thiết gì với Ormskirk. Cũng có một cô anh thích đấy, nhưng rốt cuộc cũng chẳng ra ngô ra khoai gì. Năm ngoái cô ấy đã kết hôn với một nông dân trong vùng và anh cũng đau khổ một thời gian, nhưng ta phải sống tiếp thôi. Anh có thể phụ giúp Jack tí chút việc đồng áng trong những lúc bận rộn. Anh thậm chí còn nghĩ bọn anh có thể xây một lò rèn ngay sau kho chứa cỏ nữa kìa.”
“Anh sẽ có chút ít việc để làm đấy nhưng sẽ không đủ để trang trải đâu,” tôi bảo với James. “Lúc này từ Topley đã có đến hai thợ rèn rồi. Ai cũng tới chỗ của họ hết.”
“Anh nghĩ mình cũng có thể thử nấu thêm chút bia xem sao. Đấy là cách nông trại của bố có được cái tên ban đầu ấy mà.”
Quả vậy thật. Ngày trước, trước khi mẹ mua cho bố nông trại, nơi ấy từng được gọi là “Nông trại Người Ủ Bia” và đã cung cấp bia cho những nông trại và làng mạc trong vùng.
“Nhưng anh có biết gì về ủ bia đâu chứ!” tôi phản đối.
“Không, nhưng khi nếm được loại bia nào ngon là anh biết ngay!” James cười toe cự lại. “Anh có thể học hỏi, phải không nào? Ai mà biết có thể gặt hái được những gì khi ta quyết tâm cơ chứ! Chuyện gì thế hả Tom? Em trông không được vui với ý tưởng anh sẽ quay về sống tại nhà. Phải không thế?”
“Không phải đâu James à. Chỉ là em lo lắng thôi. Giờ đây bọn phù thủy tại Pendle đã biết nông trại ở đâu. Cho dù chúng ta có làm gì tại đây, chuyện cũng sẽ không chấm dứt đâu. Sẽ không bao giờ chấm dứt cả. Em chỉ không muốn trông thấy thêm một người anh trai bị làm hại thôi mà.”
“Thôi, đấy là điều mẹ muốn và anh sẽ làm theo. Anh nghĩ cái lúc mà mẹ nói ấy đã đến; nếu có một mối đe dọa kéo dài nào đấy, thì anh nghĩ mình nên sát cánh cùng anh trai mình và gia đình anh ấy. Mà thôi, chắc cũng phải mất một thời gian dài nữa thì Jack mới phục hồi sức mạnh hoàn toàn. Đấy là bổn phận của anh – anh quan niệm như thế, nên ý anh đã quyết rồi.”
Tôi gật đầu mỉm cười. Tôi hiểu rõ về bổn phận lắm chứ và tôi biết ý anh mình muốn nói gì.
James chỉ tay xuống chiếc rương của mẹ. “Em đã tìm thấy gì trong ấy thế? Có đáng để phải chịu bao nhiêu rắc rối kia không?” anh hỏi.
“Em nghĩ là có đấy James. Câu chuyện về cuộc đời của mẹ nằm đâu đấy trong chiếc rương này – nhưng sẽ phải mất một thời gian mới hiểu ra hết được. Và trong đấy có thể có thứ gì ấy rất hùng mạnh; thứ mà chúng ta có thể dùng để chiến đấu chống lại thế lực bóng tối. Trong rương còn chứa rất nhiều sách của mẹ nữa – một số trông như nhật ký của mẹ; những câu chuyện từ thời chúng ta còn thơ bé. Còn có cả tiền nữa nhé. Anh có muốn xem qua không?”
“Ồ, có chứ Tom, anh rất muốn xem qua đấy,” James hăm hở đáp, thế nên tôi nhấc nắp rương lên.
Trong lúc anh mở tròn mắt nhìn vào những thứ trong rương, tôi nhặt một trong những túi tiền lên, tháo dây và lôi ra một nắm tiền vàng.
“Trong này là cả một gia tài đấy Tom!” James há hốc. “Chẳng lẽ bao nhiêu năm qua từng này tiền vẫn nằm trong nhà sao?”
“Hẳn là vậy rồi. Và hai chiếc túi kia cũng chứa đầy từng ấy,” tôi đáp. “Chúng ta nên chia thành bảy phần – tất cả thuộc về mọi người con của mẹ, chứ không chỉ riêng em. Phần của anh có thể trang trải cho một lò rèn và giúp anh no đủ cho đến khi anh ổn định được cuộc sống đấy.”
“Tom, em thật là hào phóng,” James đáp, trông anh vừa nghi hoặc vừa lắc lắc đầu, “nhưng nếu đấy đã là điều mẹ muốn, thì hẳn mẹ đã tự tay chia cho các anh em rồi. Không, cơ bản là tiền này nằm trong rương, cùng với tất cả những món khác sẽ rất hữu dụng cho em trong nghề nghiệp của em, nghĩa là có thể em lại cần đến nó cho một điều gì đó khác. Một điều gì đó quan trọng hơn nhiều...”
Tôi đã không nghĩ đến điều này. Luôn có lý do trong mọi chuyện mà mẹ làm. Việc này cần phải được suy nghĩ kỹ càng thêm chút nữa.
James cầm cuốn sách bọc da dày nhất lên, cuốn sách từng thu hút ánh mắt tôi ngay khi tôi mở rương ra. Anh mở sách ra ngay trang gần đầu.
“Gì thế này?” anh hỏi, vẻ mặt trông ngạc nhiên khó hiểu. “Trông như là chữ viết tay của mẹ vậy nhưng anh không thể hiểu đầu cua tai nheo gì cả. Là một thứ ngoại ngữ...”
“Là ngôn ngữ của mẹ, tiếng Hy Lạp ấy mà,” tôi bảo với James.
“À phải rồi nhỉ. Anh chẳng chịu nghĩ gì cả. Nhưng mẹ đã dạy em ngôn ngữ đó, phải không nào? Anh thắc mắc tại sao mẹ lại không dạy cho anh nhỉ?” James trông buồn bã một hồi nhưng rồi gương mặt anh bừng sáng. “Anh nghĩ đấy chắc là vì nghề nghiệp mà mẹ muốn em theo đuổi thôi, Tom nhỉ. Mẹ luôn có lý do chính đáng cho mọi chuyện và khi nào cũng hành động vì lợi ích cao nhất. Anh không cho là em có thể đọc một chút trong sách này cho anh chứ? Em có ngại không? Chỉ vài chữ thôi mà...”
Nói lời, anh đưa cho tôi cuốn sách, vẫn còn để mở tại trang mà anh tình cờ chọn lấy ngay từ đầu. Tôi loáng liếc qua. “Là nhật ký của mẹ đấy James,” tôi bảo với anh trước khi lớn tiếng đọc lên, dịch ra từ đầu trang:
“Ngày hôm qua ta đã hạ sinh một bé trai khỏe mạnh xinh xắn. Chúng ta sẽ gọi bé là James, một tên hay của Hạt và là sự lựa chọn của bố bé. Nhưng cái tên bí mật ta dành riêng cho bé sẽ là Hephaestus, được đặt theo tên vị thần của lò rèn. Vì ta nhìn thấy ánh lửa lò rèn trong đôi mắt thằng bé cũng như chiếc búa rèn trong tay con. Ta chưa khi nào hạnh phúc hơn thế. Ôi ta muốn mình mãi mãi có thể làm mẹ của những đứa bé con. Thật buồn làm sao trẻ con rồi phải lớn lên để phải làm những gì phải được làm.”
Tôi ngừng đọc còn James kinh ngạc nhìn tôi. “Và rồi anh trở thành một thợ rèn!” anh reo lên. “Cứ như thể là mẹ đã chọn lấy nghề cho anh từ khi mới lọt lòng vậy...”
“Có lẽ là vậy thật đấy, James ạ. Bố đã sắp xếp cho anh học việc nhưng có lẽ mẹ đã chọn nghề cho anh. Chắc chắn trong trường hợp của em chuyện đã xảy ra như thế.”
Còn có một lẽ khác mà tôi không buồn nhắc đến. Nhưng có lẽ, đến thì đến lúc, James sẽ tự mình nhận ra được mà thôi. Đấy là cái cách anh ấy đã chọn lấy ngay trang đề cập trực tiếp đến tên và sự ra đời của chính mình. Hầu như thể là mẹ từ phương trời xa xôi đã vươn tới khiến cho James phải chọn lấy trang ấy. Đây cũng là cuốn sách đã thu hút lấy tôi; cuốn sách mà từ đấy lá thư rơi ra, mách cho tôi biết những gì tôi cần biết về nội dung trong hai chiếc rương còn lại.
Nếu quả thật là vậy, điều này khiến tôi nhận ra rằng mẹ mình mới quyền năng đến mức nào. Bà đã ngăn không cho lũ phù thủy mở những chiếc rương ra rồi giờ đây những chiếc rương nằm trong chúng tôi và lại được hai người chị nữ yêu của bà bảo vệ. Nghĩ đến đấy làm cho tôi thêm phần lạc quan. Những hiểm nguy trước mặt là vô cùng lớn lao, nhưng với một người mẹ giống như mẹ của tôi đây hẫu thuận sau lưng cùng thầy tôi sát cánh bên mình, có lẽ cuối cùng mọi chuyện cũng đều sẽ được thu xếp ổn thỏa.
Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 4 - Đòn Tấn Công Của Quỷ Vương Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 4 - Đòn Tấn Công Của Quỷ Vương - Joseph Delaney Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 4 - Đòn Tấn Công Của Quỷ Vương