Anger is like a storm rising up from the bottom of your consciousness. When you feel it coming, turn your focus to your breath.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Joseph Delaney
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 28
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1751 / 26
Cập nhật: 2017-05-09 22:24:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 8 - Bà Quản Gia Wurmalde
ược xây trên chính sân nhà nằm trong trảng cỏ, điền trang Read là ngôi nhà vùng nông thôn ấn tượng nhất mà tôi từng thấy, trông giống một tòa dinh thự hơn là nhà của quý ông thôn dã. Những cánh cổng rộng dẫn vào lối xe ngựa trải sỏi thậm chí còn rộng hơn chạy thẳng đến cửa trước. Từ đây, con đường trải sỏi chĩa ra hai nhánh phải trái thành lối vào phần sau tòa nhà. Điền trang cao ba tầng với lối vào chính uy nghi tráng lệ. Hai chái nhà phủ đầy dây leo vươn dài ra trước tạo thành một sân trong rộng mở với ba mặt vách. Tôi sững sờ quan sát dãy cửa sổ có chấn song, thắc mắc không biết hẳn phải có bao nhiêu phòng ngủ đây.
“Gia đình ngài chánh án đông người không ạ?” tôi vừa hỏi vừa kinh ngạc chiêm ngưỡng điền trang Read.
“Gia đình của Roger Nowell từng sinh sống cùng ông ấy tại đây,” cha Stocks đáp, “nhưng buồn thay phu nhân ông ấy đã qua đời cách đây vài năm. Ông ấy có hai cô con gái đã lớn, đã tìm được cho mình tấm chồng thích hợp ở miền nam của Hạt. Người con trai độc nhất đang tại ngũ và đến khi ngài Nowell qua đời thì anh ta sẽ quay về đây kế thừa điền trang lẫn khu đất này.”
“Hẳn là lạ lùng lắm khi phải sống một mình trong căn nhà lớn thế này,” tôi chiêm nghiệm.
“Ồ, không hẳn là ông ta sống một thân một mình đâu Tom à. Ông ta có gia nhân để nấu nướng giặt giũ, và dĩ nhiên, còn có quản gia của ông ta, bà Wurmalde. Bà ta là một phụ nữ ghê gớm biết quản lý mọi việc rất hiệu quả. Nhưng theo vài khía cạnh nào đó thì bà ta không giống những gì con thường hay nghĩ về một người ở trong vị trí của bà ta đâu. Người nào không biết tình huống thực tế có thể sẽ lầm bà ta là chủ nhà đấy. Ta thì luôn thấy bà ta lịch sự và thông minh, nhưng nhiều người bảo bà ta quá kiêu căng, hay làm bộ làm tịch vượt quá địa vị của mình. Chắc chắn bà ta đã thay đổi nhiều điều trong mấy năm gần đây. Có lần, khi ghé qua điền trang Read, ta gõ cửa trước. Nhưng giờ đây chỉ có các hiệp sĩ hay công tôn mới được chào đón từ cửa trước. Chúng ta phải sử dụng lối vào dành cho thợ thuyền ở bên hông.”
Thế là, thay vì dẫn đường đi đến cửa trước uy nghi tráng lệ, cha Stocks chuyển hướng sang bên hông nhà, bên tay phải chúng tôi là những rặng cây bụi cỏ trang trí, cho đến khi chúng tôi dừng bước trước một cánh cửa nhỏ. Cha Stocks lịch sự gõ lên đấy ba lần. Sau khi đứng chờ gần được ba phút, cha lại gõ, lần này lớn tiếng hơn. Chập sau một cô hầu gái ra mở cửa và bồn chồn chớp chớp mắt dưới ánh mặt trời.
Cha Stocks yêu cầu được nói chuyện với ngài Nowell và chúng tôi được dẫn vào một lối sảnh rộng lớn ốp ván tường sẫm màu. Cô hầu gái lúi cúi đi ra và chúng tôi bị bỏ lại đấy chờ đợi thêm nhiều phút nữa. Sự lặng ngắt như tờ này khiến tôi liên tưởng mình đang ở trong nhà thờ, cho đến khi có tiếng bước chân đến gần phá tan sự im ắng ấy. Nhưng thay vì là một quý ông như tôi tưởng, thì trước mặt chúng tôi lại là một phụ nữ đang chằm chằm dò xét chúng tôi. Ngay lập tức, từ những gì cha xứ đã kể, tôi biết đấy chính là bà quản gia Wurmalde.
Bà ta khoảng chừng gần bốn mươi, so với phụ nữ thì bà này khá cao, dáng đứng kiêu hãnh, vai ưỡn ra sau cùng đầu ngẩng cao. Mái tóc đen rậm của bà ta được vén sang trên hai bên tai như bờm sư tử – kiểu tóc rất phù hợp với bà ta, vì nó phô bày ra mọi nét cứng nhắc của bà ta một cách đẹp mắt.
Còn có thêm hai nét khác thu hút ánh nhìn của tôi, khiến ánh mắt tôi không chủ tâm mà cứ đảo qua đảo lại giữa hai nét này: cặp môi và đôi mắt của bà quản gia Wurmalde. Bà ta chỉ chú mục vào cha xứ mà không nhìn thẳng vào tôi, nhưng tôi có thể nhận thấy ánh mắt bà ta vừa chòng chọc vừa xuyên thấu; tôi cảm thấy chỉ cần bà ta liếc qua thôi thì hẳn bà ta sẽ nhìn thấu tâm can tôi mất. Còn về cặp môi, chúng tái nhợt giống môi xác chết. Bờ môi vừa rộng vừa dày, và mặc dù trông chúng rất cần phải có chút màu sắc nhưng rõ ràng bà Wurmalde là một người phụ nữ đầy sức mạnh lẫn sức sống.
Tuy nhiên chính bộ váy áo của bà ta mới khiến tôi ngạc nhiên hết đỗi. Tôi chưa bao giờ thấy người phụ nữ nào ăn vận như thế. Bà quản gia Wurmalde mặc một chiếc váy đen bằng loại lụa mịn nhất, cổ áo viền xếp nếp màu trắng, và nguyên bộ váy đó là một lượng vải đủ để may cho thêm hai mươi người khác nữa. Phần chân váy từ hông trở xuống xòe ra như hình một cái chuông lớn sà đến chạm sàn, che khuất đôi giày. Ta phải cần đến bao nhiêu lớp lụa mới tạo được kiểu xòe như thế? Hẳn phải ngốn bộn tiền; loại xống áo thế kia chắc chắn thích hợp cho một buổi yết kiến hoàng gia thì hơn.
“Hân hoan chào đón cha, thưa cha,” bà quản gia Wurmalde lên tiếng. “Nhưng chúng tôi vinh hạnh được cha đến thăm vì mục đích gì thế? Còn kẻ đi cùng cha là ai vậy?”
Cha xứ khẽ cúi đầu chào. “Ta mong được thưa chuyện với ngài Nowell,” cha Stocks đáp. “Còn đây là Tom Ward, một vị khách ghé qua Pendle.”
Lần đầu tiên đôi mắt của bà giáo Wurmalde mới chiếu thẳng đến tôi và tôi thấy chúng thoáng mở lớn. Đoạn lỗ mũi bà ta hỉnh lên khi bà ta thoáng đánh hơi về phía tôi. Và trong loáng tiếp xúc ấy, kéo dài cùng lắm là chưa tới một giây, một cơn ớn lạnh băng giá từ sau gáy tôi chạy dọc xuống sống lưng. Tôi biết có kẻ dính dáng đến thế lực bóng tối đang hiện diện tại đây. Lòng tôi tràn ngập niềm tin rằng người đàn bà này là phù thủy. Và trong một khoảnh khắc tôi nhận thức được bà ta biết tôi là gì. Một thoáng chốc nhận diện lẫn nhau xảy đến.
Một cái nhíu mày xuất hiện trước khi nhanh chóng được chữa lại và bà ta mỉm cười lạnh lùng, quay lưng về phía cha xứ. “Xin lỗi nhé cha, nhưng hôm nay thì không được rồi. Ngày Nowell đang vô cùng bận rộn. Ta đề nghị ngày mai cha quay lại vậy – chắc khoảng vào buổi chiều chăng?”
Cha Stocks thoáng thay đổi sắc mặt, nhưng ông đứng thẳng lưng lên, và khi nói, giọng ông đầy vẻ cương quyết. “Thưa quản gia Wurmalde, ta phải xin lỗi cho sự đường đột này, nhưng ta muốn nói chuyện với ngài Nowell với quyền hành làm chánh án của ông ấy. Chuyện này rất khẩn cấp và sẽ không đợi được đâu…”
Bà quản gia Wurmalde gật đầu nhưng trông chẳng vui vẻ chút nào. “Vậy thì tốt nhất hãy đứng đợi ở đây,” bà ta ra lệnh cho chúng tôi. “Để xem ta có làm được gì không.”
Thế là chúng tôi đứng trong sảnh hành lang. Lòng chất chứa lo âu, tôi chỉ một mực muốn nói cho cha Stocks biết mối quan ngại của mình về bà quản gia Wurmalde nhưng lại e là bà ta có thể quay lại bất cứ lúc nào. Thế nhưng, bà ta lại phái cô người hầu đến dẫn chúng tôi vào trong phòng làm việc rộng ngang ngửa với thư viện tại Chipenden của Thầy Trừ Tà, cả về kích cỡ lẫn số lượng đầu sách chứa trong ấy. Nhưng trong khi sách của Thầy Trừ Tà mang đủ hình dạng kích thước và bọc bằng đủ loại bìa khác nhau, thì những cuốn sách ở đây được bao bằng một loại da mịn màu nâu giống hệt nhau. Theo tôi thấy thì là, dường như mấy cuốn sách này được bọc đấy để trưng bày trang trí hơn là để đọc.
Phòng này trông vui mắt và ấm áp, được chiếu sáng bằng một lò sưởi đốt củi đang cháy hừng hực bên tay trái chúng tôi, bên trên là một tấm gương lớn trong khung mạ vàng chạm trổ. Khi chúng tôi bước vào, ngài Nowell đang ngồi hí hoáy bên bàn giấy. Trên bàn phủ đầy giấy tờ, trái ngược với sự ngăn nắp gọn gàng trên mấy tầng kệ. Ngài Nowell đứng lên và mỉm cười chào đón chúng tôi. Ông ta cỡ chừng chớm năm mươi, eo thon vai rộng. Gương mặt ông ta dãi dầu sương gió – trông giống một nông dân hơn là chánh án nên tôi nghĩ ông này thích cuộc sống hoạt động ngoài trời. Ông ta nồng nhiệt chào hỏi cha Stocks, hòa nhã gật đầu về phía tôi và mời hai chúng tôi ngồi xuống. Chúng tôi kéo hai chiếc ghế đến gần bàn giấy và cha xứ không bỏ lỡ chút thời gian nào, đề cập ngay đến mục đích chuyến viếng thăm. Cha dứt lời bằng việc đưa cho ngài Nowell tờ giấy mà trên đó cha đã ghi lại lời khai của hai nhân chứng từ Hộc Goldshaw.
Ngài chánh án thoáng đọc qua rồi ngước mắt lên. “Và thưa cha, cha bảo những người này sẽ tuyên thệ bảo đảm cho những sự kiện được kể ra trong này ư?”
“Không chút nghi ngờ nào. Nhưng chúng ta phải đảm bảo là họ được giấu tên.”
“Hay lắm,” ngài Nowell nói. “Cũng đã đến lúc đám ác bá trong ngọn tháp ấy phải được xử lý một lần cho dứt điểm rồi – chứng cứ này có thể đúng là thứ chúng ta cần để ra tay. Cậu bé, cậu biết viết chứ?” ngài chánh án nhìn tôi mà hỏi.
Tôi gật đầu, thế là ông ta đẩy một tờ giấy về phía tôi. “Cậu hãy viết ra tên tuổi của những ai bị bắt cóc, mô tả những món đồ đã bị cướp đi. Sau đó ký vào cuối trang…”
Tôi làm theo lời ngài chánh án rồi đưa trả lại tờ giấy. Ông đọc loáng qua rồi đứng dậy. “Ta sẽ cho gọi viên cảnh sát và chúng ta sẽ ghé đến tháp Malkin. Đừng lo cậu bé ạ. Đến lúc trời tối chúng ta sẽ đưa được gia đình cậu về an toàn mạnh giỏi.”
Chỉ khi chúng tôi quay lưng rời khỏi căn phòng, thì qua khóe mắt, tôi nghĩ mình vừa trông thấy thứ gì đó dịch chuyển trong gương. Có lẽ tôi đã lầm nhưng hình ảnh ấy trông như một thoáng lụa đen loáng qua, biến mất tăm ngay khi tôi nhìn thẳng vào gương đấy. Tôi băn khoăn không rõ liệu có phải nãy giờ mụ Wurmalde đã rình rập chúng tôi chăng.
Trong vòng một giờ chúng tôi đã trên đường tiến đến tháp Malkin.
Ngài chánh án dẫn đường đi trước, cưỡi trên lưng một con ngựa cái màu loang to lớn. Ngay phía sau, bên trái ông ta là viên cảnh sát của xứ đạo, người tên Barnes có gương mặt hà khắc, ăn vận toàn một màu đen và cưỡi một chú ngựa bé hơn màu xám. Cả hai người đều mang vũ khí: Roger Nowell đeo kiếm ngang hông còn viên cảnh vệ mang theo một cây gậy dày cui và cùng cuộn roi da móc ngang yên ngựa. Cha Stocks và tôi ngồi trên cỗ xe không mui, chen chúc chật chội cùng hai gã mõ tòa mà viên cảnh vệ đã mang theo. Họ ngồi lặng lẽ bên cạnh chúng tôi, săm soi mấy cây dùi cui nhưng không nhìn vào mắt nhau, và tôi có cảm giác rất thật rằng hai anh này không muốn lên đường đi đến tòa tháp. Người đánh xe là một trong những người hầu của ngài Nowell, tên Cobden, ông này từng gật đầu với cha xứ rồi lầm bầm “Chào cha”, nhưng lại hoàn toàn phớt lờ tôi.
Con đường nhấp nhô lồi lõm không chút bằng phẳng và chuyến đi dằn xóc liên tục làm tôi nôn nóng chỉ muốn chóng đến nơi cho xong. Lẽ ra nếu đi băng ngang qua miền quê thì chúng tôi đã có thể đi nhanh hơn rồi, tôi thầm nghĩ, thay vì mãi đi theo các con lộ lẫn lối mòn. Nhưng chẳng ai hỏi ý kiến của tôi cả nên tôi chỉ biết im lặng chịu đựng. Vả lại còn có những thứ khác khiến tôi bận tâm nên không để ý đến sự bất tiện của cỗ xe.
Nỗi lo lắng dành cho Jack, Ellie cùng con của hai anh chị mỗi lúc một chất chồng. Lỡ họ bị đem đi chỗ khác rồi thì sao? Khi ấy những ý nghĩ bi quan hơn xuất hiện, mặc dù tôi cố hết sức đè nén chúng ngược vào trong tâm tưởng. Lỡ họ đã bị giết chết và xác của mọi người bị giấu vào nơi không bao giờ có thể tìm thấy thì thế nào? Đột nhiên một cục nghẹn dâng lên trong họng tôi. Rốt cuộc anh chị ấy đã làm gì sai cơ chứ? Họ không đáng phải bị như thế – Mary mới chỉ là một đứa bé thôi mà. Rồi thêm một sinh mạng thứ tư sẽ mất đi – đứa bé con chưa ra đời của chị Ellie, đứa con trai trước nay anh Jack hằng mong muốn. Tất cả đều là lỗi tại tôi. Nếu như tôi không phải là chân học việc cho Thầy Trừ Tà, thì chẳng có việc gì như thế này xảy đến hết. Lũ Malkin và Deane bảo rằng chúng muốn tôi phải chết: nhất định là có liên quan đến loại công việc mà tôi đang được huấn luyện.
Bất chấp sự hiện diện của chánh án Nowell cùng viên cảnh sát, tôi vẫn không lạc quan cho lắm về khả năng chúng tôi xông vào bên trong tháp Malkin. Thế nếu bọn Malkin cứ từ chối không chịu mở cửa thì sao? Nói cho cùng, cánh cổng này vừa dày vừa tán đinh sắt – tôi không rõ như thế có gây ra rắc rối gì cho bọn phù thủy hay không, nhưng rồi tôi nhớ ra còn những người trong tộc đóng cửa mở cửa cho nữa. Còn có cả một thành hào bao quanh. Tôi thấy dường như ngài Nowell tin tưởng vào sự e ngại luật pháp và hậu quả của việc kháng cự từ bọn chúng. Nhưng ông ta không biết mình đang phải đương đầu với những mụ phù thủy thực thụ, còn tôi thì không đủ tự tin mấy vào sức mạnh của một thanh kiếm cùng vài chiếc dùi cui để giải quyết mọi việc.
Tôi còn phải nghĩ đến vấn đề rắc rồi từ bà quản gia Wurmalde nữa. Bản năng tôi thét gào rằng bà ta là phù thủy. Ấy thế mà bà ta lại là quản gia cho chánh án Nowell, đại diện tối thượng cho luật pháp ở Pendle này, và là một người mà, mặc cho biết bao nhiêu chuyện đã xảy ra trong khu vực này của Hạt, vẫn tin rằng phù thủy không tồn tại. Liệu có phải sự không tin ấy là hậu quả từ việc bản thân ông ta cũng đã bị làm phép rồi chăng? Có phải bà ta đang dùng phép bỏ bùa lẫn mê hoặc – là những quyền năng phù thủy mà Thầy Trừ Tà đã mô tả ấy?
Tôi nên làm gì với chuyện này nhỉ? Nói cho ông Nowell nghe cũng vô ích thôi, nhưng tôi cần phải thông báo cho cha Stocks lẫn Thầy Trừ Tà ngay khi có cơ hội. Tôi đã muốn nói cho cha Stocks biết trước khi chúng tôi lên đường đi đến tháp nhưng quả thật tôi đã không có dịp.
Trong lúc các suy nghĩ ấy đang quay cuồng trong đầu tôi, chúng tôi đã leo ngược lên trên, băng qua ngôi làng trong Hộc Goldshaw. Con phố chính vắng tanh không bóng người nhưng các tấm rèm cửa sổ bằng ren khẽ dao động khi chúng tôi đi ngang qua. Tôi khá đoan chắc rằng lời đồn về việc chúng tôi đang đến hẳn đã được truyền đến tháp Malkin rồi. Chắc bọn chúng đang chờ đợi chúng tôi.
Chúng tôi đi vào rừng Quạ và tôi trông thấy ngọn tháp khi cả đoàn vẫn còn cách đấy một quãng. Ngọn tháp vươn mình lên trên các rặng cây, tối tăm và đầy ấn tượng như thứ gì đấy được tạo ra để chống lại cuộc tấn công của một quân đoàn. Được xây giữa khoảng rừng thưa, trên nền đất hơi nhô lên, ngọn tháp có hình bầu dục, chu vi tại điểm rộng nhất cũng phải lớn gấp đôi ngôi nhà tại Chipenden của Thầy Trừ Tà. Ngọn tháp cao gấp ba lần đám cây cối cao lớn nhất đang bao bọc quanh đấy, trên đỉnh tháp là pháo đài có lỗ châu mai, một bức tường thấp có nơi kê súng cho những người được trang bị vũ khí nấp vào. Như thế có nghĩa bên trong tòa tháp phải có lối đi dẫn lên tới nóc. Khoảng đến lưng chừng giữa bức tường còn có những cửa sổ hẹp không kính; là những khe khoét vào vách đá để bắn tên từ trong đấy ra.
Khi chúng tôi bước vào khoảng rừng thưa và tiến đến gần hơn, tôi trông thấy chiếc cầu kéo đã được kéo lên và hào nước vừa rộng vừa sâu. Cỗ xe dừng sững lại, tôi lồm cồm leo xuống, nôn nóng chỉ muốn duỗi chân duỗi cẳng. Cha Stocks và hai gã mõ tòa làm theo tôi. Tất cả bọn tôi đều chăm chú nhìn vào tòa tháp nhưng chẳng có gì xảy ra.
Sau một phút ngài Nowell sốt ruột thở dài, thúc ngựa thẳng đến mép hào và lớn tiếng gọi: “Nhân danh luật pháp, hãy mở cửa ra mau!”
Trong một đỗi chỉ có sự im lặng bao trùm, ngoại trừ tiếng bầy ngựa thở phì phò.
Thế rồi giọng một phụ nữ từ một trong những khe bắn tên vọng xuống. “Xin hãy kiên nhẫn trong lúc chúng tôi hạ cây cầu xuống. Xin hãy kiên nhẫn trong khi chúng tôi sửa soạn lối vào...”
Mụ vừa nói xong đã nghe vang lên tiếng tời quay ken két và xích sắt va loảng xoảng; cây cầu chầm chậm hạ xuống. Giờ đây tôi có thể quan sát cây cầu rõ hơn. Những sợi xích được mắc vào hai góc cầu rút bằng gỗ nặng trịch và được dẫn qua các khe trên vách đá vào trong căn phòng bên trong tháp. Chắc chắn lúc này đang có nhiều người cùng quay tời để nới dài sợi xích. Và rồi, trong lúc cây cầu rùng rùng giần giật hạ xuống, tôi nhìn thấy cánh cửa tán đinh sắt đáng sợ ẩn đằng sau đấy. Cánh cửa này kiên cố cỡ mấy bức tường đá là ít. Rõ ràng không thứ gì có thể vượt qua những hàng phòng thủ vững chắc như thế.
Cuối cùng chiếc cầu kéo cũng hạ xuống ngay ngắn, chúng tôi mong đợi cánh cửa lớn kia cũng sẽ mở ra. Tôi bắt đầu thấy bồn chồn. Trong tháp có bao nhiêu người nhỉ? Sẽ có phù thủy lẫn những kẻ ủng hộ cho chúng, trong khi chúng tôi chỉ có bảy mạng. Một khi chúng tôi vào bên trong rồi, bọn chúng chỉ việc đóng cửa lại, thế là chúng tôi sẽ bị cô lập khỏi thế giới bên ngoài và sẽ thành tù nhân mất.
Nhưng chẳng có động tĩnh gì và từ trong tòa tháp cũng không vọng ra âm thanh nào. Ngài Nowell quay lại và ra hiệu cho cảnh sát Barnes đi đến cạnh mình bên hào nước, tại đây ông ta đưa ra vài chỉ thị. Viên cảnh sát lập tức xuống ngựa và bắt đầu băng qua cầu. Khi đến cửa, anh ta đấm mạnh lên lớp kim loại. Khi tiếng động ấy vang lên, một đàn quạ vụt bay lên khỏi rừng cây phía sau tòa tháp và bắt đầu kêu quang quác khàn khản.
Chẳng một ai đáp lại nên viên cảnh sát lại đập cửa. Tức thì tôi nhác thấy một chuyển động trên pháo đài bên trên anh ta. Một dáng người mặc đồ đen hình như đang chồm tới trước. Trong tích tắc, một thứ chất lỏng màu đen dội xuống đầu viên cảnh sát xấu số khiến anh này nhảy lùi lại và buông miệng chửi thề. Từ trên cao phá lên tiếng cười khanh khách, theo sau đấy là nhiều giọng cười chế nhạo từ bên trong ngọn tháp vọng ra.
Viên cảnh sát vừa quay trở lại ngựa mình vừa đưa tay chùi mắt. Tóc tai anh ta ướt nhẹp còn chiếc áo chẽn bằng da thì tung tóe những vết đen. Anh ta leo lại lên ngựa, lắc lắc đầu, rồi anh ta cùng ngài chánh án thúc ngựa về phía chúng tôi; hai người họ trò chuyện sôi nổi nhưng tôi không thể nghe ra họ đang nói những gì. Họ dừng lại trước mặt chúng tôi, đủ gần để tôi ngửi thấy mùi thứ được đổ lên cảnh sát Barnes – thứ chứa trong bô nước tiểu. Mùi quả là thối hoắc.
“Ta phải phóng ngựa ngay đến Colne đây, thưa Cha,” ngài Nowell bảo, gương mặt ông ta đỏ bừng vì giận dữ. “Những kẻ bất tuân và coi thường pháp luật xứng đáng lãnh nhận hậu quả nặng nề nhất. Ta có quen viên chỉ huy đơn vị đồn trú ở đấy. Ta nghĩ nhiệm vụ này dành cho quân đội thôi.”
Ông ta khởi kiệu về hướng đông, rồi dừng lại nói với qua vai, “Ta sẽ ở lại doanh trại và quay về ngay khi có thể cùng với sự trợ giúp mà chúng ta cần. Trong khi đấy, thưa Cha, cha hãy bảo với quản gia Wurmalde rằng cha sẽ là khách trú tại nhà ta đêm nay. Cha cùng với cả cậu bé...”
Nói đoạn ngài chán án thong dong thả kiệu đi trong lúc chúng tôi leo trở lên cỗ xe. Tôi chẳng trông mong được ở qua đêm trong điền trang Read chút nào. Sao tôi có thể chợp mắt trong ngôi nhà có một mụ phù thủy cơ chứ?
Lòng tôi cũng thấy nặng nề khi nghĩ đến chuyện Jack cùng gia đình anh phải trải qua một đêm nữa trong ngục tối dưới tòa tháp kia. Tôi không thấy lạc quan lắm về việc đám quân lính từ doanh trại sẽ giải quyết mọi việc tại đây được nhanh chóng. Vẫn còn đấy vấn đề về những bức thành dày bằng đá và cánh cửa tán đinh sắt.
Chẳng bao lâu sau chúng tôi lăn bánh trở lại điền trang Read. Viên cảnh sát cưỡi ngựa đi trước một chút, chẳng ai nói năng gì ngoài một đoạn trao đổi ngắn gọn giữa hai người đàn ông ngồi chung cỗ xe với chúng tôi...
“Cảnh sát Barnes trông không được vui rồi,” một người nói với nụ cười nhếch khẽ.
“Nếu anh ta đi xuôi chiều gió, người không vui sẽ là tao đây này!” đồng đội anh ta đáp lại.
Trên đường quay trở về đi qua Hộc Goldshaw, trên con phố chính đã có nhiều người hơn. Vài người hình như đang đi lo công việc trong khi những kẻ khác thì ngồi ườn bên các góc phố. Một số đứng trên các lối cửa để mở, mong ngóng nhìn ra ngoài như thể đang chờ cho chúng tôi đi qua. Vài tiếng huýt sáo chế giễu cùng tiếng cười nhạo vang lên, còn có một quả táo thối từ phía sau chúng tôi ném tới, chỉ cách đầu viên cảnh sát trong gang tấc. Anh ta tức tối giật ngựa quay lại và vung sợi roi da ra, nhưng chẳng thể nào nhận ra ai là hung thủ. Giữa thêm nhiều tiếng cười cợt nữa, chúng tôi tiếp tục đi qua con phố chính, và tôi thấy nhẹ nhõm làm sao khi chúng tôi lại ra đến vùng quê thoáng đãng.
Đến cổng vào điền trang Read, kể từ khi chúng tôi khởi hành quay về đến giờ, cảnh sát Barnes mới mở miệng nói chuyện. “Thôi nhé, thưa Cha, bây giờ chúng tôi phải để Cha lại đây. Sau khi trời rạng một giờ, chúng ta sẽ gặp nhau tại cổng này để quay lại tòa tháp!”
Cha Stocks và tôi lóng ngóng leo xuống xe, mở cổng ra, và sau khi đóng cổng lại, chúng tôi rảo bước trên lối dành cho xe ngựa giữa vườn cỏ, trong khi viên cảnh sát thúc phóng ngựa đi còn Cobden cũng đánh xe chạy tiếp theo cùng hướng ấy, chắc là để đưa hai gã mõ tòa về nhà rồi mới quay trở lại điền trang Read. Đây là cơ hội cho tôi thưa chuyện với cha xứ về bà quản gia của ngài Nowell.
“Cha này, con cần thưa với cha điều này về bà quản gia Wurmalde...”
“Ồ, đừng bận tâm đến bà ta làm gì, Tom ạ. Thái độ trịch thượng của bà ta bắt nguồn từ ý thức kiêu hãnh quá đáng thôi. Việc khinh khỉnh coi thường con là việc của bà ta, không liên quan gì đến con. Nhưng tận trong tâm thì bà ta là người tử tế. Đâu phải ai trong chúng ta cũng hoàn hảo cả đâu.”
“Không phải thế, thưa Cha,” tôi đáp, “không phải chuyện này. Chuyện còn tồi tệ hơn thế. Bà ta là người của thế lực bóng tối. Bà ta là một phù thủy độc.”
Cha Stocks dừng phắt lại. Tôi cũng dừng theo khi cha xứ trừng trừng nhìn tôi. “Con có chắc thế không Tom? ‘Độc’ hay ‘Bị Buộc Tội Lầm’ – là loại nào thế hử?”
“Khi bà ta nhìn con, con thấy lạnh lắm ạ. Rất lạnh. Đôi khi con cảm thấy như thế khi có thứ gì từ thế lực bóng tối đang ở gần...”
“Đôi khi hay mọi lúc thế hả Tom? Con có cảm nhận như vậy khi tự ý bỏ đi theo con nhãi Mab Mouldheel không? Nếu là có, tại sao con vẫn cứ đi?”
“Đa phần con cảm nhận được cái lạnh từ người chết hay từ những kẻ là thành phần của thế lực bóng tối, nhưng không phải lúc nào cũng thế. Tuy nhiên, với cái lạnh tê buốt như trong trường hợp của bà quản gia Wurmalde, thì không có gì phải nghi ngờ nữa. Theo ý con là không. Vả lại con cũng bảo đảm là bà ta đang đánh hơi con tầm gần nữa.”
“Có thể bà ta đang sổ mũi nhức đầu gì đấy thôi, anh bạn à. Đừng quên ta cũng là con trai thứ bảy của người con thứ bảy,” cha Stocks bảo, “và ta cũng cảm nhận được dấu hiệu cảnh báo này, cái lạnh mà con đang đề cập đến ấy. Nhưng ta phải nói cho con biết rằng, khi bà quản gia Wurmalde hiện diện, ta chưa khi nào nhận thấy cái lạnh ấy cả.”
Tôi chẳng biết nói gì nữa bây giờ. Rõ ràng tôi đã cảm nhận được cái lạnh cảnh báo và đã trông thấy bà ta đánh hơi. Liệu tôi đã lầm chăng?
“Nghe này Tom, những gì con kể cho ta nghe đâu phải là bằng chứng, phải không nào?” cha xứ nói tiếp. “Nhưng thôi chúng ta hãy đề cao cảnh giác và nghiền ngẫm về điều này sâu hơn chút nữa. Con hãy để ý xem liệu khi giáp mặt bà quản gia Wurmalde lần nữa con có cảm nhận giống thế không nhé.”
“Con thà ngủ qua đêm ở nơi khác còn hơn,” tôi đáp. “Khi nhìn con, bà ta ý thức được ngay rằng con đã biết bà ta là phù thủy. Đêm nay khí trời cũng ấm áp. Con rất sẵn lòng ngủ bên ngoài dưới trời sao. Con cũng sẽ cảm thấy an toàn hơn nữa.”
“Không đâu Tom,” cha Stocks nằn nì. “Chúng ta sẽ nghỉ đêm trong điền trang Read. Như thế khôn ngoan hơn. Ngay cả khi con có đúng về bà Wurmalde, thì bà ta cũng đã sống tại nơi này bao nhiêu năm mà không bị phát hiện và lại có cuộc sống tiện nghi thoải mái – điều bà ta sẽ không có được khi làm quản gia ở nơi khác. Bà ta sẽ chẳng làm gì để phá hỏng điều ấy hay là vạch trần thân phận của mình ra đâu, nên ta nghĩ nán lại một đêm cũng an toàn thôi mà, phải không? Ta nói đúng chứ?”
Khi tôi ngờ vực gật đầu, cha Stocks vỗ vai tôi. Chúng tôi bước tiếp về phía ngôi nhà, lần thứ hai trong ngày hôm ấy đi ra phía cửa hông. Khi cha xứ gõ cửa, cũng chị hầu gái nọ ra mở cửa. Nhưng, thật nhẹ nhõm làm sao, chúng tôi không phải nói chuyện với bà quản gia Wurmalde lần nữa.
Sau khi được thông báo rằng ông chủ của mình đã phóng ngựa đến Colne để nói chuyện với viên chỉ huy đội quân đồn trú tại đấy, và rằng chúng tôi sẽ là khách nghỉ lại điền trang Read, chị hầu gái đi thưa lại với quản gia Wurmalde. Chị ta nhanh chóng quay lại, dẫn chúng tôi vào bếp và dọn cho chúng tôi một bữa tối vài món ít ỏi. Lại là thịt cừu nguội ngắt, nhưng tôi chẳng phàn nàn gì. Khi còn lại hai chúng tôi, cha Stocks nhanh nhảu ban phép cho thức ăn rồi hăng hái đánh chén. Tôi chỉ nhìn vào miếng thịt nguội tanh rồi đẩy đĩa ra xa, nhưng ấy là không phải vì miếng thịt trông chẳng được ngon lành gì đâu.
Từ bên kia bàn bếp, cha Stocks mỉm cười với tôi; ông ấy biết là tôi đang nhịn đói, chuẩn bị cho mối hiểm họa từ thế lực bóng tối.
“Ăn đi nào, Tom – tối nay con sẽ được an toàn, ta hứa đấy,” cha xứ bảo tôi. “Chúng ta sẽ sớm đối mặt với thế lực bóng tối thôi, nhưng không phải là trong nhà của chánh án Nowell đâu. Dù có là phù thủy hay không, bà Wurmalde vẫn phải giữ khoảng cách.”
“Con thà cẩn tắc vô áy náy, thưa Cha,” tôi bảo ông.
“Tùy con thôi Tom ạ. Nhưng sáng mai con cần phải tập trung toàn bộ sức lực. Có vẻ sẽ là một ngày đầy khó khăn và lo lắng đấy...”
Dù không cần nhắc điều này nhưng tôi vẫn từ chối không ăn.
Khi chị hầu gái quay lại, chị ta cáu kỉnh liếc xéo vào đĩa thức ăn còn nguyên của tôi, nhưng thay vì dọn sạch bàn ăn, chị ta xin phép đưa chúng tôi lên phòng.
Đấy là hai căn phòng sát cạnh nhau trên tầng cao nhất, ngay mặt tiền chái nhà phía đông, đối diện với cánh cổng rộng. Phòng tôi có một tấm gương thật to đặt ngay trên đầu giường, tôi lập tức quay gương vào tường. Giờ thì, ít ra sẽ chẳng có mụ phù thủy nào có thể dùng chiếc gương ấy theo dõi tôi. Tiếp đến tôi nâng kính cửa sổ lên và thò đầu nhìn ra ngoài, hít vào từng vốc từng vốc khí đêm mát lạnh. Tôi quyết tâm sẽ không ngủ.
Chẳng bao lâu sau trời bắt đầu trở tối, đâu đó xa xa một con cú cất tiếng rúc đêm. Hôm nay quả là một ngày dài mệt nhoài nên việc phải cố thức qua đêm đang mỗi lúc một thêm khó khăn. Nhưng sau đó tôi nghe thấy những tiếng động. Đầu tiên là âm thanh ngọn roi da quất lên, rồi đến tiếng vó ngựa nện lên đường rải sỏi. Những tiếng động này dường như vọng lại từ phía sau ngôi nhà. Ngạc nhiên chưa kìa, một cỗ xe cùng bốn chú ngựa đang quành ra từ bên hông nhà và tiếp tục lao đi trên lối xe ngựa để tiến ra phía cổng. Và quả là một cỗ xe cực kỳ ngầu! Cả đời tôi chưa bao giờ trông thấy cỗ xe nào giống thế.
Cỗ xe đen tuyền như mun, lại còn được đánh lên bóng loáng đến nỗi tôi có thể trông thấy trăng sao phản chiếu lên trên ấy. Mấy con ngựa màu đen nốt, đầu trang trí chùm lông vũ cũng màu đen, và trong lúc tôi quan sát, người xà ích vụt roi lên lưng ngựa. Không nhận dạng được rõ lắm, tuy nhiên, tôi nghĩ xà ích là Cobden, người đã đánh xe đưa chúng tôi đến tháp Malkin. Một lần nữa, dù ở khoảng cách này thì không dám chắc, nhưng hình như cánh cổng tự mở ra và đóng lại sau khi cỗ xe đã phóng qua. Rõ là ở quanh đấy không thấy có bóng dáng người nào cả.
Và ai đang ở trong cỗ xe kia nhỉ? Tuy không nhìn thấu qua cửa sổ xe được vì những tấm màn đen sau lớp cửa kính, nhưng đấy là loại cỗ xe xứng với vua chúa hay hoàng hậu mà thôi. Là bà quản gia Wurmalde chăng? Nếu thế thì bà ta đang đi đâu và làm gì cơ chứ? Giờ đây tôi tỉnh như sáo rồi. Tôi tin chắc bà ta sẽ quay về đây trước lúc bình minh.
Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 4 - Đòn Tấn Công Của Quỷ Vương Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 4 - Đòn Tấn Công Của Quỷ Vương - Joseph Delaney Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 4 - Đòn Tấn Công Của Quỷ Vương