Nếu bạn đã cố gắng hết sức mình thì bạn sẽ vẫn thanh thản ngay cả khi gặp thất bại.

Robert S. Hillyer

 
 
 
 
 
Tác giả: Joseph Delaney
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 28
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1751 / 26
Cập nhật: 2017-05-09 22:24:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4 - Đông Tiến Đến Pendle
hầy trò tôi du hành về hướng đông của Chipenden, men theo ven mạn nam rặng đồi đá Bowland trước khi vòng quanh để băng qua hai bờ hiền hòa, sum suê cây cối của dòng Ribble. Tôi hầu như không nhận ra con sông này vì tuy là cùng dòng sông triều dâng cuồn cuộn chảy qua Priestown, nhưng khi băng qua sông, tôi lại bắt đầu thấy mỗi lúc một thêm bất an.
“À, kia rồi đấy con,” Thầy Trừ Tà lên tiếng, bất chợt dừng sững lại một quãng cách con suối vắt ngang qua lối chúng tôi đi. Thầy chỉ tay về hướng đồi Pendle, ngọn đồi đang dần dần hiện lớn hơn ra khi chúng tôi tiến về phía ấy. “Không phải quang cảnh đẹp đẽ gì, phải không nào?”
Tôi không thể không đồng ý. Mặc dù hình dáng ngọn đồi này nhắc cho tôi nhớ đến rặng Dãy Dài, là rặng đồi đá trong vùng phía sau thung lũng phía nam của Chipenden, nhưng đồi Pendle trông to lớn và u ám hơn hẳn. Bên trên đồi là một dải mây đen dày đặc đầy vẻ đe dọa đang chờn vờn.
“Có người bảo ngọn đồi này trông như một con cá voi khổng lồ bị mắc cạn,” Thầy Trừ Tà bảo. “Mà ta thì chưa bao giờ nhìn thấy cá voi, nên không thể xác định là đúng hay sai. Một số khác lại nói đồi Pendle giống như con tàu bị lật ngược. Ta cũng thấy gần giống như thế, nhưng sự so sánh ấy quả là không tương xứng. Con nghĩ sao nào?”
Tôi tỉ mỉ ngắm nghía toàn cảnh. Dù ánh sáng ban ngày đang bắt đầu nhạt dần thật nhưng dường như đêm tối lại đang tự tỏa ra từ chính bản thân ngọn đồi kia. Bề ngoài ngọn đồi mang vẻ ẩn tàng nguy hiểm.
“Trông nó gần như là có sinh khí ấy ạ,” tôi cẩn thận lựa chọn từ ngữ. “Như thể bên trong nó có chứa thứ gì đó độc ác và nó đang gieo rắc mê hoặc lên vạn vật.”
“Cả ta cũng không miêu tả chính xác hơn thế đâu anh bạn ạ,” Thầy Trừ Tà nói, thầy tựa mình lên trượng trông rất mực suy tư. “Nhưng điều này thì chắc chắn: có một bầy phù thủy loại độc xấu xa đang sống quanh quẩn gần đấy. Thôi, nửa giờ nữa trời sẽ sụp tối và nếu khôn ngoan thì thầy trò ta nên trú lại bên này dòng suối đến lúc trời rạng. Rồi sau đấy chúng ta sẽ tiếp bước đến Pendle.”
Chúng tôi nghỉ chân dưới mái một bờ rào. Tuy còn có cả một nửa bề ngang cánh đồng ngăn cách giữa chúng tôi và con suối, nhưng khi ngủ thiếp đi, tôi vẫn có thể nghe thấy dòng suối khe khẽ rì rầm từ phía xa.
Thầy trò tôi thức giấc khi bình minh ló dạng, và không gặm lấy một mẩu pho mát nào để dằn lòng, chúng tôi nhanh chóng băng qua con suối tiến thẳng đến Downham, trong lúc một cơn mưa phùn lất phất vương vất trên mặt. Hai thầy trò đi theo hướng bắc, đồi Pendle nằm bên tay phải, nhưng chẳng mấy chốc sau khi thầy trò tôi dấn bước vào rừng cây ngô đồng và tần bì rậm rạp thì không còn thấy ngọn đồi đâu nữa.
“Đây là thông tin cần ghi chép vào này,” Thầy Trừ Tà vừa nói vừa dẫn tôi đến một cây sồi to vật. “Con nghĩ đây là gì nào?”
Một hình khắc lạ hoắc trên thân cây. Tôi ghé sát mắt nhìn cho kỹ:
“Trông như một cây kéo phải không ạ?” tôi hỏi.
“Phải đấy,” Thầy Trừ Tà nghiêm trọng đáp. “Nhưng không phải loại kéo dùng để cắt vải đâu. Dấu hiệu kia được khắc bởi Grimalkin, một phù thủy sát thủ. Nghề của mụ ta là giết chóc và tra khảo, bọn Malkin phái mụ ta ra chiến đấu chống lại kẻ thù của bọn chúng. Mụ ta đã khắc dấu hiệu ấy như lời cảnh cáo, ý là, Pendle là địa phận của ta. Cứ khiến ta nổi giận thì ta sẽ xoẹt phăng cả xương lẫn thịt của ngươi đấy!”
Tôi rùng mình bước lùi khỏi cây sồi.
“Có lẽ ngày nào đó ta sẽ phải giao chiến với mụ ấy,” Thầy Trừ Tà bảo. “Thế giới này chắc hẳn sẽ là một nơi tươi đẹp hơn nếu mụ ta chết đi. Tuy nhiên, mặc dù là một kẻ sát nhân không gớm tay, Grimalkin lại sống theo quy tắc trọng danh dự – mụ ta sẽ không bao giờ giở mưu mô thủ đoạn. Mụ ta thích nhất là khi phần thắng không nằm trong tay, nhưng một khi mụ đã chiếm được thế thượng phong rồi thì phải coi chừng đến cây kéo ấy đấy!”
Lắc đầu buồn bã, Thầy Trừ Tà dẫn dường đi đến Downham. Trong mấy ngày vừa qua tôi đã học được lắm điều về Pendle và tôi biết đấy là một nơi nguy hiểm. Không nghi ngờ gì nữa, còn nhiều điều tồi tệ hơn rồi sẽ xảy đến thôi.
***
Con đường chính trong làng quanh co uốn lượn xuống một bên sườn đồi dốc đứng. Vì lý do gì chỉ mình thầy tôi mới biết, Thầy Trừ Tà đi vòng quanh để tiến vào Downham từ mạn bắc. Đồi Pendle nằm ngay trước mặt chúng tôi, hoàn toàn bao quát cả ngôi làng lẫn che lấp đến phân nửa bầu trời bằng cái vẻ ngoài nguy hiểm tiềm tàng của mình. Mặc dù đã gần đến giữa trưa và cơn mưa phùn đã thôi không lất phất, vậy mà quanh đấy vẫn tịnh không thấy bóng dáng một người nào.
“Mọi người đâu hết rồi ạ?” tôi hỏi Thầy Trừ Tà.
“Đang nấp sau rèm cửa nhà họ – còn ở đâu khác nữa chứ anh bạn?” thầy đáp với nụ cười buồn. “Rõ là họ chỉ biết lo đến việc của bản thân chứ chẳng quan tâm đến ai khác!”
“Liệu họ có mách cho bọn phù thủy biết là chúng ta đang ở đây không?” tôi vừa hỏi vừa quan sát tấm rèm ren bên trái mình giật giật.
“Ta dẫn đường vào đây theo lối quanh co ngoằn ngoèo để tránh một số nơi mà sự xuất hiện của chúng ta chắc chắn sẽ được báo cáo lại. Rõ là ngay cả ở đây cũng có thể có vài kẻ gián điệp đấy, nhưng Downham vẫn còn là nơi an toàn nhất trong toàn quận. Đấy là lý do vì sao chúng ta sẽ chọn nơi này làm cứ địa. Điều này chúng ta phải cảm ơn cha Stocks. Ông ấy làm linh mục chánh xứ cho giáo xứ này hơn mười năm rồi, đã làm hết khả năng có thể để chiến đấu với thế lực bóng tối, giữ cho chúng tránh xa nơi này. Nhưng từ những gì cha Stocks kể với ta, ngay cả ngôi làng này giờ đây cũng đang gặp đe dọa. Người dân đang rời bỏ nơi này. Họ cùng nhau lánh sạch khỏi Pendle – một số trong đấy là những gia đình lương thiện từng chọn nơi này làm quê hương qua bao thế hệ rồi.”
Nhà thờ be bé của xứ đạo nằm phía nam ngôi làng, ngay bên kia con suối. Nhà thờ được xây giữa một bãi tha ma rộng lớn đầy những hàng những dãy bia mộ đủ dáng đủ cỡ. Nhiều bia mộ đặt nằm ngang, hầu như bị đám cỏ thưa cỏ dại um tùm che khuất; những bia mộ khác nhô ra khỏi mặt đất từ đủ góc cạnh, chỉ không phải theo phương thẳng đứng mà thôi, tựa như một hàm răng sâu mục. Tựu chung, nghĩa trang này cho thấy sự thiếu chăm sóc, các bia đá đã bị sương gió ăn mòn, những dòng chữ khắc trên bia đã phai mờ đi hay bị rong rêu địa y che phủ.
“Mấy ngôi mộ này cần dọn dẹp lại chút ít,” Thầy Trừ Tà quan sát. “Ta thấy ngạc nhiên là cha Stocks đã để cho nghĩa trang bị bỏ thí thế này...”
Nhà dòng là một căn nhà tranh rộng rãi khuất sau chừng một tá cây thủy tùng bên ngoài sân nhà thờ khoảng trăm thước. Chúng tôi người này theo sau người kia len lỏi theo lối đi hẹp um tùm cỏ dại quanh co qua các ngôi mộ để đi đến nhà dòng. Đến cửa trước, Thầy Trừ Tà gõ mạnh ba lần lên cửa. Một lúc sau chúng tôi nghe thấy tiếng ủng nặng nề lê qua sàn đá; rồi then cài được rút ra và cánh cửa mở rộng. Cha Stocks đứng ngay đấy, vẻ kinh ngạc hiện ra trên mặt.
“Ôi chao, ngạc nhiên thật đấy John,” cha Stocks thốt lên, gương mặt dãn ra thành một nụ cười. “Tôi mong thầy đến đây vào mãi cuối tuần kia. Mà thôi, xin mời vào, cả hai người nào, cứ tự nhiên như ở nhà nhé!”
Chúng tôi đi theo cha Stocks vào trong bếp phía sau nhà, cha mời chúng tôi ngồi xuống. “Hai người đã ăn gì chưa?” cha xứ hỏi khi thầy trò tôi mỗi người kéo một chiếc ghế ra khỏi bàn. “Con thì sao hả Tom? Trông con đói ngấu đói nghiến rồi đấy!”
“Con đói thật, thưa cha,” tôi vừa đáp vừa liếc sang Thầy Trừ Tà, “nhưng con không chắc là thầy trò con có nên ăn không nữa...”
Thầy Trừ Tà luôn một mực muốn chúng tôi phải nhịn đói khi đang thi hành nhiệm vụ vì như thế sẽ giúp chúng tôi bớt bị quyền năng của thế lực bóng tối làm tổn hại, do đó chúng tôi thường cầm hơi với chút pho mát của Hạt để duy trì sức lực. Cuộc đời một kẻ trừ tà đâu chỉ đáng sợ, nguy hiểm và cô độc; nó còn có nghĩa là thường xuyên bị đói nữa.
“Dùng chút điểm tâm cũng chẳng hại gì đâu,” Thầy Trừ Tà đáp trong sự kinh ngạc của tôi. “Trước hết ta cần thông tin, nên cha này, ta hy vọng cha sẽ là người tìm kiếm thông tin. Vậy nên từ đây cho đến mai chúng tôi sẽ không làm gì nhiều cả. Đây có thể là bữa ăn đúng nghĩa cuối cùng mà thầy trò ta dùng trong suốt một thời gian dài sau đó, nên, ừ thì mong cha vui lòng, thầy trò ta sẽ chấp nhận lời mời tử tế của cha vậy.”
“Quyết định vậy đi!” cha Stocks reo lên, gương mặt ông bừng sáng. “Tôi sẽ sẵn lòng giúp sức bằng mọi cách có thể, nhưng ta hãy nấu nướng trước rồi hẵng nói chuyện trong khi đang ăn nào. Tôi sẽ sửa soạn cho ba người chúng ta một bữa điểm tâm thịnh soạn, nhưng có thể tôi cần chút phụ giúp. Biết cách nướng xúc xích không Tom?”
Tôi vừa định đáp là “vâng” nhưng Thầy Trừ Tà thấy thế đã lắc đầu và đứng lên. “Đừng nhé, thưa cha, đừng để anh bạn của ta đây đến gần chảo! Trước đây ta đã từng thưởng thức qua tài nấu nướng của cậu ta và đến giờ dạ dày ta vẫn chưa tha thứ cho ta đâu đấy!”
Tôi mỉm cười nhưng chẳng chống chế gì, và trong khi Thầy Trừ Tà đang bận tay chiên xúc xích, cha Stocks lại loay hoay với hai cái chảo khác – một cái thì xì xèo với những lát thịt muối dày cui cùng hành tây xắt lát, chiếc chảo còn lại đầy ứ trứng chiên cuộn pho mát to ụ đang từ từ ngả sang màu nâu vàng.
Tôi ngồi tại bàn trong khi hai người họ nấu nướng, bụng thì đói nhưng đồng thời cũng thấy có lỗi. Miệng tôi ứa nước bọt khi mùi thức ăn bay đến chỗ tôi, nhưng tôi không thể thôi lo lắng cho Ellie, cho Jack và Mary, băn khoăn không rõ liệu mọi người có được bình an không. Chắc chắn là họ đang không có được một bữa điểm tâm như thế này rồi. Tôi cũng thắc mắc không biết Alice ra sao nữa. Tôi chừng như đã mong sẽ tìm thấy Alice đến được Downham mang theo thông tin. Tôi hy vọng cô gái không gặp phải rắc rối nào.
“Nào Tom,” cha Stocks lên tiếng, “có việc con có thể giúp mà không làm tổn hại lắm đến dạ dày của thầy con đây này. Con hãy phết bơ lên bánh mì hộ bọn ta nhé, và làm một đĩa thật đầy vào!”
Tôi tuân lời làm theo, vừa làm xong thì ba đĩa thức ăn nóng hổi đã được đặt lên bàn, mỗi đĩa đầy thịt muối, xúc xích và hành chiên nằm cạnh một phần trứng chiên to đùng.
“Mọi người đã có một chuyến đi tốt đẹp từ Chipenden đến đây chứ?” cha Stocks hỏi khi chúng tôi bắt đầu ăn.
“Không phải ta than phiền gì đâu, nhưng mọi việc đã chuyển theo chiều hướng xấu đi kể từ lần cuối chúng ta nói chuyện với nhau đấy,” Thầy Trừ Tà đáp.
Trong lúc dùng bữa, thầy tôi kể cho cha Stocks nghe về vụ cướp phá nông trại của Jack lẫn vụ bắt cóc anh trai tôi cùng gia đình anh ấy. Thầy cũng có nhắc đến việc Alice đã xuất phát trước đến Pendle. Đến khi thầy kể xong thì chúng tôi đã ăn sạch đĩa.
“Ta rất lấy làm tiếc khi nghe tin như thế, Tom ạ,” cha Stocks bảo và đặt tay lên vai tôi. “Ta sẽ nhớ đến gia đình con trong lời kinh cầu của ta...”
Nghe thấy những lời ấy, một cơn ớn lạnh buốt cóng chạy dọc sống lưng tôi. Cha Stocks nói năng như thể gia đình Jack chết cả rồi. Mà dù có sao đi nữa thì cầu nguyện được ích gì? Chúng tôi đã trù trừ quá lâu và cần phải bắt đầu tìm kiếm thôi. Tôi nhận thấy sức nóng trên mặt mình khi tôi trở nên tức giận. Chỉ có tính lịch sự mới ngăn không cho tôi thốt lên bật lại. Mặc dù giờ đây bố tôi đã qua đời, tôi vẫn có thể vận dụng những phép tắc cư xử mà bố đã dạy cho tôi.
Cứ như thể cha Stocks đã đọc được tâm trí tôi. “Đừng lo, Tom ạ,” cha nói với giọng nhân từ. “Chúng ta sẽ chấn chỉnh mọi chuyện mà. Thượng đế sẽ cứu giúp cho những ai biết tự cứu mình – ta là người rất tin vào điều ấy. Ta sẽ làm mọi việc có thể, và biết đâu cô bé Alice kia sẽ mang tin tức về đây trước khi hết ngày.”
“Con đã hy vọng rằng biết đâu Alice đến được đây rồi chứ,” tôi nói.
“Ta cũng từng mong thế đấy, anh bạn ạ. Từng mong như thế,” Thầy Trừ Tà nói với tông giọng khiến cho cơn giận trong tôi lại dâng lên. “Hãy mong sao cho con bé không giở trò tinh quái nào...”
“Sau những gì bạn ấy đã làm thì nói thế thật không phải đâu ạ,” tôi phản đối. “Nội việc có mặt tại đây là bạn ấy đã đánh liều cả mạng sống rồi.”
“Chẳng phải tất cả chúng ta đều thế sao?” Thầy Trừ Tà vặc lại. “Nghe này anh bạn, ta không có ý khắt khe với con bé đâu, nhưng đây sẽ là cơ hội cám dỗ nhất mà con bé ấy phải đối mặt. Ta không rõ liệu việc để Alice tự mình đến đây có đúng hay không nữa. Gia đình luôn đóng vai trò lớn lao trong việc làm gương cho chúng ta, và gia đình của Alice là phù thủy đấy. Nếu con bé lựa chọn quay về với bọn chúng thì việc gì cũng có khả năng xảy ra cả!”
“John này, từ những gì thầy kể cho tôi nghe về con bé, tôi nghĩ chúng ta có thể lạc quan tin tưởng được mà,” cha Stocks lên tiếng. “Có lẽ không phải ai trong chúng ta cũng tin vào Chúa trời, nhưng điều đó không ngăn chúng ta đặt lòng tin vào con người đâu. Mà thôi, chắc là lúc này con bé đang trên đường đến đây đấy. Biết đâu tôi lại gặp con bé khi tôi lên đường,” cha xứ bảo.
Bỗng dưng trong nhận thức của tôi, cha Stocks thêm phần đáng ngưỡng mộ. Cha nói phải. Lẽ ra Thầy Trừ Tà nên tin tưởng Alice nhiều hơn.
“Tôi sẽ lên đường xem thử có tìm được gì không,” cha xứ nói tiếp. “Trong mấy vùng này vẫn còn có vài người tốt bụng sẽ muốn giúp một gia đình vô tội. Đến lúc trời tối tôi sẽ biết nơi Jack và Ellie đang bị giam giữ thôi, hai người nhớ lấy lời tôi nhé. Nhưng trước hết còn một chuyện khác mà tôi có thể giúp đây này.” Cha Stocks rời khỏi bàn rồi quay lại cùng viết, một tờ giấy và hũ mực nho nhỏ. Ông gạt mấy cái đĩa sang bên, mở nắp hũ mực ra, chấm viết vào rồi bắt đầu vẽ vẽ. Một chập sau, tôi nhận ra cha đang phác họa một tấm bản đồ.
“Này nhé Tom, chắc hẳn trước khi lên đường con đã quan sát kỹ mấy tấm bản đồ của thầy con về quận này rồi – tất nhiên là sau đấy con nhớ phải gấp lại cho ngay ngắn gọn gàng nhé!” cha Stocks vừa nói vừa mỉm cười về phía Thầy Trừ Tà, đoạn tiếp tục vẽ. “Nhưng bản phác thảo nhỏ gọn này sẽ giúp đơn giản hóa mọi thứ và giúp con ghi nhớ vài địa điểm.”
Cha Stocks chỉ mất vài phút là vẽ xong; ông hoàn tất với việc thêm vào vài địa danh trước khi đẩy bản vẽ qua chỗ tôi.
“Con hiểu được chứ?” cha Stocks hỏi.
Sau vài giây, tôi gật đầu. Cha Stocks đã phác thảo ra hình thù sơ sài của đồi Pendle và vị trí những ngôi làng chính.
“Downham, phía bắc ngọn đồi, là nơi an toàn nhất ở Pendle...” cha xứ bảo.
“Trên đường đến đây ta đã nói cho anh bạn này biết rồi,” Thầy Trừ Tà cắt ngang, “và đấy là nhờ ơn cha cả, cha Stocks ạ. Chúng tôi rất cảm kích vì đã có một nơi khá an toàn để bắt đầu hành sự.”
“Thôi nào John, tôi sẽ không thể yên giấc nếu tranh hết phần khen cho việc này đâu. Chắc chắn là tôi đã làm hết sức để giữ cho thế lực bóng tối tránh xa ra, nhưng xét theo lịch sử, như thầy biết quá rõ rồi đấy, thì mối nguy hiểm trước nay vẫn là ở bên mạn đồi đông nam. Vậy nên nếu từ đây di chuyển về hướng nam, an toàn nhất là đi theo con lộ phía tây sao cho ngọn đồi luôn ở bên trái ta. Đương nhiên, Hòn Gore, được đánh dấu ngay kia về phía tây nam, cũng có thể vô cùng nguy hiểm. Đấy là nơi thỉnh thoảng đám phù thủy thực hiện trò hiến tế. Nhưng con có nhìn thấy ba ngôi làng kia không Tom? Chữ ta viết có rõ không vậy?”
“Rõ ạ,” tôi đáp và lớn tiếng đọc tên các ngôi làng cho cha nghe để đoan chắc – ”Bareleigh”, ”Roughlee” và ”Hộc Goldshaw”. Đây là những ngôi làng Alice từng kể cho tôi nghe. Mỗi ngôi làng là sào huyệt của một tộc phù thủy.
“Đúng thế đấy Tom, và kia, không xa khỏi Hộc Goldshaw mấy, ở men rìa phía tây của Rừng Quạ, là ngọn tháp Malkin. Ta đặt tên cho vùng này là Tam Giác Quỷ vì đây là nơi mọi việc ma quỷ được hành sự. Ở đâu đấy trong vòng tam giác gồm ba ngôi làng kia là nơi chúng ta sẽ tìm thấy anh trai con cùng gia đình anh ấy, phụ thuộc vào việc tộc nào đã bắt giữ anh ta – điều này thì ta bảo đảm.”
“Trũng Phù Thủy là gì vậy ạ?” tôi hỏi, chỉ tay vào điểm phía bắc làng Bareleigh, được đánh dấu bằng chữ thập.
“Trũng Phù Thủy ư?” Thầy Trừ Tà hỏi và nhướn mày. “Nơi này mới đây!”
“Một lần nữa nhé John, đây là tên tôi tự đặt cho một nơi nguy hiểm. Kể từ lần sau cuối thầy tới đây thì mọi thứ đã chuyển biến xấu đi nhiều rồi. Trũng ấy giờ trở thành nơi trú lánh cho một số phù thủy đã chết. Vài tên đã trốn thoát khỏi những nấm mồ không được làm phép thánh; một số khác đơn giản là chỉ được gia đình bọn chúng đem đến và bỏ lại đấy sau khi chết. Những phù thủy này thường ngủ suốt ngày; vùi sâu mình vào lớp đất mùn dưới rừng cây, nhưng ban đêm bọn chúng lại chui lên săn lùng máu nóng của những sinh vật sống. Vậy nên khi mặt trời lặn, ngay cả những con chim đậu trên cây trong thung lũng ấy cũng không được an toàn đâu. Chắc chắn đây là nơi phải tránh rõ xa và những người dân bản địa cũng đã cố gắng hết sức. Thậm chí dù có thế, hàng năm vẫn có vài nhân mạng đáng thương bị mất tích. Hai hay ba mụ phù thủy còn rất mạnh và mỗi đêm thường lang thang khỏi trũng ấy hàng dặm dài. May sao số phù thủy còn lại không đi xa khỏi hang ổ được vài bước...”
“Cha nghĩ nơi ấy có bao nhiêu phù thủy nào?” Thầy Trừ Tà hỏi.
Cha Stocks cau mày. “Ít nhất là một tá. Nhưng theo như lời tôi nói, chỉ có hai hay ba mụ là đi ra khỏi trũng ấy được.”
“Lẽ ra ta phải quay lại đây sớm hơn mới phải!” Thầy Trừ Tà vừa nói vừa lắc đầu. “Lẽ ra tình hình không được phép tồi tệ đến mức này. Ta e là ta đã tắc trách rồi...”
“Vớ vẩn. Làm sao mà thầy biết được. Giờ đây thầy đang có mặt tại nơi này và đấy mới là điều quan trọng,” cha Stocks đáp lại. “Nhưng quả là, tình hình tuyệt vọng lắm rồi – nhất định phải ra tay trước khi Lễ Hội Mùa đến.”
“Khi cha đến Chipenden,” Thầy Trừ Tà bảo, “ta có hỏi cha một câu nhưng cha chưa khi nào trả lời rốt ráo. Vậy nên ta sẽ hỏi lại đây. Cha nghĩ là các hiệp hội phù thủy sẽ cố làm gì trong Lễ Hội Mùa?”
Cha Stocks đẩy ghế ra sau, chầm chậm đứng lên rồi thở dài. “Thôi được rồi, tôi sẽ nói vậy!” cha xứ đáp, hơi hơi lên giọng. “Điều gì đã khiến hai hiệp hội phù thủy kết hợp lại và hiệp hội thứ ba cũng tham gia vào chứ? Điều gì có thể khiến bọn chúng dẹp bỏ bao hiềm khích bấy lâu nay sang bên? Đa số bọn chúng không thèm nhìn mặt nhau, trừ mỗi lần họp lại với nhau ba mươi năm trước...”
“Ây dà,” Thầy Trừ Tà đáp với nụ cười chua chát. “Bọn chúng đã hợp lực để nguyền rủa ta!”
“Quả thế thật John à, nhưng lần này là vì quyền năng của thế lực bóng tối đang gia tăng, và tôi nghi có kẻ nào đó hoặc một thứ gì đó đang hợp chúng lại. Thế lực bóng tối hội tụ sẽ cho bọn chúng cơ hội đạt được thứ gì đó nguy hiểm ghê lắm. Ta nghĩ bọn chúng đang cố đánh thức Quỷ Vương đấy!”
“Ta sẽ cười phá ra đấy, thưa cha, nếu ta nghĩ là cha đang nói đùa,” Thầy Trừ Tà vừa nói vừa lắc đầu u ám. “Chưa khi nào ta dạy cha tin vào Quỷ Dữ cả. Có phải cha đang phát ngôn chỉ với tư cách là cha xứ không vậy?”
“Tôi cũng mong là thế lắm chứ John. Nhưng là một kẻ trừ tà lẫn cha xứ, tôi tin bọn chúng đang cố làm thế đấy. Ai mà biết chúng làm được hay không? Nhưng hai hiệp hội phù thủy đã tin vào điều này, còn hiệp hội thứ ba đang bị thúc hối phải tham gia vào một lần thử kêu gọi và đánh thức thế lực bóng tối bằng xương bằng thịt – chính là Quỷ Dữ. Vài phù thủy tin rằng, thoạt đầu, khi thế giới này được tạo thành, Quỷ Vương sống lẫn với chúng ta. Giờ đây bọn chúng đang ra sức đưa hắn quay lại để một kỷ nguyên thế lực bóng tối mới có thể bắt đầu.”
Tôi từng trò chuyện cùng Thầy Trừ Tà về Quỷ Dữ. Thầy bảo với tôi thầy đã bắt đầu băn khoăn, rằng nói cho cùng, có thứ gì ẩn sau mọi việc thầy trò tôi đối mặt, một thứ gì đó náu mình thẳm sâu trong bóng tối. Thứ đó mỗi lúc một lớn mạnh hơn khi thế lực bóng tối thêm hùng mạnh. A, dường như cha Stocks tin chắc rằng trong thế lực bóng tối đang ẩn chứa thứ gì đấy.
Bầu không khí tĩnh lặng tràn ngập căn phòng, và trong một đỗi lâu hai người đàn ông đều chìm đắm trong suy tưởng.
Đoạn cha Stocks đứng lên bỏ đi không chút chần chừ, chúng tôi đi theo cha qua bãi tha ma đến cánh cổng mái nhọn phía trước nhà thờ. Trời mây đã quang đãng và ánh nắng mặt trời chiếu lên lưng chúng tôi ấm nóng.
“Tay canh nghĩa trang của cha đáng nhận lời khiển trách lắm đấy,” Thầy Trừ Tà nói thẳng tuột. “Ta từng thấy nghĩa trang nhà thờ gọn gàng hơn cơ mà...”
Cha Stocks thở dài. “Ông ta bỏ đi gần một tháng rồi. Quay về với gia đình ở Colne. Nhưng cũng chẳng ngạc nhiên gì đâu – tôi biết ông ta ngày càng thấy lo lắng khi chăm nom sân nhà thờ. Trong tám tuần qua đã có ba ngôi mộ bị cướp – tác phẩm của phù thủy đấy – nên một sân nhà thờ bừa bộn là điều không đáng để quan tâm lo lắng đến nhất.”
“Vậy thì cha này, khi cha đi vắng ta sẽ cho anh bạn ta đây dọn dẹp qua chút vậy.”
Chúng tôi vẫy chào tiễn cha Stocks lên đường, đoạn Thầy Trừ Tà quay sang tôi. “Nào anh bạn, con biết sử dụng lưỡi hái chứ gì, nên ta hãy đảm bảo rằng con không lụt nghề vì thiếu tập luyện nhé. Con có thể dọn dẹp nghĩa địa lại cho gọn gàng. Như thế con sẽ bận rộn cho đến khi ta quay về đây.”
“Thầy định đi đâu thế ạ?” tôi ngạc nhiên hỏi lại. “Con tưởng là chúng ta ở lại Downham trong khi cha Stocks đi tìm tung tích gia đình con chứ?”
“Đúng ra là thế, anh bạn, nhưng những giáo dân bị sợ hãi và các vụ cướp mộ cho thấy ngôi làng này chẳng còn an toàn như ta hằng tưởng. Ta luôn thích tự mình khám phá ra mọi chuyện, vậy nên trong khi cha Stocks ra ngoài, ta sẽ đi tìm hiểu chút đỉnh xem có tin gì không. Trong khi đấy, con hãy nai lưng ra cắt dẹp hết cỏ dại đi!”
Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 4 - Đòn Tấn Công Của Quỷ Vương Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 4 - Đòn Tấn Công Của Quỷ Vương - Joseph Delaney Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 4 - Đòn Tấn Công Của Quỷ Vương