To read a book for the first time is to make an acquaintance with a new friend; to read it for a second time is to meet an old one.

Chinese Saying

 
 
 
 
 
Tác giả: Joseph Delaney
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 28
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1751 / 26
Cập nhật: 2017-05-09 22:24:40 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 1 - Vị Khách Đến Từ Pendle
phù thủy đang rượt tôi chạy xuyên qua khu rừng tối om, mỗi giây một tiến đến gần sát hơn.
Tôi chạy thục mạng, cuống cuồng cố thoát đi, tuyệt vọng len qua lỏi lại, các cành cây quất vào mặt tôi còn những bụi mâm xôi trì níu đôi chân đã mỏi mệt. Hơi thở khản đặc khò khè trong cổ họng khi tôi mỗi lúc một dốc sức dấn mình về phía bìa rừng. Bên ngoài bìa rừng ấy là sườn đồi dẫn đến khu vườn phía tây của Thầy Trừ Tà. Giá như có thể chạy đến nơi trú thân ấy, tôi sẽ được an toàn!
Không phải là tôi không có thứ gì để tự vệ. Tay phải tôi đang nắm chặt thanh trượng gỗ thanh hương trà, loại gỗ hữu hiệu vô cùng khi đối đầu với phù thủy; bên tay trái là sợi xích bạc cuộn quanh cổ tay, sẵn sàng vung ra. Nhưng liệu tôi có lấy phân nửa cơ hội để sử dụng một trong hai món ấy không? Để tung xích, cần phải có chút khoảng cách giữa hai chúng tôi, nhưng ả phù thủy đã đuổi đến sát gót tôi rồi.
Đột nhiên tiếng bước chân sau lưng tôi ngừng lại. Ả ta đã bỏ cuộc chăng? Tôi chạy tiếp, mặt trăng mờ nhạt giờ đây đang lấp ló qua vòm lá trên kia, phủ lớp ánh sáng bàng bạc xuống mặt đất dưới chân. Rừng cây đang thưa dần. Tôi gần như đã đến được bìa rừng.
Thế rồi, ngay khi tôi chạy vụt qua rặng cây cuối cùng, bỗng đâu ả ta hiện ra và nhào đến chỗ tôi từ bên trái, hàm răng lóe sáng dưới ánh trăng, hai cánh tay rướn hết cỡ như thể sẵn sàng móc mắt tôi ra. Vẫn đương co giò chạy thục mạng, tôi đảo mình lách đi, phẩy cổ tay trái quăng sợi xích lao vun vút về phía ả. Trong tích tắc tôi ngỡ mình đã quất trúng, nhưng ả đột ngột đổi hướng làm sợi xích rơi phịch xuống cỏ. Tích tắc tiếp theo ả ta đã lao sầm vào, hất tung thanh trượng khỏi tay tôi.
Tôi té đánh uỵch xuống đất, đau đến nỗi bao hơi thở còn sót lại trong tôi bị ép hết ra ngoài, và trong chớp mắt ả đã leo lên người tôi, sức nặng cả người ả đè mạnh lên tôi. Tôi vùng vẫy một đỗi, nhưng tôi đã hết hơi, đã kiệt sức, còn ả thì mạnh vô cùng. Ả ngồi lên ngực tôi và ghìm hai tay tôi xuống hai bên đầu. Đoạn ả tì người tới trước sao cho mặt chúng tôi sém chút là chạm vào nhau, tóc ả như một tấm vải đen chạm vào hai má tôi, che kín trời sao. Hơi thở của ả phả vào mặt tôi nhưng không tanh hôi như hơi thở của một mụ phù thủy sử dụng cốt hay huyết thuật, mà lại dịu ngọt như hoa cỏ mùa xuân.
“Tớ bắt được cậu rồi Tom!” Alice reo lên đắc thắng. “Lần này cậu không giỏi lắm đâu. Cậu sẽ phải làm tốt hơn khi ở Pendle đấy!”
Dứt lời, cô cười phá lên rồi lăn khỏi người tôi, còn tôi ngồi dậy, vẫn còn ngáp ngáp lấy hơi. Một chập sau tôi mới thấy đủ sức bước qua bên kia nhặt thanh trượng và sợi xích bạc lên. Dù là cháu gái một mụ phù thủy, nhưng Alice là bạn tôi và trong một năm rồi đã cứu mạng tôi không chỉ một lần. Tối nay tôi đang luyện tập các kỹ năng sinh tồn, Alice đóng vai phù thủy lùng lấy mạng tôi. Lý ra phải biết ơn thì tôi lại thấy khó chịu. Đây là đêm thứ ba liên tiếp cô thắng tôi rồi.
Khi tôi khập khiễng leo lên sườn dốc đi về phía khu vườn phía tây của Thầy Trừ Tà, Alice chạy đến và sóng bước bên tôi.
“Không cần phải dỗi thế đâu Tom!” cô dịu dàng bảo. “Đêm nay là một đêm mùa hè dịu mát. Chúng ta phải tận dụng tối đa khi còn có thể nào. Rồi chẳng mấy chốc tụi mình sẽ phải lên đường, và cả hai chúng ta đều rất mong được quay trở lại đây mà.”
Alice nói phải. Đầu tháng Tám tôi sẽ được mười bốn tuổi và tính đến nay tôi đã là chân học việc cho Thầy Trừ Tà tròn một năm. Mặc dù thầy trò tôi đã cùng nhau đối mặt với nhiều hiểm nguy tột độ, tuy nhiên, có thứ gì đó ghê gớm hơn vẫn còn đang chờn vờn. Dạo gần đây Thầy Trừ Tà nghe thấy các báo cáo rằng mối đe dọa từ các phù thủy vùng Pendle đang ngày một lớn dần; thầy bảo tôi rằng chúng tôi sẽ sớm đi đến đấy để cố xử lý chuyện này. Nhưng ở đấy có hàng tá phù thủy và có lẽ là hàng trăm kẻ ủng hộ chúng, vì vậy tôi không biết làm cách nào chúng tôi có thể chiến thắng với tỷ lệ chọi như thế. Dù gì thì chúng tôi cũng chỉ có ba người thôi: Thầy Trừ Tà, Alice và tôi.
“Tớ nào phải đang dỗi,” tôi đáp.
“Có đấy. Cằm cậu gần xệ xuống tận mặt cỏ rồi kìa.”
Chúng tôi tiếp tục bước đi trong im lặng cho đến khi vào vườn và trông thấy ngôi nhà của Thầy Trừ Tà qua mấy rặng cây.
“Ông ấy vẫn chưa nói khi nào chúng ta sẽ lên đường đến Pendle phải không?” Alice hỏi.
“Chưa nói gì sất.”
“Thế cậu không hỏi à? Không hỏi han thì chẳng tìm hiểu được gì đâu!”
“Tất nhiên là tớ có hỏi thầy chứ,” tôi bảo Alice. “Thầy chỉ vỗ vỗ lên mũi mình rồi bảo đến khi nào đi tớ sẽ khắc biết. Tớ đoán thầy đang chờ đợi điều gì đấy nhưng tớ không biết là gì.”
“Còn tớ, tớ chỉ mong sao ông ấy cứ lên đường cho rồi. Chờ đợi thế này làm tớ bồn chồn quá.”
“Thật à?” tôi bảo. “Tớ chẳng vội gì phải đi vì tớ không nghĩ cậu lại muốn quay trở về đấy.”
“Tớ không muốn đâu. Đấy là một nơi kinh khủng, Pendle ấy, và cũng rộng lớn nữa – cả một quận to với bao làng mạc xóm chòi cùng đồi Pendle to đùng xấu xí ngay chính giữa. Tớ lại chỉ có một gia đình vô cùng độc ác ở đấy mà tớ thà quên phứt đi còn hơn. Nhưng nếu chúng ta buộc phải đến đó thì tớ muốn dứt điểm cho rồi. Hiện tại ban đêm tớ chẳng thể ngủ được khi phải lo lắng về việc này.”
Khi chúng tôi bước vào bếp, Thầy Trừ Tà đang ngồi bên bàn viết viết gì đấy vào sổ ghi chép, ánh nến lung linh bên cạnh thầy. Thầy liếc nhìn lên nhưng chẳng nói chẳng rằng vì đang bận tập trung. Chúng tôi ngồi xuống hai chiếc ghế đẩu được kéo gần đến lò sưởi. Vì còn là mùa hè, lửa trong lò chỉ be bé thôi, nhưng vẫn đủ sức tỏa ra ánh sáng ấm áp dịu nhẹ lên gương mặt hai đứa.
Cuối cùng thầy tôi cũng đóng sập sổ lại và nhìn lên. “Tối nay ai thắng thế?” thầy hỏi.
“Alice ạ,” tôi xấu hổ đáp.
“Này anh bạn, vậy là ba đêm liên tiếp con bé giỏi hơn con rồi đấy. Con phải làm tốt hơn thế chứ. Phải tốt hơn nhiều vào. Việc đầu tiên vào sáng mai, trước giờ điểm tâm, ta sẽ gặp con trong khu vườn phía tây. Là phần tập luyện phụ thêm cho con đấy.”
Tôi thầm rên rỉ trong lòng. Trong khu vườn ấy có một cột gỗ dùng làm mục tiêu. Nếu mà tập luyện không tốt, thầy sẽ buộc tôi tập thật lâu sau đấy và chắc chắn sẽ trễ giờ điểm tâm.
Bình minh vừa ló dạng, tôi đã khởi bước ra vườn nhưng Thầy Trừ Tà đã ở đấy chờ từ trước.
“Này anh bạn, điều gì làm con chậm chạp thế?” thầy quở. “Đâu cần phải mất lâu đến thế để tỉnh ngủ cơ chứ!”
Dù còn mệt mỏi nhưng tôi vẫn cố hết sức mỉm cười và tỏ ra thật tươi tỉnh nhanh nhẹn. Đoạn, với sợi xích bạc cuộn quanh tay trái, tôi cẩn thận nhắm vào cây cột.
Chẳng mấy chốc sau tôi thấy tỉnh táo hơn nhiều. Đây là lần thứ một trăm kể từ khi bắt đầu, tôi phẩy cổ tay và sợi xích vút lên đanh thép, bung ra, bay vọt lên không trung, lấp lánh sáng ngời dưới ánh nắng ban mai rồi rơi xuống thành một hình xoắn ốc ngược chiều kim đồng hồ hoàn hảo bao lấy cây cột.
Mãi đến một tuần trước, kết quả tốt nhất mà tôi đạt được từ khoảng cách hai mét rưỡi là trung bình chín trên mười lần tung xích thành công. Nhưng giờ đây, thốt nhiên bao tháng trời đằng đẵng tập luyện cuối cùng cũng phát huy tác dụng. Sáng hôm ấy, khi sợi xích quấn lấy cây cột lần thứ một trăm, tôi đã không tung xích hụt dù chỉ một lần!
Tôi cố gắng không mỉm cười, thật sự đấy, nhưng hai bên khóe miệng tôi bắt đầu nhếch lên, và chẳng mấy chốc một nụ cười toe toét nở ra trên mặt tôi. Tôi trông thấy Thầy Trừ Tà lắc đầu, nhưng dù cố sức đến đâu, tôi vẫn không thể kìm nụ cười của mình lại được.
“Đừng có dương dương tự đắc thế chứ anh bạn!” thầy tôi vừa lên tiếng cảnh cáo vừa sải bước qua bãi cỏ tiến đến chỗ tôi. “Ta hy vọng con sẽ không trở nên tự mãn. Trèo cao thì ngã đau thôi, như bao nhiêu kẻ đã trả giá đắt để ngộ ra điều ấy. Và như trước đây ta thường nói với con, một mụ phù thủy sẽ không đứng yên trong lúc con tung xích! Từ những gì con bé kể cho ta nghe về tối qua, con còn phải luyện tập nhiều lắm. Phải rồi, ta thử tung xích vài lần khi đang chạy xem nào!”
Một giờ đồng hồ sau đấy, tôi phải vung xích vào cây cột trong khi đang di chuyển. Có khi là đang chạy hết tốc lực, khi thì chạy từ từ, chạy bổ đến cây cột, chạy rời xa cây cột, tung xích tới trước, tung xéo ngang hông hay tung ngược ra sau vai, tôi phải thực hiện tất, luyện tập thật chăm nhưng mỗi phút qua đi lại thêm đói ngấu. Tôi tung xích hụt đến lắm lần nhưng cũng có vài lần thành công đẹp mắt. Cuối cùng Thầy Trừ Tà cũng hài lòng và chúng tôi tập tiếp đến phần mà thầy chỉ mới chỉ dạy cho tôi vài tuần trước đấy.
Thầy đưa cho tôi thanh trượng của thầy rồi dẫn tôi đến thân cây đã chết mà chúng tôi sử dụng làm mục tiêu tập luyện. Tôi nhấn vào then để bung lưỡi dao ẩn trong thanh trượng ra, rồi khoảng mười lăm phút tiếp theo tôi phải xem gốc cây chết queo kia như là một kẻ thù đang đe dọa mạng sống của mình. Lần này qua lần khác tôi lụi lưỡi dao vào gốc cây cho đến khi hai cánh tay trở nặng trịch và mỏi rã rời. Chiêu thức mới nhất thầy tôi dạy cho tôi là cầm lơi thanh trượng bên tay phải rồi nhanh chóng chuyển sang bên tay trái vốn mạnh hơn nhiều của tôi để đâm mạnh vào gốc cây. Việc này phải luyện thì mới thạo được. Gần giống như là bạn thảy thanh trượng từ tay này sang tay kia vậy.
Khi tôi có dấu hiệu tỏ ra mệt mỏi, Thầy Trừ Tà chậc lưỡi. “Coi nào anh bạn, hãy xem con làm lại lần nữa nào. Một ngày nào đó việc này sẽ cứu mạng con đấy!”
Lần này tôi thao tác gần như là hoàn hảo: Thầy Trừ Tà gật đầu rồi dẫn đường băng qua rừng cây, trở vào nhà dùng bữa điểm tâm vất vả lắm mới có được.
Mười phút sau Alice xuống cùng chúng tôi và cả ba quây quần quanh chiếc bàn gỗ sồi trong phòng bếp, chén đẫy một bữa sáng đầy ứ thức ăn gồm có trứng và thịt xông khói do ông kẹ Thầy Trừ Tà nuôi trong nhà chuẩn bị. Tại Chipenden này ông kẹ ấy có rất nhiều việc phải làm: nào nấu nướng, nào nhóm lửa, rửa nồi niêu lẫn canh gác cho ngôi nhà và các khu vườn. Ông kẹ này không phải là tay đầu bếp tồi nhưng đôi khi nó cũng phản ứng với những gì đang xảy ra trong nhà, và nếu ông kẹ cảm thấy tức giận hay lo lắng thất thường, bạn có thể trông đợi lấy một bữa ăn không vừa miệng. Mà thôi, chắc hẳn sáng hôm ấy ông kẹ đang trong tâm trạng phấn chấn, vì tôi nhớ mình có nghĩ rằng đấy là một trong những bữa điểm tâm ngon nhất mà ông kẹ từng chuẩn bị.
Chúng tôi dùng bữa trong im lặng, tuy nhiên, khi tôi dùng một miếng bánh mì to tướng phết bơ để vét sạch chút lòng đỏ trứng còn sót lại, Thầy Trừ Tà đẩy đĩa ra xa và đứng dậy. Thầy đi qua đi lại quanh nền đá trước lò sưởi, rồi bỗng dừng lại và nhìn thẳng vào mặt tôi.
“Anh bạn này, chiều hôm nay ta đang chờ một vị khách đến đây,” thầy bảo. “Bọn ta có nhiều chuyện để thảo luận lắm, nên khi ông ta đến và con gặp mặt ông ấy rồi, ta muốn được trò chuyện riêng tư với ông ấy. Ta nghĩ đã đến lúc con trở về nhà, trở về nông trại của anh con để lấy mấy chiếc rương mà mẹ con để lại cho con đấy. Ta nghĩ tốt nhất là đem mấy chiếc rương ấy về Chipenden, để con có thể toàn tâm toàn ý xem qua. Biết đâu ta sẽ tìm thấy trong ấy thứ có ích cho chuyến đi đến Pendle. Chúng ta sẽ cần đến mọi sự giúp đỡ có thể có.”
Bố tôi đã qua đời vào mùa đông vừa rồi và để lại nông trại cho Jack, anh cả tôi. Nhưng sau cái chết của bố, chúng tôi phát hiện ra vài điều bất thường trong di chúc của ông.
Trong nông trang của chúng tôi, mẹ tôi có một căn phòng đặc biệt. Căn phòng ngay dưới tầng thượng, và mẹ luôn khóa kín phòng ấy. Căn phòng này được để lại cho tôi cùng với các rương bộng và thùng hộp trong ấy, và di chúc viết rằng tôi có thể đi vào căn phòng này bất cứ khi nào tôi muốn. Điều này đã khiến Jack và Ellie, vợ anh ấy, không vui. Công việc làm chân học việc cho Thầy Trừ Tà của tôi làm hai người ấy lo lắng. Anh chị sợ rằng không chừng tôi lại dẫn dụ thứ gì đấy từ thế lực bóng tối vào trong nhà. Mà tôi cũng không trách anh chị ấy được; chuyện họ sợ đúng đã xảy ra vào mùa xuân năm ngoái, và tính mạng của mọi người đã lâm vào tình trạng nguy hiểm.
Nhưng đấy lại là ý nguyện của mẹ khi để tôi thừa hưởng căn phòng cùng các đồ đạc trong ấy, và trước khi rời đi mẹ đã đảm bảo sao cho cả Ellie lẫn Jack phải chấp nhận tình huống này. Mẹ đã quay về cố hương Hy Lạp của bà để chiến đấu chống lại thế lực bóng tối đang lớn dần lên tại đấy. Việc nghĩ rằng mình có thể không bao giờ gặp lại mẹ khiến tôi buồn lắm, và tôi cho đấy là lý do vì sao mình mãi lần lữa không chịu nhìn vào trong những chiếc rương. Mặc dù tò mò muốn biết trong rương chứa gì, nhưng tôi không thể đối mặt với ý nghĩ lại phải trông thấy nông trang mà chẳng còn bóng bố lẫn mẹ.
“Vâng, con sẽ làm thế ạ,” tôi thưa với thầy mình. “Nhưng khách của thầy là ai thế?”
“Một người bạn của ta,” Thầy Trừ Tà đáp. “Ông ấy sống ở Pendle bao nhiêu năm rồi và sẽ là nguồn giúp đỡ vô giá với những gì chúng ta cần phải ra tay tại nơi ấy.”
Tôi vô cùng ngạc nhiên. Thầy tôi luôn giữ khoảng cách với mọi người, và bởi vì thầy phải đối phó với hồn ma, vãn hồn, ông kẹ và phù thủy, nên chắc chắn người ta cũng tránh xa thầy ra nữa! Tôi chưa từng hình dung ra cảnh thầy quen biết ai đó mà thầy gọi là ”bạn”!
“Ngậm miệng lại đi anh bạn, không thì con gom hết ruồi nhặng vào mất!” thầy bảo. “Ồ, mà con sẽ mang con bé Alice theo cùng nhé. Ta có lắm điều cần bàn nên không muốn hai đứa gây vướng víu.”
“Nhưng anh Jack cũng sẽ chẳng muốn Alice ghé qua đâu ạ,” tôi phản đối.
Không phải tôi không muốn Alice đi cùng mình. Tôi sẽ rất vui nếu có cô đồng hành trong chuyến đi ấy chứ. Chỉ là Jack và Alice không ưa gì nhau. Jack biết Alice là cháu gái của phù thủy nên không muốn cô gái đến gần gia đình anh.
“Phải động não chút chứ anh bạn. Một khi con đã thuê ngựa cùng cỗ xe thì Alice có thể đứng chờ ngoài phạm vi nông trại trong khi con chất mấy chiếc rương lên xe. Và ta cũng muốn con trở về đây càng sớm càng tốt. Thôi nhé, thời gian còn ít lắm – hôm nay ta không thể dành ra quá nửa giờ đồng hồ để dạy con đâu nên chúng ta bắt đầu thôi nào.”
Tôi đi theo Thầy Trừ Tà ra khu vườn phía tây và chẳng bao lâu sau là đã ngồi xuống băng ghế ngoài đấy, sổ ghi chép mở rộng và bút viết nghiêm chỉnh sẵn sàng. Hôm ấy là một buổi sáng trời trong ấm áp. Xa xa có chú cừu kêu be he, trước mặt là những rặng đồi đá đang đẫm mình dưới ánh mặt trời chói lọi, lốm đốm trên đấy là những bóng mây be bé đang đuổi nhau về hướng đông.
Năm học việc đầu tiên của tôi chủ yếu chuyên dành nghiên cứu các loại ông kẹ; còn chủ đề của năm nay là về phù thủy.
“Này nhé anh bạn,” Thầy Trừ Tà lên tiếng, bắt đầu bước qua bước lại khi thầy giảng. “Như con biết đấy, một mụ phù thủy không thể đánh hơi ra chúng ta vì cả hai thầy trò ta đều là con trai thứ bảy của người con thứ bảy. Nhưng điều này chỉ áp dụng được với chiêu ta gọi là "đánh hơi tầm xa" mà thôi. Nên con ghi chú vào nhé. Đấy sẽ là tiêu đề đầu tiên của con. Đánh hơi tầm xa chỉ việc đánh hơi thấy có nguy hiểm đang đến gần, như Lizzie Xương Xẩu đã phát hiện ra đám người từ Chipenden kéo đến đốt nhà mụ ta ấy. Một mụ phù thủy không thể nào đánh hơi ra chúng ta theo cách ấy được, nên điều này mang lại cho chúng ta yếu tố bất ngờ.
“Nhưng thứ chúng ta phải cảnh giác đến chính là việc "đánh hơi tầm gần", nên con cũng nên ghi điều này vào và gạch dưới để nhấn mạnh. Ở khoảng cách tương đối gần, một mụ phù thủy có thể nhận biết khá nhiều điều về chúng ta và ngay lập tức biết điểm mạnh lẫn điểm yếu của chúng ta là gì. Và nếu con càng đến gần một mụ phù thủy thì mụ ta sẽ càng tìm hiểu được nhiều hơn. Vậy nên luôn phải giữ khoảng cách đấy nhé anh bạn. Đừng bao giờ để cho một mụ phù thủy đến gần vượt quá chiều dài cây trượng gỗ thanh hương trà của chính con. Cho phép phù thủy tiếp cận quá gần cũng có những mối nguy hiểm khác nữa – đặc biệt cẩn thận không được để mụ ấy thở vào mặt. Hơi thở phù thủy có thể hủy hoại cả ý chí lẫn sức mạnh của con. Nghe nói là những người đàn ông trưởng thành từng ngất xỉu ngay tại chỗ đấy!”
“Con còn nhớ hơi thở của Lizzie Xương Xẩu,” tôi bảo với thầy. “Nghe giống mùi súc vật hơn mùi con người. Giống mùi con mèo hay con chó thì đúng hơn ấy ạ!”
Lizzie Xương Xẩu, dì của Alice, chưa chết. Mụ ta đang bị giam trong một cái hố tại khu vườn phía đông của Thầy Trừ Tà. Làm thế thật tàn nhẫn nhưng vẫn phải ra tay thôi. Thầy Trừ Tà không đồng tình với việc thiêu chết phù thủy, nên thầy giữ cho toàn Hạt được an toàn bằng cách nhốt phù thủy xuống hố.
“Nhưng không phải mọi phù thủy đều có hơi thở hôi thối như những loại có dính dáng vào cốt hay huyết thuật đâu,” thầy tôi giảng tiếp. “Một mụ phù thủy chỉ sử dụng thuật hiệp thần có thể có hơi thở thơm tho như mùi hoa sơn trà. Nên con phải cẩn thận nhé, vì trong mùi hương dễ chịu ấy ẩn chứa mối nguy hiểm thực thụ. Một phù thủy kiểu ấy có quyền năng "mê hoặc" – viết cả từ này vào đi anh bạn. Cũng giống như loài chồn ecmin có khả năng khiến một con thỏ phải đứng sững lại khi nó tiến đến gần, một số phù thủy có thể lừa bịp đàn ông. Bọn chúng sẽ khiến anh ta tự mãn hay sung sướng, hoàn toàn không ý thức được gì về mối nguy hiểm cho đến khi đã quá muộn.
“Và khả năng này gắn bó khăng khít với một quyền năng khác của một vài phù thủy. Chúng ta gọi đấy là "bỏ bùa" – nên con cũng viết xuống luôn nào. Một mụ phù thủy có thể khiến mình xuất hiện như là một ai đó không phải mụ. Trông trẻ trung xinh đẹp hơn thực tế. Sử dụng quyền năng lừa đảo ấy, mụ ta có thể tạo ra một thần thái bao quanh – nghĩa là chiếu ra một hình ảnh giả tạo – nên chúng ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác. Bởi vì một khi bùa mê đã thu hút được người đàn ông rồi, nó sẽ bắt đầu quá trình mê hoặc và dần dà bào mòn ý chí tự nguyện của anh ta. Vận dụng các chiêu thuật đấy, một mụ phù thủy có thể trói buộc anh ta vào ý nguyện của mụ, khiến anh ta tin vào mọi lời dối trá và chỉ nhìn thấy những gì mụ muốn anh ta nhìn thấy.
“Thuật mê hoặc và bỏ bùa cũng là một mối đe dọa nghiêm trọng với chúng ta. Có là con trai thứ bảy của người con thứ bảy cũng chẳng ích gì. Vậy nên con phải coi chừng! Ta nghĩ con vẫn còn cho là trước giờ ta rất khắt khe mỗi khi có chuyện liên quan đến Alice. Nhưng ta làm vậy vì lợi ích tốt nhất thôi, anh bạn à. Ta luôn e ngại rằng một ngày nào đó, con bé sẽ sử dụng các quyền năng ấy mà khống chế con...”
“Không đâu,” tôi ngắt lời. “Không phải thế đâu ạ. Con thích Alice – không phải vì bạn ấy làm con mê mẩn gì, mà là vì hóa ra bạn ấy thật tốt bụng và luôn là bạn tốt với con. Tốt với cả con và thầy ấy chứ! Trước khi ra đi, mẹ con có nói rằng bà tin tưởng vào Alice và chừng ấy thôi cũng đủ với con rồi.”
Thầy Trừ Tà gật gù và trên mặt thầy thoảng chút ưu sầu. “Có lẽ mẹ con nói đúng. Thời gian sẽ cho chúng ta câu trả lời, nhưng con cứ phải cảnh giác – ta chỉ đòi hỏi có thế. Ngay cả một người đàn ông kiên cường cũng có thể phải khuất phục dưới bao mưu kế của một cô gái xinh đẹp mang giày mũi nhọn. Điều này rút ra từ kinh nghiệm của bản thân ta. Thôi, giờ thì con ghi chép hết mọi thứ ta vừa giảng cho con về phù thủy đi nào.”
Thầy Trừ Tà ngồi xuống băng ghế bên cạnh tôi và im lặng trong khi tôi chép hết mọi điều vào sổ. Khi xong xuôi cả, tôi có một câu hỏi cho thầy.
“Khi đến Pendle, liệu có mối nguy hiểm đặc biệt nào mà chúng ta phải đối mặt từ những hiệp hội phù thủy không ạ? Bất cứ thứ gì mà từ bấy đến nay con chưa từng được nghe đến ấy?”
Thầy Trừ Tà đứng lên và lại bắt đầu đi tới đi lui, chìm đắm trong suy tưởng. “Quận Pendle chi chít phù thủy – có lẽ sẽ có những thứ mà ngay cả ta cũng chưa từng gặp qua. Chúng ta phải biết linh hoạt và sẵn sàng học hỏi. Nhưng ta nghĩ vấn đề rắc rối nhất mà chúng ta phải đối mặt chỉ là số lượng lấn át của bọn chúng. Bọn phù thủy thường hay tranh qua cãi lại lắm, nhưng một khi chúng thật sự đồng thuận với nhau và hiệp lại vì một mục đích chung nào đó, thì sức mạnh của bọn chúng sẽ gia tăng đáng kể. Phải – chúng ta phải dè chừng điều này. Con thấy đấy, đấy chính là tâm điểm của mối đe dọa mà chúng ta đang đối mặt – đó là các tộc phù thủy có thể đoàn kết lại với nhau.
“Con viết thêm một điều vào sổ nữa này – con cần phải hiểu các thuật ngữ chính xác. Một "hiệp hội phù thủy" là từ dùng chỉ mười ba mụ phù thủy tụ lại với nhau để hiệp nhất sức mạnh của bọn chúng trong một kiểu nghi lễ nào đó nhằm kêu gọi quyền năng của thế lực bóng tối. Nhưng một gia đình phù thủy đông đúc hơn thường được gọi là một "tộc phù thủy". Và một tộc như vậy bao gồm cả đàn ông và trẻ con, cũng như các thành viên trong gia đình không trực tiếp thi hành các loại hình tà thuật.”
Thầy Trừ Tà kiên nhẫn chờ đến khi tôi ghi chép xong rồi mới giảng tiếp. “Cơ bản thì, như trước đây ta từng bảo với con, ở Pendle có ba tộc phù thủy chính – tộc Malkin, tộc Deane và tộc Mouldheel – và tộc đầu tiên là lũ xấu xa hơn cả. Tất cả bọn chúng vẫn luôn tranh qua cãi lại nhưng tộc Malkin và Deane nhiều năm qua đã trở nên thân thiết hơn. Bọn chúng kết thông gia với nhau – cô bé Alice bạn con là kết quả của một cuộc hôn nhân như thế. Mẹ con bé là người tộc Malkin còn bố nó là nhà Deane, nhưng tin mừng là cả hai người ấy không ai tập tành trò phù thủy cả. Ngoài ra, bố mẹ con bé đều chết trẻ, và như con biết đấy, Alice đã được trao cho Lizzie Xương Xẩu chăm sóc. Sự huấn luyện con bé phải hứng chịu tại nơi đấy là thứ mà con bé sẽ luôn phải chống chọi để vượt qua, và mối nguy hiểm khi đem con bé quay lại Pendle là có khả năng nó sẽ quy hồi thành đồng loại rồi gia nhập một trong các tộc ấy.”
Một lần nữa, tôi chuẩn bị phản bác lại thì thầy đã khoát tay ngăn lời tôi. “Thôi thì ta hãy cứ mong sao cho chuyện này không xảy ra,” thầy nói tiếp, “nhưng nếu con bé không quay trở lại với thế lực bóng tối thì những kiến thức am tường về địa phương của con bé ấy sẽ vô cùng quan trọng: con bé sẽ là trợ thủ vô giá cho chúng ta lẫn công việc của thầy trò ta.
“Rồi, còn về tộc thứ ba, tộc Mouldheel ấy, bọn này bí ẩn hơn nhiều. Ngoài việc sử dụng cốt và huyết thuật, bọn chúng còn tự hào về kỹ năng sử dụng gương thành thục. Như đã nói với con lúc trước, ta không tin vào trò tiên tri, nhưng người ta đồn rằng tộc Mouldheel toàn sử dụng gương soi để chiêm bói.”
“Chiêm bói ư?” tôi hỏi. “Là sao vậy ạ?”
“Để báo trước tương lai ấy mà anh bạn. Bọn chúng bảo những chiếc gương cho bọn chúng thấy điều sắp xảy đến. Này nhé, trước nay tộc Mouldheel thường giữ khoảng cách với hai tộc còn lại, nhưng gần đây ta nghe rằng có ai đó hay thứ gì đó rất đáng giá khiến bọn chúng gạt bỏ mối hiềm khích từ xa xưa qua một bên. Và đấy là điều chúng ta phải ngăn chặn. Bởi vì nếu cả ba tộc hiệp đồng lại, và còn quan trọng hơn cả là, nếu bọn chúng nhập ba hiệp hội phù thủy lại với nhau, khi đấy ai mà biết bọn chúng sẽ gieo rắc trò tai quái nào lên Hạt này cơ chứ? Chắc con còn nhớ, nhiều năm trước đây chúng từng đã làm chuyện này để nguyền rủa ta đấy thôi.”
“Con nhớ thầy có kể cho con nghe,” tôi đáp. “Nhưng con lại nghĩ thầy đâu có tin vào lời nguyền của bọn chúng.”
“Ừ, ta vẫn muốn nghĩ đấy toàn là trò vớ vẩn, nhưng chuyện ấy vẫn làm ta không yên. May sao chẳng bao lâu sau thì các hiệp hội phù thủy tan rã, trước khi bọn chúng kịp gây ra thêm nhiều tổn hại cho Hạt. Tuy nhiên, những gì sắp sửa xảy ra tại Pendle lần này có gì đấy hiểm ác hơn và là điều ta cần vị khách của ta xác nhận. Chúng ta cần phải chuẩn bị cả về tinh thần lẫn thể chất cho việc mà rất có khả năng là một trận chiến kinh hoàng – và rồi chúng ta cần đến Pendle trước khi quá muộn.
“Mà thôi anh bạn,” Thầy Trừ Tà vừa nói nốt vừa đưa tay lên che mắt nhìn về phía mặt trời, “bài học này kéo dài đủ rồi, con hãy trở vào nhà đi. Con có thể nghiên cứu cho hết buổi sáng vậy.”
Quãng thời gian còn lại của buổi sáng tôi ở trong thư viện của Thầy Trừ Tà. Thầy vẫn chưa tin tưởng Alice hoàn toàn nên cô gái không được phép vào đây phòng trường hợp cô ấy đọc lấy vài thứ đáng ra không được đọc. Vì hiện thời có tất cả ba người sống trong nhà nên rốt cuộc thầy tôi cũng chịu mở thêm một phòng ở tầng dưới và hiện được sử dụng làm phòng nghiên cứu. Lúc này Alice đang làm việc trong ấy, đang trả công bằng cách chép lại một trong những cuốn sách của Thầy Trừ Tà. Vài cuốn sách thuộc loại rất quý hiếm và thầy luôn sợ có gì không hay xảy đến cho chúng nên thầy muốn sao chép thêm bản khác để phòng hờ.
Tôi đang nghiên cứu về các hiệp hội phù thủy – cách một nhóm gồm mười ba mụ phù thủy tụ lại với nhau để tiến hành nghi thức tế lễ. Tôi đang đọc đến đoạn mô tả điều gì xảy ra khi các phù thủy tổ chức những bữa tiệc đặc biệt, được gọi là “lễ sabbath”.
Một vài hiệp hội phù thủy tổ chức lễ sabbath hàng tuần; những hiệp hội khác thì tổ chức hàng tháng, hoặc vào ngày trăng non hay trăng tròn. Ngoài ra còn có bốn lễ sabbath lớn được tổ chức khi quyền năng của bóng tối ở kỳ hùng mạnh nhất: Lễ Nến, Lễ Đêm Phù Thủy, Lễ Hội Mùa và Lễ Hội Ma. Tại bốn bữa tiệc về đêm này, các hiệp hội phù thủy có thể hòa vào cùng nhau cúng tế.
Tôi đã biết lễ Đêm Phù Thủy là gì rồi. Đây là lễ được tổ chức vào ngày 30 tháng Tư, và nhiều năm trước ba hiệp hội phù thủy đã nhóm họp lại tại Pendle trong lễ sabbath ấy để đưa ra lời nguyền dành cho Thầy Trừ Tà. À, hiện tại chúng tôi đang ở trong tuần thứ hai của tháng Bảy; tôi thắc mắc không biết lễ sabbath lớn tiếp theo là ngày nào nên bắt đầu lần đọc qua cả trang để tìm kiếm. Tôi chẳng đọc được bao lâu vì vào lúc ấy xảy đến một chuyện mà tôi chưa từng gặp qua trong toàn bộ thời gian cư ngụ tại Chipenden.
Cộc! Cộc! Cộc! Cộc!
Ai đó đang gõ vào cửa sau nhà! Thật không thể tin được. Chẳng có ai đến thẳng ngôi nhà này cả. Khách đến thăm thường phải đến chỗ những cây liễu gai nơi ngã tư đường và gióng chuông lên. Tự bước chân vào trong vườn có nghĩa là mạo hiểm để bị ông kẹ canh gác ngôi nhà và lãnh địa chung quanh xé xác thành nghìn mảnh. Vậy kẻ nào đã gõ cửa thế kia? Có phải là “người bạn” mà Thầy Trừ Tà đang chờ đến đấy không? Và nếu đúng thế, làm sao ông ta có thể đến tận cửa sau nhà mà vẫn còn toàn thây cơ chứ?
Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 4 - Đòn Tấn Công Của Quỷ Vương Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 4 - Đòn Tấn Công Của Quỷ Vương - Joseph Delaney Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 4 - Đòn Tấn Công Của Quỷ Vương