Never get tired of doing little things for others. Sometimes those little things occupy the biggest part of their hearts.

Unknown

 
 
 
 
 
Tác giả: Rick Riordan
Thể loại: Phiêu Lưu
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 29
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 400 / 38
Cập nhật: 2019-12-06 08:57:57 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 15 - Những Con Lạc Đà Là Quỷ Dữ...
úng rồi, carter, toàn bộ sự việc với những con quái vật nước chắc hẳn là khiếp đảm. Nhưng em không thấy thông cảm với anh, vì 1) anh hoàn toàn tự mình dấn thân vào chuyến đi đó, và 2) trong khi anh cứu Zia, em đang phải xử lí những con lạc đà.
Lạc đà thật ghê tởm.
Anh có thể nghĩ Nhưng, Sadie, đây là những con lạc đà phép thuật, được triệu hồi bằng một trong những bùa hộ mạng của Walt. Walt láu cá! Chắc chắn những con lạc đà phép thuật không tệ như những con lạc đà bình thường.
Bây giờ tôi có thể làm chứng là những con lạc đà phép thuật cũng nhổ phì phì, ị, chảy dãi, cắn, ăn, và ghê tởm nhất là bốc mùi, y như những con lạc đà bình thường. Nếu có, sự ghê tởm của chúng được tăng thêm nhờ phép thuật.
Tất nhiên, chúng tôi không bắt đầu bằng những con lạc đà. Chúng tôi đã tìm cách di chuyển bằng một loạt các phương thức vận tải khủng khiếp hơn. Trước tiên chúng tôi bắt xe buýt đến một thị trấn nhỏ ở phía tây Alexandria - xe buýt không có điều hòa, chật ních đàn ông chưa khám phá ra lợi ích của chất khử mùi nách. Sau đó, chúng tôi thuê một tài xế để đưa chúng tôi đến Bahariya - người tài xế lúc đầu có đủ can đảm để chơi các bài hát nổi tiếng nhất của ABBA và ăn hành sống, sau đó đưa chúng tôi đến một nơi hẻo lánh và - thật ngạc nhiên! - giới thiệu chúng tôi với những người bạn của anh ta, những tên cướp, những kẻ thích trấn lột những thiếu niên người Mỹ không được bảo vệ. Tôi thích thú khi cho chúng thấy chiếc gậy của tôi biến thành một con sư tử to lớn đói khát như thế nào. Theo những gì tôi biết, những tên cướp và người tài xế, vẫn còn đang chạy. Tuy nhiên, chiếc xe đã dừng lại, và không phép thuật nào có thể khởi động lại động cơ.
Đến lúc đó, chúng quyết định rằng tránh xa mạng lưới giao thông là cách tốt nhất. Tôi có thể chịu đựng những cái nhìn thô lỗ của dân địa phương. Tôi có thể chịu đựng được chuyện mình thu hút sự chú ý vì là kẻ kì dị—một cô gái Anh/Mỹ với mái tóc nhuộm nhiều lọn tím, đi một mình với một cậu trai không có vẻ giống anh trai của mình chút nào. Thực tế, đó là miêu tả khá đúng về cuộc sống của tôi. Nhưng sau vụ cướp trên đường cao tốc, Walt và tôi nhận ra người dân địa phương đã theo dõi chúng tôi nhiều đến mức nào, coi chúng tôi là mục tiêu của họ. Tôi không mong muốn được bất cứ tên cướp hay cảnh sát Ai Cập nào chọn ra, hay, thậm chí tệ hơn, bất cứ pháp sư ẩn mình nào. Vì vậy chúng tôi triệu hồi những con lạc đà phép thuật, phù phép một nhúm cát để chỉ đường đến Bahariya, và đi qua sa mạc.
Sa mạc như thế nào nhỉ, Sadie? Bạn có thể tự hỏi.
Cảm ơn vì đã hỏi. Sa mạc nóng bức.
Và còn một điều khác: Tại sao sa mạc lại rộng quá thế? Tại sao chúng không rộng vài trăm mét, vừa đủ để cho bạn khái niệm về cát, khô hạn, và sự cực khổ, sau đó chuyển thành một phong cảnh tử tế, đồng cỏ với dòng sông chẳng hạn, hay một con phố lớn với những cửa hàng?
Chúng tôi không có may mắn đó. Sa mạc trải dài mãi mãi. Tôi có thể hình dung Set, vị thần của những vùng đất hoang, cười nhạo chúng tôi khi chúng tôi lê bước qua các đụn cát bất tận. Nếu đây là nhà của ông ta, tôi không thấy ấn tượng lắm về lối trang trí của ngôi nhà.
Tôi đặt tên cho con lạc đà của mình là Katrina [17]. Nó đúng là một thảm họa thiên nhiên. Nó chảy nước dãi mọi nơi và dường như cho rằng đường kẻ sọc tím trên mái tóc của tôi là một loại quả lạ. Nó bị ám ảnh với việc ăn bằng được đầu tôi. Tôi đặt £ên cho con lạc đà của Walt là Hinderburg [18]. Nó to gần bằng quả khí cầu zepơlin và chắc chắn chứa đầy khí ga.
[17] Tên một cơn bão cực lớn từng tàn phá nhiều vùng nước Mỹ năm 2005
[18] Thảm họa hàng không của Đức năm 1937 khiến 35 người thiệt mạng
Khi chúng tôi cưỡi lạc đà đi cạnh nhau, Walt dường như chìm vào ý nghĩ, nhìn chăm chú nơi chân trời. Anh ấy đã lao đến để trợ giúp tôi ở Alexandria mà không hề do dự. Như tôi nghĩ, bùa mệnh shen của chúng tôi đã được liên kết. Với đôi chút tập trung, tôi đã có thể gửi cho anh ấy thông điệp qua tri giác về việc đã được chúng tôi khẳng định trước. Với một chút nỗ lực nữa, tôi đã có thể kéo anh ấy qua Duat về phía mình. Một vật dụng phép thuật khá hữu ích: một chàng trai nóng bỏng.
Thế nhưng, khi đã ở đây, anh ấy càng lúc càng yên lặng và không thoải mái. Anh ấy ăn mặc như một thiếu niên Mỹ bình thường trong chuyến đi dã ngoại—chiếc áo tập thể thao vừa vặn với anh ấy, quần đi bộ, và giầy. Nhưng nếu bạn nhìn gần hơn, thì có thể thấy anh ấy trang bị mọi phép thuật mà anh ấy đã từng thực hiện. Đeo quanh cổ anh ấy là chiếc bùa hộ mệnh với hình thù các con thú. Ba chiếc nhẫn lấp lánh trên mỗi bàn tay của anh ấy. Anh ấy đeo chiếc thắt lưng kẻ nhung mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy trước đây, vì thế tôi đoán nó có năng lượng phép thuật. Anh ấy cũng mang một chiếc ba lô, chắn chắn được nhét những vật dụng lặt vặt hữu ích. Mặc dù có cả kho vũ khí cá nhân này, Walt có vẻ rất căng thẳng.
"Thời tiết thật đẹp," tôi gợi chuyện.
Anh ấy cau mày, bỡ ngỡ. "Xin lỗi. Anh đang nghĩ..."
"Anh biết đấy, đôi khi nói chuyện cũng đỡ. Chẳng hạn, ồ, em không biết. Nếu em có vấn đề nghiêm trọng, cái gì đó đe dọa sự sống, và em đã chỉ giãi bày với Jaz... và nếu Bes biết chuyện gì đang diễn ra, nhưng sẽ không nói... và nếu em đồng ý thực hiện chuyến thám hiểm với một người bạn tốt của mình, và có hàng giờ để tán ngẫu khi bọn em đi qua sa mạc, em có thể bị mong muốn nói cho cô ấy biết chuyện gì đã xảy ra."
"Đặt giả thuyết," anh ấy nói.
"Đúng vậy. Và nếu cô bạn này là người cuối cùng trên trái đất biết được chuyện gì đã xảy ra với em, và thật sự quan tâm... vậy thì, em có thể hình dung cô ấy sẽ khá bực tức khi bị giấu diếm. Và giả thiết là cô ấy có thể bóp nghẹn anh - em muốn nói là em. Giả thuyết thế."
Walt cố nở nụ cười yếu ớt. Dù tôi không thể nói đôi mắt anh ấy đã làm tôi tan chảy giống như đôi mắt của Anubis, anh ấy thật sự có khuôn mặt tuyệt đẹp. Anh ấy trông không giống cha tôi chút nào, nhưng anh ấy có cùng sức mạnh và vẻ đẹp thô ráp - kiểu hấp dẫn nhẹ nhàng khiến tôi cảm thấy an toàn hơn, và đứng vững hơn một chút trên trái đất.
"Thật khó cho anh để nói về chuyện đó," anh ấy nói. "Anh không có ý giấu em bất cứ điều gì.”
"Thật may, nó vẫn chưa quá muộn."
Những con lạc đà của chúng bước đi nặng nhọc. Katrina cố hôn, hay có lẽ khạc vào Hinderburg, và Hinderburg đã đánh rắm để đáp lại. Tôi thấy đây là sự bình luận buồn tẻ về mối quan hệ giữa con trai-con gái.
Cuối cùng Walt nói, "Sự việc có liên quan tới dòng dõi của pharaoh. Mọi người - anh muốn nói gia đình Kane - là sự kết hợp hai dòng dõi hoàng gia quyền lực, Narmer và Ramesse Đại đế, đúng không?
"Thì em được nghe kể vậy. Sadie Đại đế nghe cũng hay đấy."
Walt không đáp lời. Có lẽ anh ấy đang tưởng tượng tôi là pharaoh, và tôi phải thừa nhận là khái niệm đó khá đáng sợ.
"Dòng dõi hoàng gia của em..." Anh ấy do dự. "Em biết về Akhenaton nhiều đến mức nào?”
"Nếu phải nói mà không cần suy nghĩ, em sẽ nói ông ấy là một pharaoh. Có lẽ là của Ai Cập."
Walt cười to, thế lại hay. Nếu tôi có thể đưa anh thoát khỏi tâm trạng quá nghiêm túc, thì có lẽ anh ấy dễ dàng cởi mở hơn.
"Nhất đấy," anh ấy nói. "Akhenaton là pharaoh người đã quyết định gạt bỏ tất cả các vị thần già và chỉ tôn thờ Aten, là mặt trời."
"ồ... đúng vậy. Câu chuyện ngờ ngợ cảnh báo, khiến tôi cảnh giác, vì nó làm tôi cảm thấy khá giống một người Ai Cập nhàm chán như Carter, "ông ta là kẻ đã di dời thủ đô nhỉ?”
Walt gật đầu. "Ông ta xây dựng một thành phố hoàn toàn mới ở Amarna.ông ta là loại người khác thường, nhưng ông ta là người đầu tiên có ý nghĩ rằng các vị thần già là xấu xa. Ông ta cố cấm đoán nghi lễ thờ cúng của họ, đóng cửa các ngôi đền của họ. Ông ấy muốn tôn thờ một vị thần duy nhất, nhưng ông ta đã chọn lựa kì lạ một vị thần. Ông ấy nghĩ là mặt trời. Không phải là thần mặt trời Ra - mà là vầng mặt trời thực sự, Aten. Dù sao, các pháp sư và những giáo sĩ già nhất, đặc biệt là các tu sĩ Amun-Ra "Tên khác của Ra?” tôi đoán thế.
"Đại loại thế,” Walt nói. "Vì vậy các giáo sĩ của ngôi đền của Amun-Ra không được vui lòng lắm với Akhenaton. Sau khi ông ta chết, họ phá hủy các bức tượng của ông ta, cố xóa sạch tên ông ấy khỏi tất cả các công trình kỉ niệm và các đồ vật. Amarna hoàn toàn bị ruồng bỏ. Ai Cập quay trở lại theo lối cũ."
Tôi để chuyện đó ngấm dần. Hàng nghìn năm trước khi Iskandar ban hành lệnh đầy ải các vị thần, một pharaoh đã có cùng ý nghĩ.
"Và đó là cụ kị xa xưa nào đó của anh à?” tôi hỏi.
Walt quấn dây cương lạc đà quanh thắt lưng. "Anh là một trong những hậu duệ của Akhenaton. Đúng rồi. Chúng ta có cùng khả năng với phép thuật giống như hầu hết các dòng dõi hoàng gia, nhưng... chúng ta cũng có những rắc rối. Các vị thần không hài lòng với Akhenaton, như em có thể hình dung. Người con trai Tutankhamen của ông ta "Vua Tut?" tôi hỏi. "Anh có họ với Vua Tut?"
"Thật không may," Walt nói. "Tutankhamen là người đầu tiên chịu lời nguyền, ông ta chết lúc mười chín tuổi. Và ông ấy là một trong những người may mắn hơn rồi đó.”
"Chờ đã. Lời nguyền nào?”
Đó là lúc Katrina dừng lại kêu rít lên. Bạn có thể phản đối rằng lạc đà không thể kêu rít lên được, nhưng bạn hoàn toàn nhầm. Khi nó lên tới đỉnh đụn cát lớn, Katrina rít lên âm thanh ướt át chói tai còn tệ hơn cả tiếng phanh xe. Hinderburg đánh rắm nhiều hơn.
Tôi nhìn xuống phía bên kia của đụn cát. Phía dưới chúng tôi, ở giữa sa mạc, là một thung lũng gồm những cánh đồng xanh mướt mờ sương và những cây cọ vươn dài, gần bằng diện tích trung tâm London.
Những con chim bay trên đầu. Những cái hồ nhỏ lấp lánh trong ánh nắng chiều. Khói bốc lên từ những bếp lửa ở một vài ngôi nhà nằm rải rác. Sau quãng thời gian quá lâu ở trên sa mạc, đôi mắt của tôi phát đau vì nhìn thấy tất cả các màu sắc, giống như khi bạn bước từ rạp chiếu phim tối đen ra ngoài vào buổi chiều chói nắng.
Tôi hiểu những lữ khách cổ xưa đã cảm nhận như thế nào, phát hiện một ốc đảo giống như thế này sau nhiều ngày ở giữa hoang vu. Đó là thứ gần với Khu vườn Eden nhất mà tôi đã từng nhìn thấy.
Thế nhưng, những con lạc đà đã không dừng lại để ngắm nhìn phong cảnh tuyệt đẹp. Một vệt dấu chân ngoằn nghèo trên cát, từ bìa ốc đảo đảo đến đụn cát của chúng tôi. Và đi lên trên đồi là một con mèo có vẻ như đang cáu kỉnh.
"Đến lúc rồi đấy,” con mèo nói.
Tôi tụt khỏi lưng Katrina và nhìn con mèo ngạc nhiên. Không phải vì nó biết nói - tôi đã nhìn thấy những thứ kì lạ hơn - mà vì tôi nhận ra giọng nói.
"Bast?" tôi nói. “Cô đang làm gì ở trong đó—Chính xác thì là cái gì đây?”
Con mèo đứng lên bằng hai chân sau của nó và xòe những chiếc vuốt trước giống như: Đấy! “Một con mèo Ai Cập, dĩ nhiên rồi. Những vết đốm của báo, lông hơi xanh "Trông giống như đã bị nhét vào máy nghiền!"
Tôi không có ý tàn nhẫn. Con mèo bị đánh đập tàn bạo. Nó mất một mảng lông lớn. Nó một thời chắn hẳn đã rất đẹp, nhưng tôi có thiên về ý nghĩ là nó luôn hung dữ. Chỗ lông còn lại bẩn thỉu và bết, mắt nó sưng lên và đầy sẹo trông tệ gần như mát của Vlad Menshikov.
Bast - hay mèo - hay bất kể là gì - đã đứng xuống bằng bốn chân và hít hít một cách phẫn nộ. "Sadie thân yêu, ta tin là chúng ta đã nói chuyện về những vết sẹo chiến tích trên các con mèo. Con mèo đực già này là một chiến binh!”
Chiến binh thất bại, tôi nghĩ, nhưng tôi quyết định không nói ra điều đó.
Walt tụt khỏi lưng Hinderburg. "Bast, cô đã ở đâu - cô khỏe không?"
"vẫn trong sâu thẳm ở Duat." Nữ thần thở dài. "Còn ít nhất một ngày nữa trước khi ta có thể tìm ra lối thoát. Mọi thứ dưới này hơi... hỗn loạn.”
"Cô ổn chứ?" tôi hỏi.
Con mèo gật đầu. 'Ta phải cẩn thận. Địa ngục đang tràn ngập kẻ thù. Tất cả những con đường hàng ngày và đường sông đều được bảo vệ. Ta sẽ phải đi quãng đường vòng dài để trở về an toàn, và khi xuân phân bắt đầu vào ngày mai lúc hoàng hôn, thời gian sẽ rất sít sao. Ta nghĩ tốt hơn ta gửi cháu thông điệp."
"Vậy thì.." Walt cau mày. "Con mèo đó không phải là thật chứ?"
"Tất nhiên nó là thật,” Bast nói. "Chỉ vì nó bị kiểm soát bởi một phần ba của ta. Ta có thể nói thông qua những con mèo một cách dễ dàng, cháu biết đấy, ít nhất trong một vài phút, nhưng đây là lần đầu tiên cháu gần gũi với một con mèo. Cháu có nhận ra điều đó không? Thật không thể tin nổi! Cháu thật sự cần phải giao du với nhiều mèo hơn. Nhân tiện, con mèo này sẽ cần có phần thưởng khi ta đi rồi. Có lẽ là con cá ngon, hay một ít sữa "Bast," tôi ngắt lời. "Cô nói cô có một thông điệp?”
"Đúng vậy. Apophis đang thức dậy."
"Chúng cháu biết điều đó!"
"Nhưng việc đó tồi tệ hơn chúng ta nghĩ,” cô ấy nói. "Nó có đám quỷ dữ đang làm việc trong hang, và thời gian giải thoát của nó trùng hợp với thời gian đánh thức Ra của cháu. Thực tế, nó đang trông chờ vào việc các cháu giải thoát Ra. Đó là một phần kế hoạch của nó.”
Tôi cảm thấy đầu mình như đang biến thành thạch dẻo, mặc dù đó có thể là vì con lạc đà Katrina đang liếm tóc tôi. "Apophis muốn chúng cháu giải thoát kẻ thù không đội trời chung của nó? Thật vô lý."
"Ta không thể giải thích chuyện này," Bast nói, "nhưng khi ta tiến lại gần hơn chiếc hang của nó, ta có thể lượm được ý nghĩ của nó. Ta cho là vì chúng ta đã chiến đấu qua quá nhiều thế kỉ, vì thế chúng ta có sự liên kết nào đó. Dù sao đi nữa, xuân phân bắt đầu vào ngày mai lúc hoàng hôn, như ta đã nói. Bình minh tiếp theo, buổi sáng ngày hai mươi mốt tháng Ba, Apophis dự định sẽ trỗi dậy ở Duat. Nó có kế hoạch nuốt chửng mặt trời và hủy diệt thế giới. Và nó tin rằng kếhoạch đánh thức Ra của các cháu có ích cho nó.”
Walt cau mày. "Nếu Apophis muốn chúng ta thắng, tại sao nó đang nỗ lực để ngăn chặn chúng ta?"
"Nó làm vậy ư?" tôi hỏi.
Hàng chục việc lặt vặt đã làm tôi băn khoăn trong vài ngày qua bỗng trở nên dễ hiểu: tại sao Apophis chỉ dọa Carter ở Bảo tàng Brooklyn, khi những Mũi tên của Sekhmet có thể đã tiêu diệt anh ấy? Chúng tôi đã trốn thoát một cách dễ dàng khỏi st. Peterburg như thế nào? Tại sao Set tự nguyện cho biết vị trí của cuộn giấy phép thuật thứ ba?
"Apophis muốn sự hỗn loạn," tôi nói. "Nó muốn chia rẽ kẻ thù. Nếu Ra trở lại, việc đó có thể đẩy chúng ta vào một cuộc nội chiến. Các pháp sư đã bị chia rẽ. Các vị thần sẽ đánh lẫn nhau. Sẽ không có thước đo rõ ràng nào. Và nếu Ra không hồi sinh trong thân xác mới mạnh mẽ —nếu ông ấy già và yếu như cháu thấy trong cảnh mộng của mình—"
"Vậy chúng ta không nên đánh thức Ra?” Walt hỏi.
"Đó cũng không phải là câu trả lời," tôi nói.
Bast nghiêng đầu. 'Ta thấy bối rối."
Tâm trí tôi đang chạy đua. Lạc đà Katrina vẫn đang nhai tóc tôi, biến nó thành mớ tóc nhớt nhát, nhưng tôi gần như không để ý. "Chúng ta phải bám sát kế hoạch. Chúng ta cần Ra. Ma'at và Chaos phải cân bằng, đúng không? Nếu Apophis trỗi dậy, thì Ra cũng phải như thế."
Walt xoay những chiếc nhẫn của mình. "Nhưng nếu Apophis muốn Ra được thức dậy, nếu nó nghĩ việc đó sẽ giúp nó tiêu diệt thế giới "Chúng ta phải tin rằng Apophis sai.” Tôi nhớ cái gì đó mà ren của Jaz đã nói cho tôi: Chúng ta chọn tin vào Ma'at.
"Apophis không thể hình dung rằng bất cứ ai đều có thể liên kết các vị thần và các pháp sư,” tôi nói. "Nó nghĩ sự trở lại của Ra thậm chí sẽ làm chúng ta suy yếu hơn. Chúng ta phải chứng minh là nó sai. Chúng ta phải giữ trật tự trước sự hỗn loạn. Đó là việc mà Ai Cập luôn luôn làm. Có rủi ro - một rủi ro lớn - nhưng nếu chúng ta không làm gì vì chúng ta sợ thất bại, chúng ta làm đúng ý Apophis."
Thật khó để nói một cách phấn chấn với con lạc đà đang liếm láp đầu bạn, nhưng Walt gật đầu. Con mèo trông không được hăng hái cho lắm. Thế nhưng mèo hiếm khi hăng hái.
"Đừng đánh giá thấp Apophis," Bast nói. "Cháu chưa đánh nhau với nó. Ta đã từng.”
"Đó là lí do vì sao chúng cháu cần cô trở lại nhanh chóng." Tôi kể cho nữ thần về cuộc nói chuyện của Vlad Menshikov với Set, và các kếhoạch của ông ta nhằm phá hủy Ngôi Nhà Sự Sống. "Bast, những người bạn của chúng cháu đang gặp nguy hiểm lớn. Menshikov thậm chí có thể còn điên cuồng hơn những gì mà chú Amos nhận ra. Ngay khi cô có thể, hãy đến Brooklyn. Cháu có cảm giác cơ hội cuối cùng của chúng ta sẽ ở đó. Chúng cháu sẽ tìm ra cuộn giấy phép thuật thứ ba và tìm được Ra."
"Ta không thích những cơ hội cuối cùng,” con mèo nói. "Nhưng cháu đúng. Nghe có vẻ tệ. Nhân tiện, Bes và Carter đâu rồi?” Bà nhìn những con lạc đà một cách nghi ngờ. "Cháu không biến họ thành những con vật này, đúng không?”
"Ý tưởng thật lôi cuốn,” tôi nói. "Nhưng, không ạ."
Tôi kể cho cô ấy ngắn gọn về những dự Bast rít lên tỏ vẻ không hài lòng. "Một sự chệch hướng ngớ ngấn! Ta sẽ có lời với người lùn về việc để cháu đi một mình.”
"Cháu thì sao, vô hình ư?" Walt phản đối.
"Xin lỗi, cháu yêu, ta không có ý Cặp mắt của con mèo co giật. Nó ho giống như nó bị ngứa cổ. "Sự kết nối của ta đang thất bại. Chúc may mắn, Sadie. Lối vào lăng mộ tốt nhất nằm trên trang trại trồng chà là nhỏ về phía đông nam. Hãy tìm tháp nước đen. Và hãy để mắt tới những người La Mã. Họ khá là Con mèo cong chiếc đuôi. Sau đó nó chớp mắt và nhìn xung quanh một cách bối rối.
"Người La Mã nào?” tôi hỏi. "Họ khá là cái gì?”
"Meo." Con mèo nhìn tôi chằm chằm với vẻ mặt như muốn nói: Ngươi là ai và thức ăn ở đâu?
Tôi gạt mạnh chiếc mũi của con lạc đà khỏi mái tóc nhầy nhụa của tôi.
"Đi nào, Walt," tôi cằn nhằn. "Đi tìm một vài xác ướp nào."
Chúng tôi cho con mèo một vài miếng thịt bò khô và một ít nước từ nguồn dự trữ của chúng tôi. Nó không ngon như cá và sữa, nhưng con mèo có vẻ đủ hài lòng. Vì nó ở trong tầm nhìn của ốc đảo và rõ ràng biết đường đi xung quanh rõ hơn chúng tôi, nên chúng tôi để nó lại một mình ăn hết thức ăn. Walt biến các con lạc đà thành bùa hộ mạng trở lại, cảm ơn các thần, và chúng tôi lê bước vào Bahariya.
Trang trại chà là không khó tìm lắm. Tháp nước đen nằm ở rìa một tòa nhà, và nó là kiến trúc cao nhất trong tầm nhìn. Chúng tôi tiến về phía trước tháp nước, đi qua cánh đồng cọ tạo một chút bóng râm dưới ánh nắng mặt trời. Một ngôi nhà trong trang trại bằng gạch không nung hiện ra phía xa. Nhưng chúng tôi không nhìn thấy bất cứ ai. Có lẽ người Ai Cập biết tốt hơn là không nên ở bên ngoài dưới sức nóng của buổi trưa.
Khi chúng tôi tiến tới tháp nước, tôi không nhìn thấy bất cứ lối vào lăng mộ hiển hiện nào. Cái tháp trông khá cũ - bốn cột thép han rỉ giữ két nước tròn có kích cỡ bằng cái ga ra ở cách mặt đất mười lăm mét. Két nước bị rò nhỏ giọt. Cứ vài giây nước từ phía trên nhỏ xuống và đập vào cát vón cục bên dưới. Chẳng có gì nhiều mà xem ngoại trừ nhiều cọ hơn, một vài công cụ trang trại lấm lem và tấm biển hiệu bằng gỗ dán phong sương nằm trên mặt đất. Tấm biển được phun sơn bằng tiếng Ảrập và tiếng Anh, có lẽ là nỗ lực nào đó của người nông dân nhằm bán hàng ở chợ. Dòng chữ tiếng Anh viết: Chà là - giá tốt nhất. Bebsi lạnh.
"Bebsi?” tôi hỏi.
"Pepsi,” Walt nói. "Anh đọc được ở trên mạng. Không có từ 'p' trong tiếng Ảrập. Mọi người ở đây gọi nước Bebsi sôđa.”
"Vậy thì anh phải gọi nước Bebsi với bánh bizza?"
"Có lẽ thế."
Tôi cười. "Nếu đây là khu vực được khai quật, thì phải có nhiều hoạt động hơn chứ? Các nhà khảo cổ học? Các quầy bán vé? Những người bán đồ lưu niệm?"
"Có lẽ Bast đưa chúng ta đến một lối vào an toàn,” Walt nói. "vẫn tốt hơn là lẻn qua một đống bảo vệ và những người trông nom.”
Lối vào bí mật nghe có vẻ khá tò mò, nhưng trừ phi tháp nước là lối vào viễn tải, hay một trong những cây chà là có cánh cửa bị che giấu, tôi không biết chắc ồ- lối vào-quá hữu ích này có thể ở đâu? Tôi đá chiếc biển Bebsi. Chẳng có gì ở bên dưới ngoại trừ nhiều cát hơn, từ từ chuyển thành bùn bởi nước nhỏ giọt, nhỏ giọt, nhỏ giọt từ tháp nước.
Sau đó tôi nhìn gần hơn một vết ẩm ướt ở trên mặt đất.
"Chờ đã.” Tôi quì xuống. Nước đang dồn vào một con kênh nhỏ như thể cát đang thấm vào kẽ nứt ngầm dưới đất. Đường nứt dài khoảng một mét và không rộng hơn chiếc bút chì, nhưng khá thẳng không thể là đường nứt tự nhiên. Tôi đào cát. ở dưới sáu xen-ti-mét, móng tay tôi cạo vào đá.
"Giúp em dọn sạch chỗ này," tôi nói với Walt.
Một phút sau chúng tôi phát hiện ra một tấm đá lát phẳng có kích thước khoảng một mét vuông. Tôi cố đưa tay xuống dưới các cạnh ẩm ướt của phiến đã, nhưng nó quá dầy và quá nặng để có thể nhấc lên.
"Chúng ta có thể sử dụng cái gì đó để làm đón bẩy,” Walt gợi ý. "Cậy nó lên.”
"Hay," tôi nói, "lùi lại nào."
Walt trông như sáp phản đối, nhưng khi tôi lấy cây gậy của mình ra, anh ấy biết phải tránh xa lối đi. Với sự hiểu biết mới của tôi về phép thuật linh thiêng, tôi không nghĩ nhiều lắm đến việc tôi cần phải cảm nhận sự liên kết với Isis. Tôi nhớ khoảng thời gian khi cô ấy phát hiện ra chiếc quan tài của chồng mình cứ to dần ra trên chiếc thân cây bách, và trong cơn giận giữ và tuyệt vọng cô ấy đã cho nổ tung cây bách. Tôi truyền những cảm xúc này và chỉ vào phiến đá. "Ha-di!”
Tin tốt: câu thần chú còn hiệu nghiệm hơn ở St. Peterburg. Chữ tượng hình phát sáng ở đầu chiếc gậy của tôi, và phiến đá vỡ vụn, để lộ ra chiếc hố đen bên dưới.
Tin xấu: Đó không phải là tất cả những gì tôi phá hủy. Quanh chiếc hố, mặt đất bát đầu vỡ ra. Walt và tôi lùi lại phía sau khi đá rơi ngày càng nhiều hơn xuống chiếc hố, và tôi nhận ra mình đã làm mất ổn định toàn bộ mái của căn phòng nằm ngầm dưới đất. Cái hố mở rộng cho tới khi tôi chạm vào chân trụ của tháp nước. Tháp nước bát đầu kêu răng rắc và lắc lư.
"Chạy đi!" Walt hét lên.
Chúng tôi chạy một mạch cho tới khi nấp sau cây cọ cách đó ba mươi mét. Tháp nước bật ra hàng trăm lỗ thủng khác nhau, rung lắc tới lui giống như kẻ say rượu, sau đó thì đổ sập xuống phía trước chúng tôi và vỡ tan, khiến chúng tôi ướt sũng từ đầu tới chân và tạo ra dòng lũ tràn qua các hàng cây cọ.
Âm thanh chói tai, chắn hẳn cả ốc đảo phải nghe thấy.
"Ối,” tôi nói.
Walt nhìn tôi như thể tôi là kẻ điên rồ. Tôi cho là mình vô tội. Nhưng thật là cám dỗ để cho nổ tung mọi thứ, đúng không?
Chúng tôi chạy đến Hố Tưởng niệm Sadie Kane. Bây giờ nó bằng kích cỡ của chiếc bể bơi. Sâu năm mét, bên dưới đống cát và đá là những hàng xác ướp, tất cả đều được quấn trong lớp vải cũ và được đặt trên các phiến đá. Các xác ướp lúc này đã bẹt ra, tôi e là vậy, nhưng tôi có thể nói rằng chúng được sơn rực rỡ bằng các màu đỏ, xanh dương, và vàng kim.
"Các xác ướp vàng," Walt nhìn một cách kinh hãi. "Một phần của hệ thống lăng mộ vẫn chưa được khai quật. Em vừa làm hỏng—”
"Em đã nói ối rồi. Hãy giúp em xuống dưới đó, trước khi chủ nhân của chiếc tháp nước này xuất hiện với khẩu súng lục.”
Biên Niên Sử Nhà Kane 2 - Ngai Vàng Lửa Biên Niên Sử Nhà Kane 2 - Ngai Vàng Lửa - Rick Riordan Biên Niên Sử Nhà Kane 2 - Ngai Vàng Lửa