However rare true love may be, it is less so than true friendship.

Unknown

 
 
 
 
 
Tác giả: Rick Riordan
Thể loại: Phiêu Lưu
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 29
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 400 / 38
Cập nhật: 2019-12-06 08:57:57 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 9 - Chuyến Chu Du Ngút Trời Thách Thức Ở Nước Nga
hư thường lệ, sadie bỏ qua một số chi tiết quan trọng, ví dụ walt và tôi suýt chết vì cố tìm ra con bé.
Chẳng có gì thú vị khi bay đến bảo tàng Brooklyn. Chúng tôi lơ lửng bám trên sợi dây ở dưới bụng của quái vật sư tử đầu chim như một cặp Tazan, cảnh sát luồn lách, nhân viên cứu hộ khẩn cấp, quan chức thành phố, và một số cụ bà cầm ô đuổi theo chúng tôi, la hét, “Có con chim ruồi kìa! Giết nó đi!”
Ngay khi chúng tôi mở được cổng, tôi muốn mang Freak đi cùng chúng tôi, nhưng cánh cổng cát xoáy tròn…ồ, đã làm nó sợ, vì vậy chúng tôi phải để nó lại.
Khi chúng tôi đến London, màn hình tivi treo ở trước cửa hàng đang chiếu hình ảnh Nhà ga Waterloo – đại loại về sự náo động khác lạ bên trong sân ga do một số con thú xổng chuồng và bão gió gây ra. Trời ạ, tôi tự hỏi là do ai chứ? Chúng tôi sử dụng bùa hộ mạng của Walt cho thần gió Shu để triệu hồi một luồng gió và nhảy lên cầu Waterloo. Tất nhiên, chúng tôi hạ cánh ngay giữa đội chống bạo loạn khủng bố được trang bị vũ khí. Thật may lúc đó tôi nhớ ra bùa ngủ.
Sau đó, cuối cùng, khi chúng tôi sắp sửa lao tới và giải cứu Sadie, con bé đi trên chiếc xe limousine do một người lùn xấu xí trong bộ đồ bơi lái, và con bé đã buộc tội chúng tôi vì tới muộn.
Vì thế khi con bé nói với chúng tôi người lùn đang lái xe đưa chúng tôi tới nước Nga, tôi ở trong tâm trạng kiểu như, “Gì chẳng được.” Và tôi leo lên xe.
Chiếc limousine đi qua Westminister trong khi Sadie, Walt và tôi trao đổi các câu chuyện.
Sau khi nghe Sadie kể lại những gì con bé đã trải qua, tôi không còn cảm thấy một ngày của mình quá tệ. Mơ thấy Apophis và con rắn ba đầu ở phòng tập không có gì là đáng sợ như chuyện các vị thần nhập vào ông bà tôi. Tôi chưa bao giờ yêu quý ông và bà nhiều thế, nhưng dù sao – kinh khủng thật.
Tôi cũng không thể tin nổi người lái xe của chúng tôi là Bes. Bố và tôi thường cười nhạo về bức tranh của ông ấy ở trong các bảo tàng – cặp mắt lồi to, cái lưỡi thè lè, và nói chung thiếu quần áo. Tính ra, ông ta có thể xua đuổi hầu hết mọi thứ - linh hồn, ác quỷ, thậm chí các vụ thần Ai Cập – đó là lý do vì sao những người dân thường Ai Cập đã yêu mến ông ấy. Bes bảo vệ những người nhỏ bé…ừm, đó không phải là trò đùa của người lùn. Bằng xương bằng thịt, ông ta trông giống y hệt như trong bức tranh, chỉ khác là có đủ màu sắc và đủ mùi vị.
“Chúng tôi nợ ông,” tôi nói với ông ta. “Vậy ông là ban của Bast?”
Hai tai của ông ta đỏ ửng. “Đúng…chắc chắn rồi. Cô ấy đôi khi đề nghị tôi trợ giúp. Tôi luôn cố giúp đỡ.”
Tôi có cảm giác như có một vài điều gì đó trước đây mà ông ta không muốn đề cập tới.
“Khi Horus nói với tôi,” tôi nói, “ông ấy cảnh báo rằng có một vài vị thần có thể ngăn cản chúng tôi đánh thức Ra. Giờ thì chúng ta biết người đó là ai.”
Sadie thở hắt ra. “Nếu họ không thích kế hoạch của chúng ta, thì một đoạn tin nhắn giận dữ cũng đủ rồi. Nekhbet và Babi đã gần như xé nát em!”
Mặt con bé hơi xanh. Đôi giày chiến binh của nó bị bắn đầy dầu gội đầu và bùn, và chiếc áo khoác da của con bé có một vết bẩn ở trên vai trông như phân kền kền. Tuy nhiên, tôi khá ấn tượng là Sadie vẫn tỉnh táo. Dung dịch phép thuật rất khó chế và sử dụng nó còn khó hơn. Việc tập trung phép thuật luôn có cái giá của nó.
“Em làm tốt lắm,” tôi nói với con bé.
Sadie nhìn con dao đen ở trong lòng một cách bực bội – con dao nghi lễ mà Anubis đã trao cho nó. “Em đã chết nếu không có Bes”.
“Không”, Bes nói. “Thôi nào, được rồi, có thể cháu đã chết – Nhưng cháu chết một cách huy hoàng.”
Sadie lật con dao đen lạ như thể con bé có thể tìm thấy chỉ dẫn được viết trên đó.
“Nó là Netjeri, con dao được làm bằng quặng sao băng,” tôi nói. “Dao rắn. Các thầy tu sử dụng nó trong-”
“Lễ mở miệng,” con bé nói. “Nhưng chuyện đó giúp gì ta được nhỉ?”
“Chẳng biết nữa,” tôi thừa nhận, “Bes?”
“Những nghi lễ cho cái chết. Ta đã cố tránh chúng.”
Tôi nhìn Walt. Các vật dụng phép thuật là ngón nghề sở trường của cậu ấy, nhưng xem ra cậu ấy không để ý cho lắm. Từ khi Sadie kể cho chúng tôi về cuộc nói chuyện của nó với Anubis, Walt đã trở nên im lặng đáng sợ. Cậu ấy ngồi cạnh con bé, nghịch nghịch những chiếc vòng của mình.”
“Cậu ổn chứ?” tôi hỏi cậu ấy.
“Ừ…mình chỉ đang nghĩ thôi.” Cậu ấy liếc nhìn Sadie. “Ý mình là về con dao netjeri.”
Sadie giật mạnh tóc của mình, như thể đang cố tạo ra bức rèm giữa nó và Walt. Sự căng thẳng giữa họ quá lớn, nên tôi ngờ rằng một con dao phép thuật cũng không thể cắt xuyên thủng nó.
“Anubis chết tiệt,” con bé cằn nhằn. “Anh ta chẳng quan tâm dù em có chết đi chăng nữa.”
Sau đó chúng tôi lái xe trong im lặng một lúc lâu. Cuối cùng Bes rẽ lên Cầu Westminister và quay xe trở lại đúng con đường mà chúng tôi đã đi qua sông Thames trước đó.
Sadie cau mày. “Chúng ta đang đi đâu vậy? Chúng ta cần một cánh cổng. Tất cả di vật tốt nhất đều nằm ở bảo tàng Anh.”
“Đúng vậy,” Bes nói. “Và những pháp sư khác cũng biết điều đó.”
“Các pháp sư khác?” tôi hỏi.
“Này nhóc, Ngôi Nhà Sự Sống có các chi nhánh ở khắp nơi trên thế giới. London là Vùng Chín. Với pha mạo hiểm ở Waterloo, cô Sadie mới thổi bùng một ngọn lửa lớn để thông báo cho các môn đồ của Desjardin biết rằng, Tôi đây! các cháu có thể đánh cuộc rằng họ đang săn đuổi các cháu lúc này. Họ sẽ tràn khắp Bảo tàng trong trường hợp các cháu bỏ trốn. May thay, tôi biết một nơi khác chúng ta có thể mở cánh cổng.”
Được một người lùn dạy dỗ, lẽ ra tôi phải biết London có những pháp sư khác. Ngôi Nhà Sự Sống có ở khắp nơi. Bên ngoài sự an ninh của Nhà Brooklyn, không có một lục địa nào khác an toàn đối với chúng tôi.
Chúng tôi đi qua khu vực Nam London. Quang cảnh hai bên đường Camberwell khá buồn tẻ như những ý nghĩ của tôi vậy. Những căn hộ bằng gạch bẩn thỉu và những cửa hàng cho thuê rẻ tiền nằm dọc theo con phố. Một bà lão ở trạm dừng xe buýt quắc mắt nhìn chúng tôi. Ở lối đi của cửa hàng thực phẩm Asda, một vài gã du côn trẻ tuổi dõi theo chiếc Mercedes như thể muốn cướp chiếc xe. Tôi tự hỏi liệu bọn chúng có phải là các vị thần hoặc các pháp sư cải trang, vì phần lớn mọi người không để ý đến chiếc xe.
Tôi không thể hình dung Bes đang đưa chúng tôi đi đâu. Nó có vẻ không giống như nơi mà bạn có thể tìm thấy nhiều di vật lịch sử Ai Cập.
Cuối cùng một công viên lớn mở ra phía bên trái chúng tôi: những cánh đồng xanh ngắt mờ sương, hàng cây dọc theo các lối đi, và một số bức tường đổ nát giống như những chiếc máng dẫn nước, bị dây nho che phủ. Đất trải lên triền đồi về phía đỉnh đồi nơi có một tháp radio.
Bes lái xe bỏ qua khúc cua và tiến thẳng vào bãi cỏ, làm đổ chiếc biển báo với dòng chữ ĐI THEO LỐI MÒN. Buổi tối trời xám xịt và mưa, vì thế không có nhiều người qua lại. Một cặp chạy bộ ở lối đi bên cạnh thậm chí còn không buồn nhìn chúng tôi như thể ngày nào họ cũng nhìn thấy chiếc xe Mercedes limos bốn bánh đi qua công viên.
“Chúng ta đi đâu đây?” tôi hỏi.
‘Hãy nhìn và họ đi nhóc,” Bes nói.
Bị một người lùn hơn tôi gọi là “nhóc” hơi khó chịu, nhưng tôi giữ im lặng. Bes lái xe thẳng lên quả đồi. Gần đỉnh quả đồi là bậc thang đá rộng chừng 30 bộ, được xây vào sườn đồi. Có vẻ như bậc thang này chẳng dẫn tới đâu. Bes đạp mạnh phanh khiến chúng tôi đột ngột dừng lại. Quả đồi cao hơn so với sự hình dung của tôi. Trải dài bên dưới chúng tôi là toàn bộ London.
Sau đó, tôi nhìn cầu thang kĩ hơn. Hai chiếc tượng nhân sư được làm bằng đá đã rêu phong đặt hai bên cầu thang, nhìn ra toàn thành phố. Mỗi con dài khoảng mười p với thân hình sư tử đặc trưng và đầu của pharaoh, nhưng trông chúng hoàn toàn không thích hợp trong công viên London “Những con này không phải là thật,” tôi nói.
Bes khịt khịt mũi. “Dĩ nhiên chúng là thật.”
“Tôi muốn nói chúng không có ở thời Ai Cập cổ đại. Chúng chưa cũ đến mức ấy.”
“Kén cá chọn canh.” Bes nói. “Những bậc đá này dẫn tới Cung điện Pha lê. Phòng lớn trưng bày bằng sắt và kích to cỡ một nhà thờ từng đã đặt ở đây trên quả đồi này.”
Sadie cau mày: “Tôi đã đọc chuyện đó ở trường. Nữ hoàng Victory đã có bữa tiệc hay một sự kiện đại loại ở đó.”
“Bữa tiệc hay một sự kiện đại loại nào đó?” Bes cằn nhằn. “Đó là một cuộc triển lãm lớn năm 1851. Phô trương sức mạnh của Đế quốc Anh, vân vân. Họ có những quả táo bọc đường rất ngon.”
“Ông đã ở đó chứ?” tôi hỏi.
Bes nhún vai. “Cung điện bị cháy rụi vào thập niên 1930 bởi một số pháp sư ngớ ngẩn – nhưng đó là chuyện khác. Tất cả những gì còn sót lại đến nay là một ít phế tích, như những bậc đá này và những con nhân sư.”
“Bậc đá không dẫn tới đâu,” tôi nói.
“Không phải không tới đâu,” Bes đính chính. “Đêm nay nó sẽ đưa chúng ta tới St. Petersburg.”
Walt ngả người về phía trước. Sự quan tâm của anh ấy với các bức tượng rõ ràng đã giúp anh ấy thoát khỏi trạng thái u sầu.
“Nhưng nếu những con nhân sư không phải là nhân sư Ai Cập thật sự,” cậu ấy nói, “họ có thể ở cánh cổng bằng cách nào?”
Bes cười nhe răng với cậu ấy. “Tùy thuộc vào ý cậu nói người Ai Cập thực sự, nhóc. Mọi đế chế lớn đều thể hiện khát vọng được là Ai Cập. Có các đồ vật Ai Cập ở bên cạnh khiến họ cảm thấy quan trọng. Chính vì thế mà có các di vật Ai Cập “mới” ở Rome, Paris, London – cậu có thể liệt kê. Tháp Ai Cập ở Washington-”
“Làm ơn, đừng nhắc đến chuyện đó,” Sadie nói.
“Dù sao,” Bes tiếp tục, “những con nhân sư này vẫn thuộc về Ai Cập. Chúng được xây cốt để thể hiện liên kết giữa Đế chế Anh và Đế chế Ai Cập. Vì thế chúng có thể truyền phép thuật. Đặc biệt nếu ta đang lái xe. Và lúc này…” Ông ấy nhìn Walt.” Có lẽ đã đến lúc cậu xuống xe.”
Tôi quá bất ngờ không nói nên lời, nhưng Walt nhìn vào lòng mình như thể cậu ấy đã đợi chuyện này.
“Chờ đã,” Sadie nói. “Tại sao Walt không thể đi cùng chúng ta. Anh ấy là một pháp sư. Anh ấy có thể giúp.”
Nét mặt của Bes chuyển sang ghiêm trang hơn. “Walt, cậu chưa nói với họ?”
“Nói với chúng tôi cái gì?” Sadie hỏi.
Walt ôm những chiếc bùa hộ mạng của mình, như thể một trong những cái bùa sẽ giúp cậu tránh được cuộc nói chuyện này. “Chẳng có gì cả. Thật sự đấy. Chỉ là…tôi nên giúp mọi người ở Nhà Brooklyn. Và Jaz nghĩ-”
Cậu ấy ngập ngừng, có lẽ nhận thấy mình không nên nhắc đến tên cô ấy.
“Đúng?” Giọng nói của Sadie bình thản một cách nguy hiểm. “Jaz thế nào rồi?”
“Cô ấy – cô ấy vẫn bất tỉnh,” Walt nói. “Chú Amos nói có thể cô ấy sẽ qua được, nhưng đó không phải là điều mà anh-”
“Tốt,” Sadie nói. “Thật vui là chị ấy sẽ khá hơn. Vậy thì anh cần phải quay lại. Thật tuyệt. Anh đi đi. Anubis nói chúng ta phải nhanh lên.”
Không tế nhị cho lắm, cách mà con bé bảo cậu ấy đi. Walt trông như vừa bị con bé đá vào ngực.
Tôi biết Sadie không công bằng với cậu ấy. Từ cuộc trò chuyện với Walt ở Nhà Brooklyn, tôi biết cậu ấy thích Sadie. Dù điều gì đang làm cậu ấy phiền muộn, thì không phải do cậu chuyện lãng mạn với Jaz. Mặt khác, nếu tôi cố đứng về phía cậu ấy, Sadie sẽ bảo tôi tránh xa ra. Có thể tôi sẽ làm mọi chuyện giữa Sadie và cậu ấy trở nên tồi tệ hơn.
“Không phải là tôi muốn quay trở về,” cậu ấy cố nói.
“Nhưng cậu không thể đi cùng chúng tôi,” Bes nói quả quyết. Tôi nghĩ tôi đã cảm nhận được sự lo lắng trong giọng nói của ông ấy, thậm chí là thương hại. “Thôi nào, nhóc. Sẽ ổn thôi.”
Walt tìm vật gì đó ở trong túi quần và lôi ra. “Sadie, về sinh nhật của em…em, ừm, có lẽ không muốn thêm món quà nào nữa.”
Cậu ấy thả chiếc vòng bằng vàng vào tay Sadie. Nó có một biểu tượng Ai Cập nhỏ.
“Đó là cái rổ bóng trên đầu của Ra,” tôi nói.
Cả Walt và Sadie đều cau mày nhìn tôi, và tôi nhận thấy mình có lẽ đã không khiến cho khoảnh khắc của họ kỳ diệu hơn. “Anh muốn nói nó là biểu tượng viền quanh vương miện mặt trời của Ra,” tôi nói. “Một vòng lặp không bao giờ kết thúc, biểu tượng của sự bất diệt, đúng không?”
Sadie nuốt nước miếng như thể chất lỏng phép thuật vẫn đang sôi sùng sục trong bụng con bé. “Bất diệt?”
Walt đưa mắt nhìn tôi với hàm ý rõ ràng. Làm ơn thôi giúp tôi đi.
“Đúng rồi,” cậu ấy nói. “ừm, nó được gọi là shen. Anh chỉ nghĩ là, em biết đấy, em đang tìm kiếm Ra. Và những điều tốt, những điều quan trọng phải là bất diệt. Vậy có thể nó sẽ mang lại may mắn cho em. Anh định đưa nó cho em từ sáng hôm nay, nhưng…anh đã không dám.”
Sadie nhìn chằm chằm bùa hộ mạng lấp lánh trong lòng bàn tay. “Walt à, em không – em muốn nói là, cảm ơn anh, nhưng-”
“Chỉ cần em nhớ là anh không muốn rời khỏi đây”, cậu ấy nói. “Nếu em cần giúp đỡ, anh sẽ có mặt bên em.” Cậu ấy liêc nhìn tôi và tự cải chính: “Ý mình là cả hai bọn cậu, tất nhiên rồi.”
“Nhưng bây giờ,” Bes nói, “cậu cần phải đi.”
“Chúc mừng sinh nhật, Sadie,” Walt nói “Và chúc may mắn.”
Cậu ấy ra khỏi xe và đi chậm rãi xuống đồi. Chúng tôi nhìn theo cho đến khi cậu ấy chỉ còn là một hình bóng bé xíu trong không gian u ám. Sau đó cậu ấy biến mất vào rừng cây.
“Hai món quà tạm biệt,” Sadie lẩm bẩm, “từ hai chàng trai hào hoa. Em ghét cuộc sông của mình.”
Con bé cài lẫy chiếc vòng bằng vàng đeo quanh cổ và chạm vào biểu tượng Shen.
Bes nhìn xuống phía hàng cây nơi mà Walt đã biến mất. “Thằng nhóc đáng thương. Sinh ra đã khác thường, được thôi. Chẳng công bằng gì cả.”
“Ông muốn nói gì?” tôi hỏi. “Tại sao ông lại quá sốt ruột muốn Walt đi khỏi?”
Người lùn xoa bộ râu lởm chởm của mình. “Ta không có nghĩa vụ để giải thích. Ngay bây giờ chúng ta có việc cần phải làm. Thời gian chúng ta gianh cho Menshikov chuẩn bị phòng thủ càng dài, thì nhiệm vụ này càng trở nên khó khăn hơn.”
Tôi chưa định từ bỏ chuyện này, nhưng Bes nhìn tôi chằm chằm một cách bướng bỉnh, và tôi biết sẽ không có thêm câu trả lời khác của ông ta. Không ai có thể trông ngang bướng như người lùn.
“Rồi, nước Nga,” tôi nói. Bằng cách lái xe lên bậc thang trống trơn.”
“Chính xác.” Bes nhấn lút chân ga. Chiếc Mercedes lật tung cỏ, bùn và chồm lên bậc thang. Tôi tin chắc chúng tôi sẽ lên tới đỉnh núi và chẳng được gì trừ trục bánh xe bị gẫy, nhưng vào phút chót, một cánh cổng cát xoáy tròn mở ra ngay trước mắt tôi. Bánh xe nhấc khỏi mặt đất, và chiếc limousine bay thẳng vào cột xoáy.
Chúng tôi lao rầm xuống vỉa hè ở phía bên kia, khiến một nhóm thanh thiếu niên chạy tản ra trong sự sững sờ. Sadie rên rỉ và nhấc đầu khỏi gối tựa ở ghế xe.
“Chúng ta không thể đi đâu một cách nhẹ nhàng sao?” con bé hỏi.
Bes nhấn nút cần gạt nước và đẩy cát khỏi kính chắn gió xe. Bên ngoài trời tối và có tuyết. Những tòa nhà được xây bằng đá từ thế kỉ 18 nằm dọc theo con sông đóng băng được thắp sáng bởi ánh đèn đường. Ở phía xa bên kia con sông là ánh sáng phát ra từ những tòa nhà trong truyện cổ tích: Những mái vòm nhà thờ bằng vàng, những cung điện trắng, những tòa nhà lộng lẫy được sơn màu xanh lam và xanh lục của Trứng Phục sinh. Tôi có thể đã tin rằng chúng tôi ngược trở về thời gian cách đây 300 năm – ngoại trừ những chiếc xe hơi, đèn điện, và tất nhiên là những thanh thiếu niên đeo khuyên trên cơ thể, tóc nhuộm, và mặc quần áo da đen đang hét lên với chúng tôi bằng tiếng Nga và đập thình thịch lên nóc chiếc xe Mercedes bởi chúng tôi suýt nữa chẹt qua họ.
“Bọn họ có nhìn thấy chúng ta không?”, Sadie hỏi.
“Người Nga,” Bes nói với giọng ngưỡng mộ miễn cưỡng. “Những người rất mê tín. Họ nhận ra bản chất của phép thuật. Chúng ta phải rất cẩn thận ở đây.”
“Ông đã từng đến đây?” tôi hỏi.
Ông ta nhìn tôi kiểu ngu ngốc thế, sau đó chỉ vào hai phía của chiếc xe. Chúng tôi đã hạ cánh giữa hai con nhân sư bằng đá đứng ở trên bệ. Chúng trông rất giống với những con nhân sư mà tôi đã thấy – những cái đầu người đội mũ miện trên cở thể của sư tử - nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy những con nhân sư phủ đầy tuyết.
“Những con nhân sư này là thật chứ?” tôi hỏi.
“Những di vật Ai Cập ở nơi xa nhất của phương Bắc,” Bes nói. “Bị cướp từ Thebes và được mang tới đây để trang trí cho kinh đô mới của Nga, St Peterburg. Như ta đã nói, mọi đế chế mới đều muốn có một vật từ Ai Cập.”
Lũ trẻ ở bên ngoài vẫn ddag la hét và đập thình thịch chiếc xe. Một đứa đập một cái chai vào kính chắn gió.
“Ừm,” Sadie nói, “chúng ta đi chứ?”
“Không,” Bes nói. “Những đứa trẻ Nga luôn thích lang thang canh các nhân sư. Đã làm thế trong hàng trăm năm rồi”
“Nhưng ở đây như là đang nửa đêm,” tôi nói. “Và tuyết đang rơi.”
“Ta đã nói chúng là người Nga chưa nhỉ?” Bes hỏi. “Đừng lo lắng. Ta sẽ lo chuyện này.”
Ông ấy mở cửa. Một luồng gió lạnh băng giá tràn vào chiếc xe Mercedes, nhưng Bes bước ra mà không mặc gì trên người trừ chiếc quần bơi Speedo. Lũ trẻ nhanh chóng lùi lại. Tôi không thể trách họ. Bes nói cái gì đó bằng tiếng Nga, sau đó gầm lên như một con sư tử. Lũ trẻ gào thét và bỏ chạy.
Hình dáng của Bes có vẻ như gợn sóng. Khi quay trở lại chiếc xe, ông ta đang mặc chiếc áo khoác mùa đông ấm áp, và đeo đôi găng tay hở ngón xù lông.
“Thấy chưa?” ông ta nói. “Thật mê tín. Chúng đủ biết để chạy thoát khỏi vị thần”
“Một vị thần lông lá nhỏ bé trong chiếc quần bơi Speedo, đúng thế” Sadie nói. “Vậy chúng ta làm gì bây giờ?”
Bes chỉ tay qua con sông về phía cung điện bằng đá trắng và vàng đang tỏa sáng rực rỡ. “Đó là Hermitage”
“Các giáo sĩ sống [14] ở đó sao?” Sadie hỏi.
[14] Nguyên văn: Hermit
“Không,” tôi nói. “Anh đã nghe kể về cung điện đó. Đó là cung điện của Nga hoàng. Bây giờ nó là bảo tàng. Nơi lưu giữ bộ sưu tập Ai Cập tuyệt nhất ở nước Nga”.
“Em đoán là Cha đã đưa anh đến đó?” Sadie hỏi. Tôi nghĩ chúng tôi đã vượt qua sự ghen tỵ về toàn bộ chuyện đi du lịch vòng quanh thế giới cùng Cha, nhưng thỉnh thoảng điều đó lại quay trở lại.
“Cha và anh chưa bao giờ đi.” Tôi cố không tỏ thái độ phòng thủ. “Một lần Cha có giấy mời diễn thuyết ở đó, nhưng ông đã từ chối.”
Bes cười thầm. “Cha của các cháu thật thông minh. Các pháp sư người Nga không thật sự chào đón người ngoài. Họ bảo vệ lãnh địa của họ một cách quyết liệt.”
Sadie ngước nhìn qua sông. “Ông muốn nói trụ sở của Vùng Mười tám nằm bên trong bảo tàng?”
“Ở đâu đó,” Bes đồng ý, “Nhưng nó được che giấu bằng phép thuật, vì ta chưa bao giờ tìm thấy lối vào. Chỗ mà hai người đang nhìn là Cung điện Mùa Đông, nhà cũ của Nga Hoàng. Phía sau là một dãy các tòa nhà khác. Ta được nghe nói rằng để xem hết mọi vật trong các bộ sưu tập của Hermitage phải cần đến mười một ngày.”
“Nhưng nếu chúng ta không đánh thức được Ra, thế giới sẽ diệt vong trong bốn ngày,” tôi nói.
“Bay giờ còn ba ngày,” Sadie cải chính, “nếu đã sau nửa đêm rồi.”
Tôi chớp mắt. “Cảm ơn em đã nhắc nhở.”
“Vậy thì rút ngắn chuyến thăm,” Bes nói. “Bắt đầu ở khu vực Ai Cập. Tầng trệt, bảo tàng chính.”
“Ông không đi với chúng tôi sao?” tôi hỏi.
“Ông ấy không thể, đúng không?” Sadie phỏng đoán. “Giống như Bast không thể vào ngôi nhà Desjardins ở Paris. Các pháp sư yểm bùa trụ sử của họ nhằm ngăn chặn các vị thần. Có đúng thế không?”
Bes nhăn nhó khiến mặt ông thậm chí trông còn xấu xí hơn. “Ta sẽ dẫn hai người đi bộ tới cây cầu, nhưng ta sẽ không thể đi xa hơn được nữa. Nếu ta đi qua sông Neva thì quá gần với Hermitage, ta sẽ kích hoạt mọi biện pháp báo động. Các cháu phải lẻn vào trong bằng cách nào đó-”
“Đột nhập bảo tàng vào ban đêm,” Sadie lẩm bẩm. “Chúng ta từng rất may mắn khi làm việc này rồi đấy.”
“- và tìm lối vào Vùng mười tám. Và đừng để bắt sống.”
“Ý ông là sao?” tôi hỏi. “Tốt hơn là bị bắt khi đã chết?”
Ánh mắt của ông ta trông thật bí hiểm. “Hãy tin ta đi. Cậu không muốn là tù nhân của Menshikov đâu.”
Bes búng tanh tách các ngón tay, và bỗng nhiên chúng tôi mặc chiếc áo khoác bằng lông, quần trượt tuyết và đi ủng mùa đông.
“Thôi nào, malishi,” ông ấy nói. “Ta sẽ dẫn các ngươi xuống cầu Dvortsovvy.”
Cây cầu chỉ cách đó vài trăm thước (Anh), nhưng trông dường như xa hơn. Rõ ràng tháng ba không phải là thời điểm của mùa xuân ở St. Peterburg. Trời tối, gió và tuyết rơi khiến nó giống với tháng giêng ở Alaska hơn. Riêng tôi, tôi thích một ngày oi ả ở trên sa mạc Ai Cập hơn. Ngay cả quần áo ấm mà Bes trang bị cho chúng tôi, răng tôi vẫn không ngừng va lập cập.
Bes không vội vã. Ông ấy không ngừng đi chậm lại và hướng dẫn chúng tôi trong lúc đi cho tới khi tôi nghĩ chiếc mũi của tôi sẽ rụng mất vì giá lạnh. Ông ta nói chúng tôi đang ở trên đảo Vasilevsky, ở bên kia sông Neva đối diện trung tâm St. Peterburg. Ông ta chỉ ra những tháp nhọn nhà thờ và các đài kỉ niệm, và khi hứng lên, ông ta chuyển sang nói tiếng Nga.
“Ông đã từng ở đây rất lâu” tôi nói.
Ông ta im lặng đi tiếp vài bước. “Phần lớn là cách đây lâu rồi. Đó không phải-”
Ông ta dừng lại quá đột ngột, khiến tôi vấp phải. Ông ta nhìn sang bên kia con phố hướng một cung điện lớn với các bức tường màu vàng hoàng yến và mái dốc màu xanh lục. Sáng lên trong màn đêm qua những làn tuyết xoáy, trông nó như không thật, giống như một trong những hình ảnh ma quái ở Hành lang Thời Đại của Vùng Một.
“Cung điện của Hoàng tử Menshikov,” Bes lẩm bẩm.
Giọng ông ta đầy vẻ căm ghét. Tôi đã gần như nghĩ rằng ông ta sẽ hét BOO vào tòa nhà, nhưng ông ta chỉ nghiến chặt hàm răng. Sadie nhìn tôi để chờ lời giải thích, nhưng tôi không phải là bách khoa thư Wikipedia sống như con bé nghĩ. Tôi biết nhiều điều về Ai Cập, nhưng về nước Nga không nhiều.
“Ông muốn nói Menshikov, giống như là Vlad Kẻ Hít vào?” tôi hỏi.
“Ông ta là hậu duệ,” Bes bĩu môi tỏ vẻ ghê tởm. Ông ta nói một từ tiếng Nga mà tôi sẵn sàng cá cược có nghĩa lăng mạ khá tồi tệ. “Trở lại năm một nghìn bảy trăm, hoàng tử Menshikov tổ chức bữa tiệc cho Peter Đại đế - Nga Hoàng đã xây dựng thành phố này. Peter yêu những người lùn. Chỗ này thì ông ấy rất giống người Ai Cập. Ông ấy nghĩ bọn ta mang lại may mắn, vì thế ông ta luôn giữ một vài người trong số chúng ta trong triều. Dù sao, Menshikov muốn giải trí cho Nga hoàng, vì vậy ông ta nghĩ tổ chức đám cưới của người lùn trên sân khấu sẽ rất khôi hài. Ông ta bắt họ…ông ta bắt chúng ta mặc trang phục, giả vờ kết hôn và nhảy múa xung quanh. Tất cả những gã to lớn đều cười sặc sụa, chế giễu…”
Giọng ông ta nhỏ dần.
Bes mô tả bữa tiệc như thể nó mới được tổ chức vào ngày hôm qua. Thế rồi tôi nhớ ra rằng người đàn ông bé nhỏ kì lạ này là một vị thần. Ông ta đã tồn tại trong hàng niên kỉ.
Sadie đặt tay lên vai ông ta. “Cháu xin lỗi, Bes. Chắc hẳn đã phải khủng khiếp lắm.”
Ông ta cau mặt. “Những pháp sư người Nga…họ thích bắt giữ các vị thần, sử dụng chúng ta. Ta vẫn có thể nghe thấy tiếng nhạc đám cưới, và tiếng Nga hoàng cười phá lên…”
“Làm thế nào mà ông thoát được?” tôi hỏi.
Bes nhìn tôi trừng trừng. Rõ ràng là, tôi đã hỏi một câu rất tệ.
“Chuyện thế đủ rồi.” Bes dựng cổ áo của mình lên. “Chúng ta đang lãng phí thời gian.”
Ông ta tiến lên phía trước, nhưng tôi có cảm giác ông ta chưa thực sự bỏ lại cung điện Menshikov phía sau. Đột nhiên, những bức tường vàng tươi tắn và những ô cửa sáng ánh đèn trông thật nham hiểm.
Đi tiếp một trăm thước nữa trong làn gió rét buốt, chúng tôi đến được cây cầu. Ở phía bên kia cầu, Cung điện Mùa Đông tỏa sáng lung linh.
“Ta sẽ lái chiếc Mercedes lòng vòng,” Bes nói.
“Xuôi xuống cây cầu tiếp theo, và lượn quanh khu phía Nam Hermitge. Có vẻ ít khả năng báo động các pháp sư là ta ở đây hơn.”
Bây giờ thì tôi đã hiểu vì sao ông ta lại quá lo sợ về việc kích hoạt các hệ thống báo động. Các pháp sư đã bẫy được ông ta ở St. Peterburg một lần trước đây. Tôi nhớ những gì ông ta đã nói với chúng tôi ở trong xe: Đừng để bị bắt sống.
“Nếu thành công chúng tôi sẽ tìm ông như thế nào?” Sadie hỏi.
“Khi các cháu thành công,” Bes nói. “Hãy nghĩ một cách tích cực, cô gái, hoặc thế giới sẽ tận thế.”
“Đúng vậy,” Sadie rùng mình trong chiếc áo khoác có mũ trùm đầu kiểu mới của mình. “Tích cực.”
“Ta sẽ gặp hai người ở phố Nevsky Prospekt, con phố chính toàn những cửa hàng, nằm ở phía Nam Hermitage. Ta sẽ ở chỗ Bảo tàng Sôcôla.”
“Chỗ nào ạ?” tôi hỏi.
“À, nó không hẳn là bảo tàng. Giống một cửa hàng hơn – đã đóng cửa vào giờ này, nhưng chủ cửa hàng luôn mở rộng cửa chào đón ta. Họ có mọi thứ làm từ sôcôla – bộ bàn cờ, sư tử, đầu Vladimir Lenin-”
“Người Cộng sản đó à?” tôi hỏi.
“Đúng, Giá sư Lỗi Lạc,” Bes trả lời. “Người Cộng sản đó bằng sô cô la.”
“Vậy để hỏi lại cho rõ,” Sadie nói. “Bọn cháu đột nhập vào Bảo tàng quốc gia Nga được canh phòng cẩn mật, tìm trụ sở bí mật của các pháp sư, tìm cuộn giấy phép thuật nguy hiểm, và tẩu thoát. Trong lúc đó, ông đang ăn sô cô la.”
Bes gật đầu một cách uy nghiêm. “Đó là kế hoạch tốt. Nó có thể khả thi. Nếu có chuyện gì xảy ra và ta không thể gặp cháu ở Bảo tàng Sôcôla, điểm thoát hiểm của chúng ta là Cầu Ai Cập, phía Nam sông Fontanka. Chỉ cần bật-”
“Đủ rồi,” Sadie nói. “Ông sẽ gặp anh em cháu ở cửa hàng sôcôla. Và ông sẽ đưa cho cháu một túi sôcôla đã chuẩn bị sẵn. Quyết định vậy nhé. Bây giờ, đi nào.”
Bes cười nhếch miệng với con bé. “Được đấy, cô gái ạ.”
Ông ta chậm chạp quay lại chỗ chiếc Mercedes.
Tôi nhìn qua con sông mới đóng băng một nửa về phía Cung điện mùa Đông. Không biết sao, London dường như không còn chút ảm đạm hay nguy hiểm nào.
“Chúng ta có gặp nhiều rắc rối như anh nghĩ không nhỉ?” Tôi hỏi Sadie.
“Hơn ấy chứ,” con bé nói. “Đi nghiền nát cung điện Nga hoàng nào?”
Biên Niên Sử Nhà Kane 2 - Ngai Vàng Lửa Biên Niên Sử Nhà Kane 2 - Ngai Vàng Lửa - Rick Riordan Biên Niên Sử Nhà Kane 2 - Ngai Vàng Lửa