A good book should leave you... slightly exhausted at the end. You live several lives while reading it.

William Styron, interview, Writers at Work, 1958

 
 
 
 
 
Tác giả: Rick Riordan
Thể loại: Phiêu Lưu
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 29
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 400 / 37
Cập nhật: 2019-12-06 08:57:57 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3 - Người Bán Kem Lên Kế Hoạch Cho Cái Chết Của Chúng Tôi
hật ra là ta có thể dễ dàng quên rằng tay ta đang bị cháy.
Ồ, xin lỗi. Đây là Sadie. Chắc các bạn không nghĩ là tôi sẽ để ông anh tôi nói vớ vẩn mãi, phải không nào? Làm ơn đi, không có ai đáng chịu sự đày đọa khủng khiếp đến thế.
Chúng tôi đã trở về Nhà Brooklyn, và tất cả mọi người ùa đến chỗ tôi bởi tay tôi bị dính chặt vào một cuộn giấy bốc cháy.
“Em không sao!” Tôi cương quyết. “Hãy lo cho Jaz ấy!”
Nói thật lòng, lúc này, tôi cũng cảm kích trước một chút quan tâm, nhưng chắc chắn tôi đâu phải là điều thú vị nhất đang diễn ra. Chúng tôi hạ cánh xuống mái khu biệt thự, bản thân biệt thự cũng là một sự hấp dẫn kỳ quặc rồi – một khối hình hộp bằng đá vôi và thép, giống sự giao thao giữa một ngôi đền Ai Cập và một bảo tàng nghệ thuật, cheo leo phía trên một khu nhà kho bỏ hoang bên bờ nước Brooklyn. Đó là chưa kể tòa biệt thự lung linh những phép lạ và vô hình trong mắt người trần thế.
Bên dưới chúng tôi, toàn bộ khu Brooklyn đang cháy. Cuộn giấy thần kỳ đáng ghét vẽ mộ vệt lửa ma quái trên toàn khu vực trong khi chúng tôi bay khỏi bảo tàng. Chẳng có gì thực sự bị thiêu cháy, và những ngọn lửa không nóng; nhưng chúng vẫn tạo ra sự sợ hãi đáng kể. Tiếng còi xe cảnh sát hụ. Người nghẽn lại trên các đường phố, trố mắt nhìn những mái nhà bốc lửa. Trực thăng quần đảo với đèn pha tìm kiếm.
Nếu như vậy còn chưa đủ hay ho, thì ông anh tôi đang đánh vật với một con sư tử đầu chim, cố gắng tháo một chiếc thuyền đánh ca khỏi cổ nó và giữ cho nó không ăn thịt các học viên của chúng tôi.
Rồi còn Jaz, nỗi lo thực sự của chúng tôi. Chúng tôi xác định được là chị ấy còn thở, nhưng dường như chị ấy đang bị hôn mê. Khi chúng tôi vạch mặt chị ấy ra, chúng sáng trắng – một dấu hiệu không hay điển hình.
Trong suốt thời gian cưỡi trên thuyền, Khufu đã cố gắng thử một với phép lạ của khỉ đầu chó với chị ấy – vỗ vô lên trán chị, tạo ra những âm thanh thô lỗ, và cố gắng nhét kẹo dẻo vào miệng chị ấy. Tôi chắc là nó nghĩ nó đang cố gắng giúp, nhưng nó chưa làm được gì nhiều để cải thiện tình trạng của Jaz.
Bây giờ thì Walt đang chăm sóc chị ấy. Anh ấy đỡ Jaz nhẹ nhàng và đặt lên một cái cáng, đắp chăn và vuốt tóc cho chị trong khi các học viên khác của chúng tôi tập hợp xung quanh. Và như vậy ổn thôi. Hoàn toàn ổn.
Tôi chẳng quan tâm tý nào đến việc khuôn mặt anh ta đẹp trai ra sao dưới ánh trăng, hay hai cánh tay anh ta cuồn cuộn cơ bắp trong chiếc áo phông không tay, hay một thực tế là anh ta đang cầm tay Jaz, hay...
Xin lỗi nhé. Tôi nghĩ lạc đề rồi.
Tôi buông mình ngồi xuống góc xa của mái nhà, cảm thấy hoàn toàn kiệt sực.bàn tay tôi ngứa ngáy vì phải cầm cuộn giấy cói quá lâu. Những ngọn lửa thần kỳ cù vào các ngón tay tôi.
Tôi sờ lần túi quần bên trái và lôi ra bức tượng nhỏ bằng sáp mà Jaz đã trao cho tôi. Đó là một trong những bức tượng trị bệnh của chị ấy, được sử dụng để trục các loại bệnh tật hay sự nguyền rủa. Nói chung, các bức tượng sáp trông không giống ai cụ thể, nhưng Jaz đã dành nhiều thời gian với bức tượng này. Rõ ràng là nó dành để chữa trị cho một người cụ thể, có nghĩa là nó có nhiều sức mạnh hơn và phần nhiều được để dành cho những tình huống sinh tử. Tôi nhận ra mớ tóc xoăn của của bức tượng, đường nét khuôn mặt, lưỡi kiếm ấn vào hai bàn tay. Jaz thậm chí còn viết tên bức tượng lên ngực bằng chữ tượng hình: CARTER.
Em sẽ cần đến thứ này, chị ấy bảo tôi.
Theo chỗ tôi biết thì Jaz không phải là một nhà tiên tri. Chị ấy không thể tiên đoán được tương lai. Vậy ý chị ấy là gì? Làm sao tôi có thể biết khi nào cần sử dụng bức tượng nhỏ? Nhìn chằm chằm vào tiểu – Carter, tôi có cảm giác kinh khủng rằng cuộc sống của anh tôi nằm gọn trong tay tôi theo đúng nghĩa đen.
“Ổn cả chứ?” một giọng phụ nữ cất lên.
Tôi nhanh chóng cất bức tượng nhỏ đi.
Bast, người bạn cũ của tôi đang đứng phía trên. Với nụ cười nhẹ và đôi mắt vàng lấp lánh, có thể là nữ thần đang lo lắng, hoặc đang buồn cười. Với một nữ thần miêu thì khó mà nói được. Mái tóc đen của nữ thần buộc đuôi ngựa phía sau. Bast mặc một chiếc quần chẽn bằng da báo quen thuộc, như thể sắp sửa biểu diễn nhào lộn đến nơi. Theo như tôi biết, thì nữ thần có thể làm vậy đấy.như tôi đã nói, với mèo, không bao giờ nói trước được.
“Cháu ổn mà,” tôi nói dối. “chỉ là...” tôi vẫy bàn tay bốc lửa một cách bất lực.
“Ừm.” Cuộn giấy có vẻ khiến Bast không thoải mái. “Để xem ta có thể làm được gì.”
Nữ thần quỳ xuống bên tôi và bắt đầu niệm chú.
Tôi trầm tư nghĩ: thật kỳ quặc làm sao khi chú mèo cưng trước đây của tôi đang niệm chú cho tôi. Trong nhiều năm, Bast đã đóng vai con mèo Muffin của tôi. Tôi thậm chí đã không nhận thấy một nữ thần đã ngủ trên gối của tôi hàng đêm. Thế rồi, sau khi bố tôi giải thoát một số lượng lớn các vị thần ở Bảo tàng Anh, Bast đã bộc lộ thân phận của mình.
Nữ thần nói với chúng tôi là cô đã trông coi tôi trong sáu năm trời, kể từ khi bố mẹ tôi thả Bast ra khỏi chốn giam cầm ở Duat, nơi cô được cử tới để chiến đấu với rán hỗn mang Apophis mãi mãi.
Đó là một câu chuyện dài, nhưng mẹ tôi đã dự đoán rằng Apophis sẽ đào tẩu khỏi nhà tù, và căn bản điều đó có nghĩa là Ngày Tận Thế. Nếu Bast tiếp tục đơn thương độc mã chiến đấu với rắn, nữ thần sẽ bị tiêu diệt. Tuy nhiên, nếu Bast được tự do, mẹ tôi tin rằng cô sẽ đóng một vai trò quan trọng trong cuộc chiến sắp tới với Sự Hỗn Mang. Vậy là bố mẹ tôi thả Bast ra trước khi Apophis có thể áp đảo nữ thần. Mẹ tôi đã qua đời khi nhanh chóng mở ra và đóng lại nhà tù của Apophis; vậy nên lẽ tự nhiên Bast cảm thấy nợ bố mẹ tôi. Bast đã trở thành người bảo hộ của tôi.
Bây giờ cô là người đi kèm tôi và Carter, là người bạn đồng hành và đôi khi là đầu bếp riêng (Một lời khuyên nhé: nếu nữ thần mời bạn món Friskies [6] du Jour, hãy nói không).
[6] Friskies: nhãn hiệu món ăn dành cho mèo
Nhưng tôi vẫn nhớ Muffin. Có những lúc tôi phải cưỡng lại mong muốn được gãi gãi sau tai Bast và cho nữ thần ăn món ăn khô khoái khẩu, mặc dù tôi mừng là Bast không còn cố gắng ngủ trên gối của tôi vào ban đêm nữa. Như vậy thì hơi kỳ lạ một chút.
Bast đã niệm chú xong, và những ngọn lửa trên cuộn giấy lịm tắt. Tay tôi được tự do, cuộn giấy cói rơi xuống đùi tôi.
“Lạy thần linh, cám ơn cô,” tôi nói.
“Lạy nữ thần chứ,” Bast sửa tôi. “Ta rất vui được giúp cháu. Chúng ta không thể để sức mạnh của Ra thiêu cháy thành phố, phải không?”
Tôi nhìn sang khu Brooklyn. Những đám cháy đã biến mất. Đường chân trời đêm khu Brooklyn đã trở lại bình thường, ngoại trừ những ánh đèn xe cảnh sát và những đám đông người trần đang hò hét trên phố. Nếu phải nghĩ, thì tôi cũng cho rằng như vậy khá là bình thường rồi.
“Sức mạnh của Ra?” tôi hỏi. “Cháu nghĩ rằng cuộc giấy là đầu mối. Liệu đây có chính là Cuốn Sách của Ra không?”
Bím tóc đuôi ngựa của Bast cong vổng lên như vẫn vậy khi cô căng thẳng. Tôi đã nhận thấy cô giữ mái tóc mình buộc đuôi ngựa để toàn bộ mái đầu không xòe tung thành hình một con nhum biển mỗi khi cô hoảng hốt.
“Cuộn giấy là... một phần của cuốn sách,” nữ thần nói. “Và ta đã cảnh cáo cháu. Ta gần như không thể kiểm soát quyền lực của Ra. Nếu cháu cứ khăng khăng muốn đánh thức ông ta dậy, những ngọn lửa lần sau cháu khơi lên sẽ không vô hại thế đâu.”
“Nhưng chẳng phải ông ấy là pharaoh của cô sao?” Tôi hỏi. “Cô không muốn ông ấy thức dậy ư?”
Nữ thần cụp mặt xuống. Tôi nhận thấy lời nhận xét của mình thật ngớ ngẩn. Ra là chúa tể là thầy của Bast. Hàng thiên niên kỷ trước, thần mặt trời đã chọn Bast là nhà vô địch của mình. Nhưng ông ta cũng chính là người đã cử Bast đến cái nhà tù đó để khiến cho kẻ thù không đội trời chung của ông ta là Apophis bận bịu mãi mãi, vậy là Ra có thể về hưu với tâm trạng thanh thản. Như vậy khá là ích kỷ, nếu bạn hỏi ý kiến tôi.
Nhờ có bố mẹ tôi, Bast đã thoát ra khỏi cảnh tù đầy, nhưng như vậy cũng có nghĩa là nữ thần từ bỏ vị trí chiến đấu với Apophis. Hèn gì mà Bast có cảm giác lẫn lộn về việc gặp lại người chủ cũ của mình.
“Tốt nhất là sáng mai ta nói chuyện,” Bast nói. “Cháu cần nghỉ ngơi, và cuộn giấy đó chỉ có thể được mở trong ánh sáng ban ngày, khi dễ kiểm soát sức mạnh của Ra hơn.”
Tôi nhìn chăm chăm xuống đùi mình. Cuộn giấy cói vẫn đang bốc khỏi. “Dễ kiểm soát sức mạnh của Ra hơn... ý là, cuộn giấy sẽ không làm cháu bốc cháy?”
“Giờ thì có thể an toàn chạm vào nó rồi,” Bast đảm bảo với tôi. “Sau khi bị kẹt trong bóng tối hàng thiên niên kỉ, cuộn giấy rất nhạy cảm, nó phản ứng với bất kỳ thứ năng lượng nào – dù là thần bí, điện hay cảm xúc. Ta đã, à, làm giảm sự nhạy cảm đó đi rồi vậy nên nó sẽ không bùng cháy nữa đâu.”
Tôi cầm lấy cuộn giấy. Ơn trời, Bast nói đúng. Nó không còn dính chặt vào tay tôi hay châm lửa khắp thành phố nữa.
Bast giúp tôi đứng dạy. “Ngủ một chút đi. Ta sẽ báo cho Carter biết là cháu ổn. Bên cạnh đó...” Nữ thần cố nở được nụ cười. “Cháu gái, ngày mai là ngày quan trọng của cháu mà.”
Phải, tôi nghĩ buồn rầu. Chỉ có một người nhớ, và đó là con mèo của tôi.
Tôi nhìn về phía anh trai, người vẫn đang cố gằng điều khiển sư tử đầu chim. Quái vật đang ngậm mấy chiếc dây giầy của Carter trên mỏ và dường như không định nhả ra.
Phần lớn trong số hai mươi học viên của chúng tôi đang vây lấy Jaz, cố gằng đánh thức chị ấy. Walt không rời khỏi chị ấy. Anh ngước nhìn tôi thoáng qua, lúng túng, rồi lại hướng sự chú ý vào Jaz.
“Có lẽ là cô đúng.” Tôi lầm bầm nói với Bast. “Ở trên này không ai cần cháu.”
Căn phòng của tôi là một nơi dễ thương để hờn dỗi. Sáu năm qua tôi đã sống ở tầng áp mái trong căn hộ của ông bà ở London, và mặc dầu tôi nhớ cuộc đời cũ của mình, các bạn Liz và Emma của tôi, và gần như mọi thứ ở nước Anh, tôi không thể bác bỏ rằng căn phòng của tôi ở Brooklyn đẳng cấp hơn nhiều.
Ban công riêng của tôi nhìn xuống Sông Đông. Tôi có một chiếc giường khổng lồ và tiện nghi, một phòng tắm riêng và một tủ quần áo rộng rãi với vô số các bộ đồ mới xuất hiện một cách thần kỳ và tự giặt sạch khi cần thiết. Chiếc tủ ngăn kéo có lắp một tủ lạnh, chưa món đồ uống Ribe na ưa thích của tôi, nhập khẩu từ Anh Quốc, và socola lạnh (ờ, một cô gái phải biết tự thưởng cho mình chứ). Hệ thống âm thanh quá đỉnh, và các bức tường được cách âm kỳ diệu để tôi có thể mở nhạc to hết mức mình muốn mà không phải lo ngại ông anh củ chuối ở phòng bên. Trên mặt chiếc tủ là món đồ duy nhất mà tôi mang từ căn phòng của mình ở London sang: một chiếc máy ghi băng cũ kỹ mà ông bà tôi đã tặng tôi từ lâu rồi. Nó lạc hậu không thể đỡ được, đúng vậy, nhưng tôi vẫn giữ nó bên mình vì những lý do tình cảm. Nói cho cùng, Carter và tôi đã ghi âm lại trên đó những chuyến đi mạo hiểm ở Kim Tự Tháp Đỏ.
Tôi cầm chiếc Ipod và lướt qua bản danh mục các bài hát. Tôi chọn một bản mix ghi nhãn BUỒN, bởi đó là cảm giác của tôi.
Adele’s 19 bắt đầu vang lên. Thánh thần, tôi đã không nghe album này kể từ...
Tôi bắt đầu trào nước mắt một cách khá bất ngờ. Tôi đã nghe bản mix này vào đêm Giang Sinh khi bố và Carter đón tôi để thực hiện chuyến đi đến Bảo tàng Anh – cái đêm cuộc đời chúng tôi đã thay đổi mãi mãi.
Adele hát như thể có ai đó đang dứt trải tim mình ra. Ca sĩ cứ hát mãi về người con trai cô ấy thích, tự hỏi phải làm gì để anh chàng muốn cô nghiêm chỉnh. Tôi có thể đồng cảm với điều đó. Nhưng Giáng sinh năm ngoái, bài hát đó cũng đã khiến tôi nghĩ đến gia đình của mình nữa: mẹ tôi, người đã qua đời khi tôi còn khá nhỏ, và bố tôi với Carter, hai người đã đi du lịch vòng quanh thế giới cùng nhau, để lại tôi một mình ở London với ông bà, và dường như không cần có tôi trong cuộc sống của họ.
Dĩ nhiên tôi biết là mọi sự phức tạp hơn thế nhiều. Đã có một cuộc chiến giành quyền nuôi dưỡng đáng xấu hổ liên quan đến các luật sư và những cuộc tấn công bằng dụng cụ nấu bếp, và bố muốn tách Carter và tôi ra để chúng tôi không kích thích những phép thuật của nhau trước khi chúng tôi có thể kiểm soát được sức mạnh. Và vâng, kể từ lúc đó tới nay chúng tôi đều đã lớn lên. Bố đã trở về trong cuộc sống của tôi nhiều hơn một chút, dù rằng bây giờ ông là một vị thần ở dưới âm phủ. Còn mẹ tôi... ờ, tôi đã gặp hồn ma của mẹ. Tôi cho rằng như vậy cũng đáng kể đôi chút.
Dẫu sao, âm nhạc đưa nỗi đau và sự tức giận mà tôi từng cảm nhận hồi Giáng sinh trở lại. Tôi nghĩ là tôi vẫn chưa rũ bỏ được cảm giác ấy hoàn toàn như tôi đã tưởng.
Ngón tay của tôi lưỡng lự ở nút tua nhanh, nhưng tôi đã quyết định để bài hát tiếp túc. Tôi quẳng đồ của mình lên mặt chiếc tủ - cuộn giấy cói, bức tượng Carter nhỏ bằng sáp, chiếc túi phép thuật của tôi, cây đũa thần. Tôi với tay tìm cây gậy của mình, rồi nhớ ra rằng tôi không còn gậy nữa. Sư tử đầu chim đã ăn mất rồi.
“Đồ óc quả nhỏ tho lỗ,” tôi lẩm bẩm.
Tôi bắt đầu thay quần áo để lên giường. Tôi đã dán lên mặt trong cửa tủ quần áo nhiều ảnh, phần lớn là ảnh của tôi và các bạn mình ở trường năm ngoái. Có một bức của Liz, của Emma và tôi làm mặt hề trong một quầy chụp ảnh tự động ở Piccadilly. Trông chúng tôi thật trẻ con và buồn cười.
Tôi không thể tin ngày mai tôi có thể gặp lại họ lần đầu tiên sau bao nhiêu tháng qua. Ông bà đã mời tôi đến thăm, và tôi đã có kế hoạch chỉ đi chơi với các bạn của mình – ít nhất, đó từng là kế hoạch của tôi trước khi Carter thả quả bom “năm ngày để cứu thế giới.” Giờ thì, ai biết được điều gì sẽ xảy ra?
Chỉ có hai bức ảnh không có mặt Liz và Emma trang trí cửa tủ của tôi. Một bức ảnh Carter, tôi với chú Amos vào cái ngày Amos đi Ai Cập đẻ chú ấy, ừm..., phải gọi thế nào khi một người đi chữa trị sau khi đã bị một vị thần ác quỷ ám. Không phải là một kỳ nghỉ, tôi nghĩ vậy.
Bức hình cuối cùng là một bức vẽ Anubis. Có lẽ các bạn đã thấy vị thần: người đàn ông với cái đầu chó rừng, vị thần của tang lễ, cái chết, vân vân. Ông có mặt ở mọi nơi trong nghệ thuật Ai Cập – dẫn dắt linh hồn những người chết đi vào Phòng Xét Xử, quỳ trước những chiếc cân, cân một trái tim và một sự thật nhẹ bẫng như lông hồng.
Tại sao tôi lại có ảnh của thần?
[Được rồi, Carter. Em sẽ nói, chỉ để anh im đi thôi đấy. ]
Tôi phải lòng Anubis đôi chút. Tôi biết nghe thế thật nực cười, một cô gái hiện đại tơ tưởng một vị thần đầu chó năm nghìn tuổi, nhưng tôi không nhìn thấy điều đó khi tôi nhìn vào bức vẽ Anubis. Tôi nhớ về Anubis như khi ông xuất hiện ở New Orleans, lần chúng tôi gặp mặt nhau – một chàng trai chừng mười sáu tuổi, mặc áo da đen với quần bò, với mái tóc đen bù xù và đôi mắt buồn tuyệt đẹp màu socola tan chảy. Chẳng hề là một vị thần đầu chó tẹo nào.
Vẫn nực cười, tôi biết thế. Ông ta là một vị thần. Chúng tôi chẳng có một điểm chung nào cả. Tôi cũng không có tin tức gì của Anubis kể từ cuộc phiêu lưu của chúng tôi với Kim Tự Tháp Đỏ, và điều đó không nên khiến tôi ngạc nhiên. Mặc dù lúc ấy vị thần có vẻ quan tâm đến tôi và có lẽ thậm chí còn đôi khi bóng gió... Không, chắc chăn là tôi đã tưởng tượng ra thôi.
Trong bảy tuần qua, kể từ khi Walt Stone đến nhà Brooklyn, tôi đã nghĩ rằng tôi có thể quên được Anubis. Dĩ nhiên, Walt là học viên của tôi, và lẽ ra tôi không nên nghĩ về anh ấy như một bạn trai tiềm năng, nhưng tôi khá chắc là đã có sự rung độn giữa chúng tôi lần đầu nhìn thấy nhau. Dẫu thế, giờ thì, Walt có vẻ đã rút lui. Anh ấy hành động đầy bí ẩn, luôn luôn có vẻ tội lỗi và nói chuyện với Jaz.
Cuộc đời tôi thật là rác rưởi.
Tôi mặc quần áo ngủ vào, trong khi Adele vẫn tiếp tục hát. Phải chăng tất cả các bài hát của cô ta nói về chuyện không được bọn con trai để mắt tới? Bỗng dưng tôi thấy chúng thật chán ngắt.
Tôi tắt nhạc và chui tọt vào giường.
Thật buồn, một khi tôi thiếp đi, đêm của tôi chỉ trở nên tệ hại hơn mà thôi.
ở Nhà Brooklyn, chúng tôi ngủ trong đủ loại bùa phép thần kỳ để bảo vệ chúng tôi khỏi những giấc mơ độc ác, những tinh linh xâm nhập hoặc thảng những thôi thúc mà tâm hồn chúng tôi có thể lạc tới. Tôi thậm chí có cả một chiếc gối kỳ diệu để đảm bảo rằng tâm hồn tôi – hay còn gọi là ba, nếu bạn muốn tỏ ra Ai Cập – neo đậu ở thân xác tôi.
Dù sao, đó vẫn không phải là một hệ thống hoàn hảo. Tôi thường xuyên có thể cảm thấy một sức mạnh bên ngoài nào đó lôi kéo trí óc tôi, cố gắng thu hút sự chú ý của tôi. Hoặc là tâm hồn tôi sẽ cho tôi biết rằng nó cần đi tới một nơi nào đó, nó muốn cho tôi thấy một quang cảnh quan trọng nào đó.
Ngay khi vừa ngủ thiếp đi tôi có cái cảm giác ấy. Hãy hình dung ra nó như một cuộc điện thoại gọi đến, và bộ não cho tôi lựa chọn được nhận cuộc gọi hay từ chối. Phần lớn thời gian, tốt hơn cả là từ chối, đặc biệt là khi bộ não của tôi báo một số điện thoại lạ.
Nhưng đôi khi, những cuộc gọi đó lại quan trọng. Và mai là ngày sinh nhật của tôi. Có lẽ là bố và mẹ từ dưới âm phủ cố gắng liên lạc với tôi. Tôi tưởng tượng ra họ trong Phòng Xét Xử, Cha ngồi trong ngai như thần Osiris da xanh lam, mẹ trong chiếc váy trắng của hồn ma. Có lẽ họ đang đội những chiếc mũ hội hè bằng giấy và đang hát bài “Mừng sinh nhật” trong khi Ammit và Devourer, những quái vật như thú nuôi tí xíu của họ, nhảy tới nhảy lui, kêu ăng ẳng.
Hoặc có thể, chỉ là có thể thôi, là Anubis gọi. Xin chào, anh nghĩ là em muốn đi dự một đám tang hoặc làm gì đó?
À... có thể chứ.
Vậy là tôi nhận cuộc gọi đến. Tôi để linh hồn mình đi tới nơi nó muốn, và ba của tôi nổi bồng bềnh bên trên thân xác tôi.
Nếu bạn chưa bao giờ thử một chuyến chu du với ba của mình, tôi không xui bạn làm vậy đâu. Dĩ nhiên trừ phi bạn khoái trở thành một con ma gà và trôi nổi một cách mất kiểm soát qua những dòng chảy ở Duat.
Thường thì ba vô hình trong mắt người khác, một điều tốt, bởi nó có hình dạng một con chim khổng lồ gần cái đầu bình thường của ta. Ngày xưa, tôi đã có thể điều khiển được ba của mình biến dạng thành những hình thù không đến nỗi xấu hổ lắm, nhưng kể từ khi Isis rời khỏi đầu tôi, tôi không có khả năng đó nữa. Giờ đây khi cất cánh, tôi mắc kẹt với định dạng gia cầm tiêu chuẩn.
Cánh cửa ban công bật mở, một làn gió thần kỳ nâng tôi vào đêm. Ánh đèn thành phố New York mờ nhạt dần, và tôi thấy mình ở trong một căn phòng quen thuộc dưới lòng đất: Hành Lang Thời Đai, trong trụ sở chính của Ngôi Nhà Sự Sống ở dưới Cairo.
Hành Lang dài tới mức người ta có thể tổ chức chạy marathon ở đó. Ở giữa phòng là một tấm thảm màu xanh lam lấp lánh như một dòng song. Giữa những hàng cột ở hai bên, là tấm rèm ánh sáng óng ánh – những hình ảnh ba chiều trích từ lịch sử dâu dài của Ai Cập. Ánh sáng đổi màu để thể hiện những kỉ nguyên khác nhau, từ ánh sáng trắng của Thời Đại Của Các Vị Thần cho tới tận ánh sáng đỏ thắm của thời hiện đại.
Mái Hành Lang thậm chí còn cao hơn cả mái phòng khiêu vũ ở Bảo tàng Brooklyn, không gian rộng lớn được chiếu sáng bở những quả cầu năng lượng lấp lánh và những chữ tượng hình bồng bềnh. Trông như thể ai đó đã đổ tháo chừng vài cân thức ăn ngũ cốc của trẻ em vào tình trạng không trọng lượng, và tất cả những mẩu ngũ cốc ngọt ngào đầy màu sắc cứ trôi dạt và va vào nhau chậm rãi.
Tôi bồng bềnh trôi tới cuối gian phòng, ngay phía trên một cái bục cao bên trên đặt ngai của pharaoh. Đó là một vị trí danh dự, đã để trống từ khi Ai Cập bị diệt vong, nhưng ngồi dưới đó một bậc là Đại Pháp Sư, ông chủ của Vùng Một, lãnh tụ của Ngôi Nhà Sự Sống, và pháp sư tôi ít ưa nhất Michel Desjardins.
Kể từ sau cuộc tấn công vào Kim Tự Tháp Đỏ, tôi đã không gặp lại Quý ông Thú vị nữa, và tôi ngạc nhiên khi thấy ông ta đã già đi biết bao nhiêu. Ông ta chỉ mới trở thành Đại Pháp Sư cách đây vài tháng, nhưng mái tóc đen thẳng và hàm râu nhọn của ông ta đã điểm xám. Ông ta tựa và cây gậy của mình, như thế chiếc áo choàng bằng da báo của Đại Pháp Sư khoác trên vai nặng như chì.
Tôi không thể nói rằng tôi cảm thấy thương hại ông ta. Chúng tôi đã không chia tay nhau như bạn bè. Chúng tôi đã kết hợp sức mạnh (đại loại thế) để đánh bại thần Set, nhưng ông ta vẫn coi chúng tôi là những pháp sư lừa đảo nguy hiểm. Ông ta đã cảnh cáo chúng tôi là nếu chúng tôi tiếp tục con đường của các vị thần (chúng tôi đã làm vậy), thì lần sau gặp, ông ta sẽ tiêu diệt chúng tôi. Chắc chắn điều ấy chẳng khuyến khích chúng tôi mời ông ta tới dùng trà.
Khuôn mặt ông ta hốc hác, nhưng ánh mắt ông ta vẫn long lanh đầy ác ý. Ông ta ngắm nghía những hình ảnh đỏ như máu trên tấm rèm ánh sáng như thể đang chờ đợi điều gì.
“Est-il allé?” ông ta hỏi, và vốn liếng tiếng Pháp được học ở trường phổ thông làm tôi tin rằng câu đó có nghĩa là “Ông ta đã đi chưa?”, hoặc cũng có thể là “Anh đã tôn tạo lại hòn đảo chưa?”
Tốt thôi... có lẽ đây là việc đầu tiên.
Trong giây lát tôi sợ rằng ông ta đang nói với tôi. Thế rồi từ phía sau ngai vàng, một giọng nói the thé trả lời. “Đã, thưa đức ông.”
Một người đàn ông bước ra khỏi bóng tối. Ông ta mặc bộ đồ toàn màu trắng – quần áo, khăn quàng cổ, thậm chí cả cặp kính râm phản chiếu màu trắng. Ý nghĩa đầu tiên của tôi là: Lạy chúa, ông ta là người bán kem độc ác.
Ông ta có nụ cười dễ chịu và khuôn mặt béo phệ với mái tốc xoăn màu xám. Tôi đã có thể nhầm tưởng rằng ông ta vô hại, thậm chí là thân thiện – cho tới khi ông ta bỏ kính ra.
Mắt của ông ta đã bị hủy hoại.
Tôi phải thừa nhận là mình khá nhạy cảm về chuyện mắt. Một đoạn phim giải phẫu võng mạc mắt ư? Tôi sẽ bỏ chạy ra khỏi phòng. Thậm chí ý nghĩ về kính áp tròng cũng làm tôi rúm lại.
Nhưng trông như thể cặp mắt của người đàn ông trong bộ đồ trắng đã bị tạt acid, sau đó thì bị vuốt mèo cào liên tiếp. Mí mắt của ông ta chằng chịt sẹo nên không thể nhắm khít lại được. Lông mày của ông ta bị cháy rụi và bị cào thành những rãnh sâu. Da bên trên gò má của ông ta là một thứ mặt nạ đỏ vằn vện, và đôi mắt là sự kết hợp kinh hoàng giữa màu đỏ máu và màu trắng sữa khiên tôi không thể tin là ông ta có thể nhìn được.
Ông ta hít vào, tiếng thở khò khè của ông ta khiến tôi đau ngực. Lấp lánh trên chiếc áo sơ mi của ông ta là mặt dây chuyền bạc với bùa hộ mạng hình con rắn.
“Ông ta vừa sử dụng cái cổng này, thưa đức ông.” Ông ta nói the thé. “Cuối cùng ông ta đã đi.”
Giọng nói cũng kinh khủng như cặp mắt của ông ta. Nếu như ông ta đã bị tạt acid, thì một ít acid hẳn đã chui vào phổi của ông ta. Thế nhưng người đàn ông vẫn mỉm cười, trông điềm tĩnh và hạnh phúc trong bộ đồ trắng tinh tươm như thể ông ta đang nóng lòng muốn bán kem cho những đứa trẻ ngoan.
Ông ta tiến lại gần Desjardins, người vẫn đang nhìn chăm chú vào bức rèm ánh sáng. Người đàn ông bán kem nhìn theo ánh mắt của ông ta. Tôi cũng làm vậy và nhận ra Đại Pháp Sư đang nhìn cái gì. Ở chiếc cột cuối cùng, sát ngay ngai vang, ánh sáng đang thay đổi. Sắc đỏ của thời hiện đại đang thâm lại thành màu tím. Lần đầu đến thăm Hành Lang Thời Đại, tôi được nghe kể rằng hành lang này cứ dài ra theo năm tháng, và bây giờ tôi có thể thực sự chứng kiến điều đó diễn ra. Trần và các bức tường gợn sóng như ảo ảnh, lan tỏa chậm rãi và những mảng ánh sáng tím phình ra.
“A,” người đàn ông bán kém nói. “Bây giờ trông rõ hơn nhiều.”
“Một thời đại mới,” Desjardins thì thào. “Một thời đại tối tăm hơn. Sắc màu của ánh sáng đã không thay đổi trong một nghìn năm qua, Vladimir.”
Người đàn ông bán kem độc ác tên là Vladimir ư? Được.
“Dĩ nhiên, đó là gia tộc nhà Kane,” Vladimir nói. “Lẽ ra đức ông nên giết tên nhiều tuổi hơn khi ông ta còn ở trong tay chúng ta.”
Bộ lông ba của tôi xù lên. Tôi nhận thấy ông ta đang nói về chú Amos.
“Không,” Desjardins nói. “Ông ta đã được chúng ta bảo vệ. Tất cả những người tìm kiếm nơi chữa trị phải được cho một chỗ trú ẩn, kể cả nhà Kane.”
Vladimir hít một hơi thở sâu, nghe như tiếng máy hút bụi bị tắc. “Nhưng chắc chắn lúc này khi ông ta đã đi, chúng ta phải hành động. Ngài đã nghe tin tức từ Brooklyn đấy, thưa đức ông. Bọn trẻ đã tìm thấy cuộn giấy phép thuật thứ nhất. Nếu chúng tìm thấy hai cuộc khác -”
“Ta biết, Vladimir.”
“Chúng đã làm bẽ mặt Ngôi Nhà Sự Sống ở Arizona. Chúng làm lành với Set thay vì tiêu diệt ông ta. Và bây giờ chúng tìm Cuốn Sách của Ra. Nếu như ngài cho phép thần xử lý chúng -”
Đỉnh cây gậy của Desjardins phụt ra lửa màu tím. “Ai là Đại Pháp Sư?” ông ta hỏi.
Nét mặt dễ chịu của Vladimir biến mất. “Là ngài, thưa đức ông.”
“Và ta sẽ xử lý gia đình nhà Kane khi đến lúc, nhưng Apophis là mối đe dọa lớn nhất của chúng ta. Chúng ta phải hướng toàn bộ sức mạnh vào việc ngăn cản Rắn. Nếu như có bất cứ cơ hội nào để nhà Kane có thể giúp chúng ta lập lại trật tự -”
“Nhưng, Đại Pháp Sư,” Vladimir ngắt lời. Giọng ông ta mãnh liệt hơn, gần như có một ma lực trong đó. “Gia đình nhà Kane là một phần của vấn đề. Chúng đã làm hỏng sự cân bằng của Ma’at [7] khi đánh thức các vị thần. Chúng đang dạy phép thuật bị cấm. Giờ đây chúng có thể khôi phục thần Ra, người chưa từng thống trị kể từ thời kỳ Ai Cập! Chúng sẽ đẩy thế giới vào Sự Hỗ Mang.”
[7] Khái niệm Ai Cập cổ đại về sự cân bằng, sự thật, trật tự và luật lệ. Được thể hiện dưới dạng một nữ thần.
Desjardins chớp mắt, như thể ông ta bổi rối. “Có lẽ ngươi đúng. Ta... ta phải suy nghĩ về điều này.”
Vladimir cúi mình. “Như ý ngài, thưa đức ông. Thần sẽ tập hợp sức mạnh của chúng ta và chờ mệnh lệnh phá hủy Nhà Brooklyn của ngài.”
“Phá hủy...” Desjardin cau mày. “Đúng, ngươi sẽ phải đợi mệnh lệnh của ta. Ta sẽ chọn thời điểm tấn công, Vladimir.”
“Hay quá, thưa đức ông. Và nếu lũ trẻ nhà Kane tìm hai cuộn giấy phép thuật khác để đánh thức thần Ra? Một cuộn sẽ nằm ngoài khả năng của chúng, dĩ nhiên, nhưng còn cuộn kia -”
“Ta sẽ dành việc đó cho ngươi. Hãy bảo vệ nó theo cách tốt nhất.”
Cặp mắt của Vladimir thậm chí trông ghê rợn hơn khi ông ta phấn khích – nhầy nhụa và lóe lên phía sau mí mắt bị tàn phá. Chúng là tôi nhớ lại bữa ăn sáng ưa thích của ông nội: trứng luộc chín tới với nước sốt Tabasco.
[Ồ, em xin lỗi nếu anh thấy kinh, Carter. Dù sao thì anh cũng không nên ăn trong khi em đang kể chuyện! ]
“Đức ông thật sáng suốt,” Vladimir nói. “Lũ trẻ sẽ tìm kiếm các cuộn giấy phép thuật, thưa đức ông. Chúng không có lựa chọn. Nếu chúng rời pháo đài của mình và tiến vào lãnh địa của thần -”
“Chẳng phải ta vừa bảo chúng ta sẽ định đoạt số phận của chúng sao?” Desjardins lạnh lùng. “Giờ hãy để mặc ta. Ta cần nghỉ.”
Vladimir rút vào bóng tối. So với một người mặc bộ đồ trắng, ông ta biến mất khá tài tình.
Desjardins chuyển sự chú ý của mình vào bức rèm ánh sáng mờ ảo. “Một thời đại mới...” ông ta trầm ngâm. “Thời đại của bóng tối...”
Ba của tôi hòa mình vào những dòng chảy của Duat, vội vã trở lại hình hài đang ngủ của tôi.
“Sadie?” một giọng nói cất lên.
Tôi ngồi dậy trên giường, tim đập thình thịch. Ánh sáng xám xịt buổi sáng ùa qua các cửa sổ. Ngồi ở cuối giường của tôi là...
“Chú Amos?” tôi lắp bắp.
Chú mỉm cười. “Chúc mừng sinh nhật, cháu yêu. Chú xin lỗi nếu đã làm cháu sợ. Cháu đã không mở cửa. Chú đâm lo.”
Có vẻ như chú ấy đã hồi phục hoàn toàn sức khỏe và ăn diện hợp mốt như thường lệ. Chú đeo chiếc kính gọng kim loại, đội mũ phớt và diện bộ comle bằng vải len Y khiến chú ấy trông đỡ lùn và đỡ béo hơn. Mái tóc dài của chú ấy được tết kiểu châu Phi và được trang trí bằng các miếng đá đen sáng lấp lánh – đá thủy tinh núi lửa, có lẽ. Chú ấy trông vừa như thể một nghệ sĩ nhạc jazz (thì chú ấy vốn là thế mà) hoặc một Al Capone [8] người Mỹ gốc Phi (chú ấy đâu phải loại người đó).
[8] Nhân vật xã hội đen nổi tiếng người Mỹ
Tôi bắt đầu hỏi, “Thế nào mà -?” Thế rồi cảnh mộng ở Hành Lang Thời Đại – liên tưởng những gì tôi đã thấy – hiện ra.
“Ổn cả mà,” chú Amos nói. “Chú vừa từ Ai Cập trở về.”
Tôi cố nuốt, hơi thở của tôi cũng gần nặng nhọc như của người đàn ông ghê tởm tên là Vladimir kia. “Cháu cũng thế, chú Amos. Và không ổn tí nào đâu. Chúng đang đến để tiêu diệt chúng ta.”
Biên Niên Sử Nhà Kane 2 - Ngai Vàng Lửa Biên Niên Sử Nhà Kane 2 - Ngai Vàng Lửa - Rick Riordan Biên Niên Sử Nhà Kane 2 - Ngai Vàng Lửa