What holy cities are to nomadic tribes - a symbol of race and a bond of union - great books are to the wandering souls of men: they are the Meccas of the mind.

G.E. Woodberry

 
 
 
 
 
Tác giả: Haruki Murakami
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: ねじまき鳥クロニクル Nejimaki-dori Kuronikuru - The Wind-Up Bird Chronicle
Biên tập: Gió
Upload bìa: Nhật Trường
Số chương: 69
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 16175 / 1123
Cập nhật: 2018-03-18 01:34:56 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 16 - Điều Đơn Giản Nhất ♦ Trả Thù Dưới Dạng Tinh Vi ♦ Vật Trong Thùng Đàn Ghita
gày hôm sau tôi gọi điện thoại cho ông cậu, báo cho ông biết trong vài tuần tới tôi sẽ dọn đi. Tôi xin lỗi đã nói chuyện này với ông đột ngột như vậy, nhưng giải thích ấy là vì Kumiko đã bỏ tôi mà đi cũng đột ngột như thế. Chẳng việc gì phải giấu giếm nữa. Tôi bảo ông cậu rằng nàng đã viết thư nói nàng sẽ không về nữa, và tôi muốn đi khỏi nơi này ngay lập tức, dẫu rằng đi bao lâu tôi cũng chưa biết. Nghe xong bài giải thích đơn sơ của tôi, cậu tôi im lặng một hồi ở đầu dây bên kia. Hình như ông đang ngẫm nghĩ điều gì đó. Rồi ông nói: - Ít lâu nữa cậu đến chơi được không? Cậu muốn tận mắt thấy đang có chuyện gì. Mà cũng đã lâu rồi cậu chưa về lại nhà đó.
o O o
Hai hôm sau cậu tôi đến vào buổi tối. Ông nhìn vết bầm trên má tôi nhưng không nói gì. Có lẽ ông chẳng biết nói gì. Ông nheo mắt nhìn có vẻ hiếu kỳ, chỉ có thế. Ông mang đến cho tôi một chai Scotch và một gói bánh bột tôm mua ở Odawara. Chúng tôi ngồi ngoài hiên, vừa ăn bánh vừa uống rượu.
- Lại về ngồi trên hàng hiên này thật thích quá, - cậu tôi nói, đầu gật gật mấy lần. - Khu nhà cậu ở hiện giờ không có hàng hiên, dĩ nhiên rồi. Nhiều khi cậu thật tình nhớ cái nhà này. Ngồi ngoài hiên này mình có một cảm giác đặc biệt mà không đâu khác có.
Ông ngồi im một hồi rồi nhìn trăng, một mảnh trăng lưỡi liềm trắng mảnh trông như ai đó vừa mài sắc xong. Một vật như thế mà có thể trôi trên bầu trời hầu như là một sự thần kỳ đối với tôi.
Thế rồi cậu tôi bỗng hỏi, vẻ như hoàn toàn vô tình:
- Sao cháu có cái vết bầm kia vậy?
- Cháu cũng chả biết nữa, - tôi nói rồi nhấp một ngụm whisky. - Tự dưng có đó. Đâu như cách đây một tuần thì phải? Giá như có thể giải thích rõ hơn thì hay biết mấy, nhưng cháu chẳng biết giải thích ra sao cả.
- Cháu đi khám bác sĩ chưa?
Tôi lắc đầu.
- Cậu chả muốn chõ mũi vào chuyện người khác làm gì đâu, nhưng cho cậu nói điều này: cháu cần phải ngồi xuống mà suy nghĩ cho tới nơi tới chốn xem điều gì là quan trọng nhất đối với cháu.
Tôi gật đầu.
- Cháu nghĩ mãi đấy chứ, - tôi nói. - Nhưng mọi chuyện phức tạp quá, cứ rối tung lên. Cháu không sao tách bạch ra từng chuyện một được. Cháu chả biết làm cách nào gỡ rối cả.
Cậu tôi mỉm cười.
- Cháu biết cậu nghĩ gì không? Theo cậu, đầu tiên cháu hãy nghĩ về những chuyện đơn giản nhất, hãy bắt đầu từ đấy. Chẳng hạn, cháu có thể đứng ở góc phố nào đó ngày này sang ngày khác mà nhìn người qua kẻ lại. Cháu chẳng việc gì phải vội quyết định điều gì cả. Có thể khó đấy, nhưng đôi khi cháu cần phải dừng lại, cứ từ từ, thong thả. Cháu phải tự rèn cho mình biết cách nhìn sự vật bằng chính mắt mình, cho đến khi một cái gì đó trở nên rõ ràng. Đã muốn vậy thì đừng sợ mất thời gian. Một khi ta không tiếc thời gian vào một cái gì, ấy có thể là hình thức trả thù tinh vi nhất đó.
- "Trả thù"?! Ý cậu là thế nào? "Trả thù"? Trả thù ai?
- Rồi cháu sẽ hiểu thôi, không lâu nữa đâu, - cậu tôi mỉm cười đáp.
o O o
Nói xong, chúng tôi vẫn ngồi uống rượu ngoài hiên thêm hơn một tiếng đồng hồ. Rồi cậu tôi nói ông đã nán lại quá lâu, bèn đứng dậy ra về. Còn lại một mình, tôi ngồi ngoài hiên, tựa vào một cây cột, nhìn đăm đăm khu vườn dưới ánh trăng. Một hồi, tôi hít thở sâu vào ngực bầu không khí thực tại hay cái gì gì đó mà cậu tôi để lại, và cảm thấy - lần đầu tiên sau một thời gian rất dài - một cảm giác thật sự là nhẹ nhõm.
Nhưng chỉ vài tiếng sau cái không khí đó lại bắt đầu tan đi, và một bức màn u uất nhợt nhạt lại bao trùm lên tôi. Rốt cuộc tôi lại ở trong thế giới của mình còn cậu tôi ở trong thế giới của ông.
o O o
Cậu tôi đã nói, trước hết tôi hãy nghĩ đến những điều đơn giản, nhưng tôi thấy không thể nào phân biệt cái gì là đơn giản cái gì là phức tạp. Thế là sáng hôm sau, khi đã hết giờ cao điểm, tôi đáp xe đến khu Shinjuku. Tôi quyết định chỉ đứng đó nhìn mặt thiên hạ. Tôi chẳng biết làm thế liệu có ích gì không, nhưng có lẽ còn hơn là chẳng làm gì. Nếu nhìn mặt thiên hạ cho tới khi phát chán lên là ví dụ tiêu biểu về một việc đơn giản thì thử một lần cũng chẳng hại gì. Còn nếu làm vậy mà có tác dụng thì hẳn nó sẽ chỉ tôi biết thế nào là những điều "đơn giản" đối với tôi.
Ngày đầu tiên tôi ngồi suốt hai tiếng đồng hồ trên bức tường thấp bằng gạch dọc mép bồn hoa bên ngoài ga Shinjuku mà nhìn mặt những người qua lại. Nhưng người quá đông mà lại đi quá nhanh nên tôi không thể nhìn kỹ mặt người nào được. Đã vậy, tôi ngồi đó được một hồi thì vài gã vô gia cư lại gần kiếm cớ cà khịa. Chốc chốc lại có một tay cảnh sát đi qua nhìn nhìn tôi. Thế nên tôi đành bỏ khu đông người ngoài nhà ga và quyết định tìm một chỗ thích hợp hơn sao cho có thể thong dong khảo sát người qua kẻ lại.
Tôi đi dọc theo lối bộ hành bên dưới các tuyến đường ray khu phía Tây nhà ga, loanh quanh một hồi thì gặp một quảng trường nhỏ lát đá bên ngoài một tòa nhà cao tầng lắp kính. Nó có một bức tượng nhỏ và vài băng ghế xinh xinh nơi tôi có thể ngồi ngắm thiên hạ bao nhiêu tùy thích. Số người đi qua đây chẳng hề nhiều như ngoài cửa chính nhà ga, cũng không có gã vô gia cư nào với chai rượu nhét trong túi áo. Tôi ngồi đó suốt ngày, buổi trưa ăn quấy quá vài cái bánh vòng và uống cà phê ở quán Dunkin's Donuts rồi về nhà trước khi đến giờ cao điểm chiều.
Thoạt tiên những người duy nhất đập vào mắt tôi là những người đàn ông hói, nhờ tôi đã được tập huấn khi cùng Kasahara May làm điều tra cho hãng tóc giả. Hễ gặp một mái đầu hói là cái nhìn của tôi bất giác dán vào ngay và tôi hầu như vô thức phân loại y ra thành A, B hay C. Cứ kiểu này thì chắc tôi có thể gọi Kasahara May để tình nguyện đi làm điều tra với cô lần nữa.
Tuy nhiên, chỉ sau mấy ngày là tôi đã có thể chỉ ngồi quan sát khuôn mặt thiên hạ mà trong đầu chẳng nghĩ gì. Hầu hết những người đi qua đều là nam nữ công nhân viên làm việc ở các văn phòng trong tòa nhà cao tầng đó. Đàn ông mặc áo sơ-mi trắng, thắt cà vạt, tay xách cặp, đàn bà thì hầu hết mang giày cao gót. Ngoài ra tôi còn thấy chủ các nhà hàng cửa hiệu bên trong tòa nhà, những gia đình kéo cả bầu đoàn đi lên đài quan sát trên tầng thượng, vài ba người thì chỉ đi ngang, từ điểm A đến điểm B. Hầu hết mọi người có xu hướng không đi quá nhanh. Tôi chỉ việc quan sát tất cả, không có mục đích gì rõ rệt. Thi thoảng có đôi người thu hút sự chú ý của tôi vì lý do nào đó, nhưng rồi tôi lại tập trung vào những khuôn mặt khác và đưa mắt nhìn theo.
Ngày nào tôi cũng đáp xe đến Shinjuku lúc 10 giờ sáng, sau giờ cao điểm, ngồi ở băng ghế trên quảng trường, ngồi đó hầu như không động đậy đến 4 giờ chiều, chỉ nhìn mặt thiên hạ. Chỉ khi đã thử làm việc đó tôi mới nhận ra rằng bằng cách luyện cho mắt mình nhìn hết khuôn mặt này đến khuôn mặt khác đi qua, tôi có thể làm cho đầu óc hoàn toàn trống rỗng, như là lôi cái nút chai ra khỏi chai vậy. Tôi chẳng trò chuyện với ai, cũng chẳng ai trò chuyện với tôi. Tôi chẳng nghĩ gì, chẳng cảm gì. Tôi thường có cảm giác mình đã trở thành một phần của băng ghế đá kia.
Tuy nhiên, có lần cũng có người nói chuyện với tôi - một người đàn bà trung niên mảnh dẻ ăn mặc tươm tất. Bà ta vận áo váy màu hồng tươi bó sát người, đeo kính râm sẫm màu gọng đồi mồi, đội mũ trắng, mang xắc tay bằng vải lưới màu trắng. Bà có đôi chân đẹp, mang đôi xăng-đan trắng sạch như lau như li thoạt nhìn đã biết là đắt tiền. Bà trang điểm đậm nhưng có chừng mực. Bà hỏi tôi liệu có đang gặp khó khăn gì không. Chẳng có gì cả, tôi đáp. Hình như ngày nào tôi cũng gặp anh ở đây, bà ta nói, rồi hỏi tôi đang làm gì vậy. Tôi bảo tôi nhìn mặt thiên hạ. Bà ta hỏi tôi làm vậy có mục đích gì không, tôi bảo là không.
Bà ngồi xuống cạnh tôi, rút trong xắc tay ra một gói Virgina Slims rồi mồi một điếu bằng chiếc bật lửa nhỏ bằng vàng. Bà mời tôi một điếu, nhưng tôi lắc đầu. Đoạn bà gỡ kính rồi chẳng nói chẳng rằng nhìn chằm chằm vào mặt tôi. Chính xác hơn, bà nhìn chằm chằm vào vết bầm trên má tôi. Đáp lại, tôi cũng nhìn chằm chằm vào mắt bà. Nhưng tôi không đọc được cảm xúc nào ở đó. Tôi chẳng thấy gì hơn ngoài hai con ngươi đen dường như đang vận hành đúng như chúng phải vận hành. Bà có cái mũi nhỏ, nhọn. Môi bà mỏng, màu son tô cực cẩn thận. Thoạt nhìn bà trẻ hơn tuổi, nhưng các nếp nhăn dọc hai bên sống mũi có cái vẻ mệt mỏi đặc biệt sao đó.
- Cậu có tiền không? - bà ta hỏi.
Tôi đâm ra cảnh giác.
- Tiền á? Bà hỏi tôi có tiền không là có ý gì?
- Tôi chỉ hỏi cậu có tiền hay không thôi? Cậu có đang kẹt tiền không?
- Không. Hiện giờ tôi đang không kẹt tiền, - tôi nói.
Bà ta hơi dẩu môi qua một bên như để nếm thử điều tôi vừa nói, rồi tiếp tục tập trung chú ý nhìn chăm chăm vào tôi. Đoạn bà ta gật đầu. Rồi bà lại đeo kính vào, thả điếu thuốc xuống đất, duyên dáng đứng dậy bỏ đi, không hề nhìn về phía tôi. Tôi sửng sốt nhìn bà ta biến mất vào đám đông. Có lẽ bà ta hơi dở người chăng. Nhưng chuyện đó cũng khó tin, bà ta phục sức không chê vào đâu được như thế kia mà. Tôi giậm chân lên điếu thuốc bà ta vừa bỏ, dụi cho nó tắt, rồi chầm chậm nhìn quanh bốn phía. Quanh tôi lại vẫn là thế giới thực tại thông thường. Thiên hạ vẫn đang di chuyển từ chỗ nọ đến chỗ kia, mỗi người có mục đích riêng. Tôi không biết họ là ai, họ cũng chả biết tôi là ai. Tôi hít một hơi dài rồi trở lại nhiệm vụ nhìn vào khuôn mặt những người đó, đầu chẳng nghĩ ngợi gì.
Tôi vẫn ngồi như thế suốt mười một ngày sau đó. Ngày nào cũng vậy, tôi ăn bánh vòng, uống cà phê rồi chẳng làm gì khác ngoài nhìn mặt những người qua lại. Ngoại trừ mẩu đối thoại vô nghĩa với người đàn bà ăn mặc đẹp đã lại gần tôi kia, tôi không nói chuyện với bất cứ ai trong suốt mười một ngày đó. Tôi chẳng làm gì đặc biệt, cũng chẳng có việc gì đặc biệt xảy ra với tôi. Tuy nhiên, ngay cả sau cái khoảng chân không mười một ngày đó, tôi vẫn không rút ra được kết luận nào cả. Tôi vẫn lạc trong một mê cung rối bời bời, không giải quyết nổi ngay cả vấn đề đơn giản nhất.
Nhưng đến chiều ngày thứ mười một thì một chuyện rất lạ lùng xảy ra. Hôm đó là Chủ nhật, nên tôi nán lại đó để ngắm khuôn mặt mọi người lâu hơn mọi khi. Những người đến khu Shinjuku vào ngày Chủ nhật khác với đám đông lui tới nơi này vào ngày thường, cũng không phải giờ cao điểm. Tôi nhìn thấy một gã thanh niên mang chiếc hộp đàn ghita màu đem. Vóc người y trung bình. Y đeo kính gọng nhựa màu đen, tóc dài tới vai, mặc áo khoác vải thô và quần jean màu xanh dương, lê đôi giày thể thao cũ rích. Y đi ngang qua tôi, mắt nhìn thẳng ra phía trước lộ vẻ ưu tư. Khi nhìn thấy y, một cái gì đó khiến tôi ngẩn ra. Tim tôi giật thót lên. Mình biết kẻ này, tôi nghĩ. Tôi đã gặp y ở đâu đó rồi. Nhưng phải mất mấy giây tôi mới nhớ ra y là ai - tay ca sĩ tôi đã gặp đêm hôm đó trong quán bar ở Sapporo. Không nghi ngờ gì nữa: chính y.
Tôi bật dậy khỏi ghế, lật đật đuổi theo y. Vì y chỉ đi thủng thỉnh nên tôi đuổi kịp y chẳng khó gì. Tôi theo sau y khoảng mười bước, vừa đi vừa điều chỉnh nhịp bước của mình cho khớp với của y. Tôi cân nhắc xem có thể nói với y những gì. Tôi có thể nói chẳng hạn như: "Ba năm trước anh có hát ở Sapporo phải không? Tôi có nghe anh hát ở đó". "Ồ, thế à?" y sẽ nói. "Cám ơn ông nhiều lắm". Rồi sao nữa? Liệu tôi có nên nói: "Tối hôm đó vợ tôi đi phá thai. Và cô ấy đã bỏ tôi mới đây không lâu. Cô ấy đã ngủ với người khác"? Tôi quyết định chỉ theo y để xem chuyện gì sẽ xảy ra. Có thể trong khi đi tôi sẽ nghĩ ra cách gì đó đặng tùy cơ ứng biến.
Y đang rời khỏi nhà ga. Y đi ngang qua một dãy nhà cao tầng, băng qua Xa lộ Ome rồi hướng về phía Yoyogi. Y có vẻ đang đắm mình suy nghĩ. Rõ là thông thuộc khu này như lòng bàn tay, y không một lần nào do dự hay nhìn quanh. Y luôn bước đều nhịp, mắt hướng thẳng về phía trước. Tôi theo sau y mà nghĩ về cái ngày Kumiko đi phá thai. Sapporo vào đầu tháng Ba. Đất lạnh cứng, thi thoảng vài bông tuyết rơi xuống. Tôi lại quay lại những con phố đó, phổi tôi đầy khí lạnh. Tôi thấy hơi thở trắng tỏa ra từ miệng mọi người.
Thế rồi tôi bỗng ngộ ra: rằng chính lúc đó mọi việc đã thay đổi. Phải, chắc chắn vậy. Đó chính là bước ngoặt. Từ đó trở đi, dòng chảy quanh tôi đã bắt đầu tỏ dấu hiệu thay đổi. Giờ đây nghĩ lại, tôi mới nhận ra rằng việc phá thai đó đã là một sự kiện hệ trọng đối với hai chúng tôi. Tuy nhiên, tại thời điểm đó tôi đã không hiểu được tầm quan trọng đích thực của nó. Tôi đã quá bối rối bởi bản thân hành động phá thai, trong khi điều thực sự hệ trọng có thể là một cái gì đó hoàn toàn khác.
Em phải làm chuyện đó, nàng đã nói. Em cảm thấy mình làm vậy là đúng, rằng làm vậy là tốt nhất cho cả hai ta. Nhưng còn một cái gì khác nữa, cái gì đó mà anh không biết, cái gì đó mà em chưa thể nói thành lời. Em không giấu anh điều gì cả. Em chỉ không biết chắc liệu đó có phải là một cái gì có thực không. Chính vì vậy em chưa thể nói thành lời được.
Hồi ấy nàng không biết đó có phải là một cái gì có thực hay không. Và một cái gì ấy, không nghi ngờ gì nữa, có liên quan với việc mang thai hơn là với việc phá thai. Có thể nó có gì đó liên quan đến đứa trẻ trong bụng nàng. Nó có thể là cái gì? Cái gì đã khiến nàng hoang mang đến vậy? Phải chăng nàng có quan hệ với người đàn ông khác nên từ chối cho đứa bé ra đời? Không, không thể có chuyện ấy được. Chính nàng đã tuyên bố là không thể có chuyện ấy. Nó là con tôi, điều đó chắc chắn. Thế nhưng, vẫn có cái gì đó nàng không thể nói với tôi. Và chính một cái gì ấy có liên quan mật thiết đến việc nàng quyết định bỏ tôi. Mọi chuyện đều bắt đầu từ đó.
Nhưng bí mật đó là gì, cái gì bị che giấu ở đó, tôi hoàn toàn không biết. Tôi là kẻ duy nhất bị bỏ rơi, một mình trơ trọi trong bóng tối. Tôi chỉ biết chắc mỗi một điều là chừng nào tôi chưa giải được bí mật của một cái gì kia thì Kumiko sẽ không bao giờ trở lại với tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy một nỗi căm giậm câm lặng dâng lên trong tôi, căm giận cái gì đó vẫn đang vô hình đối với tôi. Tôi vươn thẳng lưng, hít một hơi dài, cố trấn an nhịp tim đập thình thịch. Nhưng dù có vậy, nỗi căm giận, giống như nước, vẫn thẩm thấu vào từng ngóc ngách thân thể tôi. Đó là một cơn giận chìm trong u buồn. Tôi không có cách nào quật nó vào một cái gì cho nó vỡ tan ra, không thể làm gì để xua nó đi được.
o O o
Gã đàn ông vẫn đi bằng nhịp chân đều đều. Y băng qua những đường ray của tuyến xe điện Odakyu, đi qua một dãy cửa hiệu, qua một đền thờ, qua một mê cung nhiều con ngõ. Tôi theo sau y, cố giữ một khoảng cách sao cho y không phát hiện ra tôi. Và rõ là y không phát hiện ra tôi. Y không một lần quay lại. Ở gã đàn ông này rõ ràng có cái gì đó khác người thường. Y không chỉ chẳng hề quay lại mà cũng chẳng bao giờ nhìn sang hai bên. Y quá đỗi tập trung; y đang nghĩ gì vậy? Hay đúng hơn, y hầu như không nghĩ về bất cứ cái gì?
Chẳng mấy chốc gã đàn ông bước vào một khu tĩnh mịch, phố xá vắng tanh hai bên là những dãy nhà hai tầng có khung bằng gỗ. Đường đi nhỏ hẹp, ngoằn ngoèo, len giữa hai dãy những căn nhà xập xệ chen chúc chụm vào nhau. Ở đây vắng người đến kỳ lạ. Hơn một nửa những căn nhà này không có người. Có những thanh ván nẹp ngang qua cửa chính những căn nhà không người ở, bên ngoài dán những lá đơn xin phép quy hoạch. Đây đó, như những chiếc răng bị khuyết, có những lô đất trống mọc tràn cỏ dại mùa hè, xung quanh rào lưới mắt cáo. Hẳn là có một kế hoạch giải tỏa toàn bộ khu này trong thời gian sắp tới để xây dựng vào tòa nhà cao tầng mới. Những chậu bìm bìm cùng mấy loài hoa khác xúm xít trong khoanh đất bé xíu đằng trước dăm căn nhà ít ỏi còn người ở. Bên cạnh khoảnh đất đó một chiếc xe đạp ba bánh nằm lăn lóc, một chiếc khăn tắm và một bộ đồ tắm trẻ con phơi trên cửa sổ tầng hai. Mèo nằm nhan nhản khắp nơi, dưới cửa sổ, nơi ngưỡng cửa các nhà, chúng theo dõi tôi bằng cái nhìn uể oải. Tuy chỉ mới xế chiều nhưng khu này không một bóng người. Địa thế của nơi này làm tôi bối rối. Tôi không biết đây là phía Bắc hay phía Nam. Tôi đoán chừng đây là một vùng tam giác nằm giữa Yoyogi, Sendagaya va Harajuku, nhưng không chắc lắm.
Dù thế nào đi nữa, đây là một khu vực bị lãng quên của thành phố. Hẳn là người ta đã quên bẵng nó bởi đường sá ở đây quá hẹp nên ôtô khó lòng qua được. Bàn tay các nhà thầu xây dựng chưa vươn tới đây. Bước chân tới chốn này, tôi có cảm giác như thời gian đã quay lại hai mươi, ba mươi năm về trước. Tôi nhận ra rằng đến một lúc nào đó, tiếng gầm gào triền miên của động cơ ôtô đã bị nuốt chửng, lúc này thì đã hoàn toàn biến mất. Xách chiếc hộp đàn ghita, gã đàn ông len lỏi qua mê cung những con phố cho tới khi đến một căn nhà khung gỗ gồm nhiều căn hộ cho thuê. Y mở cửa, bước vào rồi đóng cửa lại sau lưng mình. Theo như tôi thấy thì cửa không khóa.
Tôi đứng đó một lát. Kim đồng hồ của tôi chỉ 6 giờ 20. Tôi tựa lưng vào hàng rào mắt cáo của lô đất trống bên kia đường mà quan sát căn nhà. Nó là một căn nhà chuyên cho thuê điển hình, có hai tầng, khung bằng gỗ. Nhìn cửa ra vào và cách bố trí các phòng là thấy ngay. Hồi còn sinh viên tôi từng sống trong một căn nhà như thế này. Nơi tiền sảnh có một cái tủ đựng giày, một toilet dùng chung, một gian bếp nhỏ, chỉ có sinh viên và những người đi làm độc thân mới sống ở đó. Tuy nhiên, căn nhà này lại chẳng có vẻ gì là có người ở. Không âm thanh, không động tĩnh. Trên cánh cửa bọc nhựa không có tấm bảng tên người nào. Trước kia thì có bảng tên nhưng ai đó đã bóc đi, chỉ còn trơ lại một khoảng trống dài, hẹp. Mọi cửa sổ đều đóng im ỉm, rèm che kín mít, dù cái nóng cuối buổi chiều vẫn chưa dứt.
Căn nhà cho thuê này, cũng như các căn nhà kế cận, hẳn nằm trong kế hoạch giải tỏa, nên không còn ai sinh sống nữa. Nhưng nếu đúng vậy thì gã đàn ông ôm hộp đàn ghita làm gì ở đây? Tôi đã có ý chờ xem sau khi y vào thì có cánh cửa sổ nào mở ra không, nhưng chẳng có động tĩnh gì.
Tôi không thể cứ quanh quẩn ở cái phố hẹp vắng tanh này mãi. Tôi liền đi đến chỗ cửa chính căn nhà, đẩy thử. Tôi đã đoán đúng: cửa không khóa, mở vào trong dễ dàng. Tôi đứng nơi ngưỡng cửa một lát, cố gắng có một cảm nhận về nơi này, nhưng hầu như không nhìn rõ được gì trong cảnh tranh tối tranh sáng. Mọi cửa sổ đều đóng kín mít, không khí trong nhà nồng nực, tù hãm. Cái mùi ẩm mốc làm tôi nhớ tới các mùi dưới đáy giếng. Nách tôi vã mồ hôi trong cái nóng. Môt giọt mồ hôi chảy xuống phía sau vai tôi. Sau một thoáng do dự, tôi bước vào rồi nhẹ nhàng đóng cửa lại đằng sau. Tôi đã nghĩ đến chuyện xem thử có tên người nào dám trên thùng thư hay tủ đựng giày để biết liệu có ai vẫn đang sống ở đây chăng, nhưng chưa làm vậy thì tôi đã nhận ra rằng có ai đó ở trong nhà. Có ai đó đang quan sát tôi.
Bên phải lối vào có cái gì đó cao cao giống như tủ giày, và ai đó kia đang đứng ngay phía sau nó, như đang ẩn nấp. Tôi nín thở nhìn chòng chọc vào cái hơi ấm tranh tối tranh sáng kia. Người đứng đó là gã trai mang hộp đàn ghita. Rõ ràng là ngay sau khi vào phòng y đã núp sau tủ giày. Y làm gì ở đây? Đợi tôi chăng? "Chào đằng ấy", tôi cố buộc mình lên tiếng. "Tôi đang muốn hỏi anh..."
Nhưng mấy chữ ấy vừa buột khỏi mồm tôi thì một cái gì đó đã quật mạnh vào vai tôi. Rất mạnh. Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra. Trong khoảnh khắc đó điều duy nhất tôi cảm thấy lực đánh mạnh đến tối tăm mặt mũi. Tôi đứng đực ra đó, hoang mang. Nhưng ngay một giây sau đó tôi hiểu điều gì đang diễn ra. Nhanh như khỉ, gã đàn ông đã nhảy phóc ra từ sau chiếc tủ giày mà đánh tôi bằng một cây gậy bóng chày. Trong khi tôi đang đứng đó choáng váng, y lại vung gậy lên giáng vào tôi. Tôi cố tránh nhưng không kịp. Lần này gậy đập vào tay trái tôi. Trong một khoảnh khắc, tay mất hết cảm giác. Không đau đớn, không gì cả. Cứ như toàn bộ cánh tay đã tan biến vào không trung vậy.
Tuy nhiên, chưa kịp nghĩ gì thì tôi đã tung chân đá hắn, như một phản xạ có điều kiện. Tôi chưa bao giờ theo học khóa võ thuật chính quy nào, nhưng một thằng bạn tôi hồi trung học biết karate đến đẳng gì đấy đã dạy tôi những đòn cơ bản. Hết ngày này sang ngày khác, cậu ta dạy tôi những đòn đá - chẳng cầu kỳ gì cả, chỉ là tập đá sao cho càng mạnh, càng cao, càng thẳng chân càng tốt. Đây là thứ hữu ích duy nhất cần biết trong những tình huống nước sôi lửa bỏng, cậu ta bảo. Cậu ta có lý lắm. Gã đàn ông đang mải mê vung gậy nên không hề ngờ trước rằng y có thể sẽ bị đá. Tôi cũng đang hoảng loạn như y nên không hề nghĩ xem mình đã vào đâu, cú đã cũng chẳng lấy gì làm mạnh, nhưng hình như cú sốc nó gây ra cũng đủ cho gã kia tắt điện. Y không vung gậy nữa, và như thể đúng khoảnh khắc đó thời gian dừng lại, y nhìn trân trân vào tôi bằng cặp mắt trống rỗng. Chộp lấy cơ hội, tôi bồi thêm một cú đá mạnh hơn, chính xác hơn vào bụng dưới y, và khi y gập người lại vì đau, tôi giằng cây gậy khỏi tay y. Rồi tôi đá mạnh vào mạng sườn y. Y cố túm chân tôi, thế là tôi lại đá y. Rồi lại đá nữa, cũng vào chỗ đó. Đoạn tôi vung gậy phang thẳng cánh vào đùi y. Y rống lên một tiếng đùng đục rồi đổ vật xuống sàn nhà.
Ban đầu tôi đá và đánh y hoàn toàn là do khiếp sợ, đánh để chính mình không bị đánh. Nhưng khi y đã ngã xuống sàn, tôi nhận thấy nỗi khiếp sợ của tôi đã chuyển thành giận dữ, thực sự là giận dữ. Giận dữ vẫn còn nguyên đó, nỗi giận dữ lặng lẽ vốn đã tràng dâng trong thân thể tôi trước đó, khi tôi vừa đi vừa nghĩ đến Kumiko. Giờ đây được tuôn ra, nó bùng lên không sao kìm chế được thành cái gì đó gần như là nỗi căm hận dữ dội. Tôi lại vung gậy quật vào đùi gã đàn ông. Y rớt dãi nơi khóe miệng. Vai và tay trái tôi, chỗ bị y đánh ban nãy, bắt đầu đau nhói. Cái đau càng khiến tôi điên tiết. Mặt gã đàn ông méo xệch vì đau, nhưng y vẫn cố gượng dậy khỏi sàn. Tôi không điều khiển được tay trái, thế nên tôi quẳng gậy xuống đất mà giẫm lên người y, giã túi bụi vào mặt y bằng tay phải. Tôi nện liên hồi kỳ trận. Tôi nện cho đến khi mấy ngón tay phải tôi tê dại rồi trở nên đau nhói. Tôi muốn dần y cho đến khi bất tỉnh mới nghe. Tôi túm cổ y, dập đầu y xuống sàn nhà bằng gỗ. Chưa bao giờ trong đời tôi phải thượng cẳng chân hạ cẳng tay với ai. Tôi chưa bao giờ vận hết sức bình sinh đặng đánh kẻ nào khác. Nhưng lúc này tôi chỉ làm được mỗi một việc là đánh, đánh mãi, chừng như không sao dừng được. Trí óc bảo tôi dừng lại: thế là đủ rồi. Đánh nữa sẽ là quá tay. Gã này sẽ không dậy nổi nữa. Nhưng tôi không dừng được. Tôi nhận ra rằng lúc này có đến hai tôi. Tôi đã tách làm hai, nhưng cái tôi này không còn đủ sức ngăn cái tôi kia. Ý nghĩ đó làm tôi lạnh sống lưng.
Thế rồi tôi nhận thấy gã đàn ông đang mỉm cười. Cho dù tôi đang đánh y, y vẫn đang cười vào mặt tôi - tôi càng đánh tợn thì nụ cười càng ngoác ra, cho tới khi máu tuôn xối xả từ mũi và cặp môi nát toét của y, và tới khi y sặc vì nước dãi của chính y, thì y bật ra một tiếng cười lảnh lót, mỏng dính. Y điên rồi, tôi nghĩ. Tôi bèn ngừng đánh y mà đứng thẳng dậy.
Tôi nhìn quanh thì thấy chiếc hộp đàn ghita dựng bên hông cái tủ đựng giày. Tôi để mặc gã đàn ông nằm cười sằng sặc đó mà lại gần chiếc hộp đàn. Tôi hạ nó xuống sàn, mở khóa rồi nhấc nắp hộp lên. Bên trong chẳng có gì hết, không đàn, không nến. Gã đàn ông nhìn tôi, vừa cười vừa ho khục khặc. Tôi cảm thấy khó thở. Đột nhiên, bầu không khí oi nồng, sực hơi nước trong căn nhà này trở nên không thể chịu nổi. Mùi ẩm mốc, mồ hôi nhớp nháp của chính tôi, mùi máu và nước dãi, nỗi giận dữ và căm hận trong tôi: tất cả bỗng trở nên quá sức chịu đựng của tôi. Tôi đẩy bật cửa bước ra ngoài, khép cửa lại đằng sau. Cũng như trước, không hề có dấu vết một ai ở chốn này. Sinh vậy duy nhất là một con mèo to màu nâu đang chậm rãi băng qua lô đất trống, chẳng buồn để ý đến tôi.
Tôi muốn rời khỏi nơi này trước khi có người phát hiện ra tôi. Tôi không biết đi lối nào, nhưng tôi cứ đi, chẳng mấy chốc cũng tìm được một trạm xe buýt có biển đề "Đến ga Shinjuku". Tôi cố thở đều lại và sắp xếp cho đâu vào đấy trong đầu trước khi xe buýt đến, nhưng cả hai đều không xong - hơi thở hổn hển, trong đầu vẫn rối tung lên. "Mình chỉ muốn nhìn vào mặt thiên hạ thôi mà", tôi cứ nhắc đi nhắc lại trong đầu vậy! Tôi chỉ nhìn mặt người qua kẻ lại trên đường mà thôi, như lời cậu tôi bảo. Tôi chỉ đang cố gỡ rối những rắc rối đơn giản của đời tôi, chỉ có thế. Khi tôi lên xe buýt, hành khách quay lại nhìn tôi. Ai đấy đều tỏ vẻ kinh hoàng rồi ngoảnh đi chỗ khác. Ban đầu tôi nghĩ ấy là do vết bầm trên mặt tôi. Mãi một lúc tôi mới nhận ra đó là vì những vết máu loang lổ trên ngực áo tôi (chủ yếu là máu mũi của y) và cây gập bóng chày mà tôi vẫn đang nắm chặt trong tay.
Rốt cuộc tôi đã tha cây gậy suốt dọc đường về nhà rồi ném vào trong tủ.
Đêm đó tôi thức trắng đến tận sáng. Vai và tay trái tôi, những chỗ bị gã kia đánh bằng gậy bóng chày, giờ đây sưng vù lên, đau tê tái, còn nắm tay phải tôi vẫn còn nguyên cảm giác nện tới tấp vào gã đó, nện liên hồi kỳ trận. Tôi nhận ra rằng bàn tay vẫn nắm chặt thành quả đấm, sẵn sàng đánh. Tôi cố duỗi bàn tay ra nhưng nó không chịu nghe. Còn không ngủ được thì không hẳn vì không thể ngủ mà đúng hơn là không muốn ngủ. Nếu cứ trong tình trạng này mà ngủ, tôi sẽ chẳng có cách nào thoát khỏi mơ những giấc mơ khủng khiếp. Tôi cố trấn tĩnh, ngồi bên bàn bếp, vừa nhấp chỗ whisky ông cậu tôi để lại vừa nghe nhạc êm dịu phát ra từ máy cát-xét. Tôi muốn nói chuyện với một ai đó. Tôi muốn một ai đó nói chuyện với tôi. Tôi đặt điện thoại lên bàn rồi nhìn nó hàng giờ liền. Ai đó hãy gọi tôi đi nào, làm ơn hãy gọi cho tôi, ai cũng được, kể cả người đàn bà bí ẩn trên điện thoại kia cũng được; ai tôi cũng sẵn lòng nghe. Dù cho là cuộc nói chuyện bẩn thỉu và vô nghĩa nhất, cuộc đối thoại độc địa và ghê tởm nhất. Không sao hết. Tôi chỉ cần một người nào đó hãy nói chuyện với tôi.
Nhưng điện thoại không reo. Tôi uống nốt nửa chai Scotch còn lại, rồi khi trời đã sáng, tôi bò vào giường đi ngủ. Xin đừng để tôi mơ, xin hãy cho giấc ngủ tôi là một giấc ngủ trống trơn, không mộng mị, dù chỉ hôm nay thôi.
Nhưng dĩ nhiên tôi đã mơ. Và đúng như tôi đã sợ, đó là một giấc mơ khủng khiếp. Trong mơ có gã đàn ông mang hộp đàn ghita. Trong giấc mơ tôi cũng làm những việc như đã làm trong thực tại - đi theo y, mở cửa trước căn nhà có hộ cho thuê, cảm thấy tác động từ cú đánh, rồi nện gã đàn ông, nện mãi, nện mãi. Nhưng sau đó thì khác. Khi tôi thôi đánh hắn và đứng dậy, gã đàn ông vẫn chảy rớt dãi và cười như điên dại như trong thực tại, nhưng y lại rút từ trong túi ra một con dao - một con nhỏ sắc lẻm. Lưỡi dao phản chiếu ánh chiều yếu ớt tuôn vào qua rèm cửa, hắt ra một ánh trăng trắng giống như xương. Nhưng gã đàn ông không dùng con dao để tấn công tôi. Thay vào đó y cởi hết quần áo ra rồi bắt đầu tự lột da mình như lột vỏ quả táo. Y làm rất nhanh mà vẫn không ngớt cười sằng sặc. Máu phụt ra xối xả từ mình y, làm thành một cái ao đen sịt, khủng khiếp trên sàn nhà. Y dùng bàn tay phải lột da cánh tay trái, rồi dùng bàn tay trái đã lột da đẫm máu để lột da cánh tay phải. Cuối cùng y trở thành một súc thịt đỏ hỏn, nhưng ngay cả khi đó y vẫn tiếp tục cười sằng sặc từ cái lỗ đen ngòm vốn là cái miệng hả hoác của y, cặp nhãn cầu trắng dã lộn lên lộn xuống như điên trên mớ thịt đỏ hỏn vốn là bộ mặt y. Chẳng mấy chốc, như thể đáp lại độ lớn phi tự nhiên của tiếng cười y, bộ da đã lột của gã đàn ông bắt đầu trườn trên sàn nhà mà lại gần tôi. Tôi muốn bỏ chạy, nhưng chân tôi không cục cựa. Bộ da chạm tới chân tôi rồi bắt đầu bò ngược lên. Nó bò lên trên da tôi, bộ da sũng máu của gã đàn ông dán chặt lên da tôi làm thành một lớp bọc ngoài. Đâu cũng mùi máu nồng nặc. Chẳng mấy chốc mà chân tôi, mình tôi, mặt tôi bị lớp màng mỏng của bô da gã đàn ông hoàn toàn phủ kín. Rồi mắt tôi không nhìn được nữa, và tiếng cười của gã đàn ông vang vọng trong bóng tối rỗng hoác. Đến đó thì tôi thức dậy.
Bàng hoàng và khiếp đảm tràn ngập tôi. Trong một lát, tôi thậm chí không còn cảm nhận được sự hiện hữu của chính mình. Các ngón tay tôi run rẩy. Nhưng đồng thời tôi biết mình đã đi đến một kết luận.
Tôi không thể - và không nên - chạy trốn, không trốn đến Crete, cũng chẳng trốn đi đâu hết. Tôi phải đưa bằng được Kumiko trở về. Bằng đôi tay mình, tôi phải lôi nàng trở lại thế giới này. Bởi nếu tôi không làm vậy, đó sẽ là chung cục của chính tôi. Con người này, cái kẻ mà tôi xem là "tôi", kẻ đó sẽ mất đi vĩnh viễn.
Biên Niên Ký Chim Vặn Dây Cót Biên Niên Ký Chim Vặn Dây Cót - Haruki Murakami Biên Niên Ký Chim Vặn Dây Cót