I speak in hugs & kisses because true love never misses I will lead or follow to be with you tomorrow.

Unknown

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Kidnapped
Dịch giả: Đỗ Minh Đạo
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Hiep Manh Nguyen
Số chương: 31
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 410 / 19
Cập nhật: 2019-12-06 08:59:50 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 21 - Hang Động Corrynakiegh
ặc dù vào tháng sáu ban ngày đến sớm hơn, khi chúng tôi tới đích của hôm đó – một cái khe trên đỉnh một ngọn núi cao, có một dòng nước chảy qua – thì trời vẫn còn tối. Bên một vách núi có một cái hang không quá sâu. Ở một đoạn ngắn có những cây dương liễu hoa thơm trong một khu rừng tùng. Những con cá hồi hơi trong nước suối yên tĩnh, trong rừng đầy tiếng chim cu. Ở vách núi đá bên kia vang lên tiếng chim hót, trong đó có những tiếng chim cu.
Từ cửa hang có thể nhìn thấy một phần khối đá cẩm thạch và cái rạch biển nhỏ ngăn cách vùng này với Appin. Tôi ngạc nhiên, sung sướng ngắm phong cảnh từ trên cao và muốn ngồi ở đây mãi.
Vách đá này là động Corrynakiegh mặc dù chỗ này khá cao, gần biển và thường bị mây che phủ, nó vẫn là một chỗ nghỉ thoải mái với chúng tôi và năm ngày lưu lại ở đó chúng tôi cảm thấy rất hạnh phúc.
Chúng tôi ngủ trong động trên một cái ổ lót bằng thạch thảo do chúng tôi cắt đem về và đắp bằng cái áo măng tô dày của Alan. Trong khe núi có một nơi khuất có thể nhóm lửa vì vậy chúng tôi có thể nấu bột lúa mạch và nướng những con cá hồi nhỏ mà chúng tôi đã bắt được khá vất vả bằng tay không ở mé bờ nhô ra. Đó là nguồn vui và cách tiêu thời gian chính của chúng tôi. Không chỉ vì cần tiết kiệm bột mì cho những lúc khó khăn. Không, trong cuộc thi thể thao thú vị này, phần lớn thời gian trong ngày chúng tôi đứng trần truồng dưới nước để “chơi” với lũ cá sợ hãi. Con cá hồi lớn nhất chúng tôi bắt được có lẽ nặng độ trên một trăm gam. Thịt nó nướng trên than củi thơm và ngon, chỉ thiếu một chút muối nữa là có thể có một món ăn tuyệt vời.
Xen kẽ vào đó, Alan dạy tôi đấu kiếm. Anh khá vất vả vì sự vụng về của tôi. Còn ngoài ra thì tôi tin rằng cái công việc mà anh hơn hẳn tôi này cũng làm anh đặc biệt thích thú vì khi bắt cá tôi thường gặp may hơn anh. Anh làm tôi đau nhiều hơn mức cần thiết một chút, thỉnh thoảng anh khiển trách tôi rất nặng, chửi rất thô tục và dồn tôi vào thế bí làm tôi phát hoảng, sợ anh sẽ đâm thanh gươm qua người tôi. Vâng, thỉnh thoảng tôi có ý muốn bỏ cuộc nhưng đã kìm chế được và đã học được rất nhiều. Mặc dù chưa lần nào tôi làm thầy dạy của mình hài lòng chút ít, không phải tôi không hài lòng với mình.
Bạn đọc đừng nên nghĩ rằng chúng tôi đã quên mất mục đích chính của mình là chạy trốn một cách an toàn.
Ngay buổi sáng đầu tiên Alan đã nói với tôi:
— Phải vài ngày nữa tụi Áo đỏ mới nghĩ ra là chúng phải lùng sục Corrynakiegh. Từ đây chúng ta phải tìm cách báo tin cho James để ông ta kiếm tiền cho chúng ta.
— Và chúng ta báo tin bằng cách nào được? – Tôi hỏi – Chúng ta ngồi ở đây trong một ốc đảo và không dám rời nó. Nếu anh không định dùng chim rừng làm người đưa tin thì tôi không hiểu chúng ta có thể làm gì hơn.
— Ồ, – Alan kêu lên – cậu không phải là loại sáng tạo lắm. David ạ.
Sau khi nói vậy anh nín lặng, nhìn trân trân vào ngọn lửa leo lét và suy nghĩ căng thẳng. Đột nhiên anh nhặt vài nhánh củi, xếp thành một cái thập tự, hơ đen bốn đầu trong ngọn lửa sau đó nhìn tôi, hơi lúng túng một chút:
— Cậu có thể cho mình mượn cái khuy bạc được không? – Anh đề nghị – Mượn lại vật đã tặng thực ra hơi không bình thường nhưng tôi không muốn cắt một chiếc thứ hai.
Tôi đưa cho anh chiếc khuy, anh buộc chặt nó vào một miếng vải vừa cất từ áo măng tô dùng để buộc cái thập tự. Sau khi nhét thêm vào đó một nhánh dương và nhánh tùng, anh hài lòng ngắm nghía tác phẩm của mình.
— Bây giờ, cậu hãy nghe đây! – Anh nói – Cạnh đây có một nơi mà trong tiếng Anh ta có thể gọi là làng nhỏ, có tên là Coalisnacoan. Rất nhiều bạn bè tôi, những người tôi có thể tin cậy, sống ở đó, nhưng cũng có một số tôi không biết rõ. Cậu biết đấy, tụi nó treo giải cho những cái đầu của chúng ta. Bản thân James cũng phải làm điều đó bằng tiền túi của mình. Bọn Campbell sẽ chi một số tiền nếu cần để tóm cổ một tay Stuart. Nếu không có chuyện đó, tôi sẽ đi ngay tới Coalisnacoan, đặt cuộc sống của mình vào tay những con người mà tôi hiểu rõ như chiếc găng tay của mình.
— Nhưng chuyện đó lại đúng như vậy – Tôi nói.
— Vì có chuyện đó, – Anh kết luận – nên tốt hơn hết là họ không nên nhìn thấy tôi. Những người độc ác và còn tồi tệ hơn, những kẻ hèn nhát có ở khắp nơi. Nhưng nếu trời vừa tối, tôi sẽ lẻn đến chỗ đó, đặt cái thập tự này bên cửa sổ nhà một người bạn tốt của tôi là John Breek Maccol.
— Được rồi, – Tôi nói – Nếu nhận ra, anh ta sẽ nghĩ gì?
— Tôi mong rằng anh ta thông minh hơn, có thể ngay lúc đó anh ta chưa nghĩ ra được. Tôi hình dung cái đó tác động vào anh ta như thế này: cái thập tự với các nhánh bị đốt cháy sẽ nhắc anh đến cây thập tự lửa, một dấu hiệu của phe tôi dùng để tập hợp lực lượng. Nhưng anh ấy biết rõ là hiện nay không thể tập hợp phe cánh được, vì có cây thập tự ngoài cửa sổ nhưng không có một lời nhắn nhủ. Tức là anh ta sẽ nói với chính mình: Tuy phe cánh không tập hợp được nhưng nó phải có một ý nghĩa nào đó. Và khi nhìn thấy chiếc khuy của Duncan Stuart, anh ta sẽ nghĩ: con trai Duncan Stuart chắc phải ở đâu đó trong rừng và đang cần đến mình.
— Được rồi. – Tôi nói – cho đến giờ, mọi thứ đều hợp lý cả. Nhưng ngay cả nếu anh ta nghĩ vậy thì từ đây đến vịnh còn khá xa và khắp nơi là rừng núi.
— Rất đúng, David ạ. – Alan nói – Nhưng John sẽ thấy một cành dương và một cành tùng. Chỉ cần thông minh một chút, anh ta sẽ nói với mình: Alan đang ẩn ở một nơi có dương và tùng mọc, sau đó anh ta sẽ suy nghĩ là không có nhiều chỗ như vậy trong vùng này. Và anh ta sẽ lên động Corrynakiegh này. Anh ta sẽ tìm. Còn nếu anh ta không làm như vậy, David ạ, thì quỉ tha ma bắt anh ta đi! Chắc tôi có lý vì nếu không, anh ta không đáng giá một xu.
— Anh bạn yêu quý – Tôi nói và đùa với Alan một chút – Anh là người dày sáng kiến, nhưng sao anh lại không viết một vài chữ có tốt hơn không?
— Một ý kiến tuyệt vời, thưa ngài Balfour of Shaws – anh nói và chọc lại tôi – đơn giản nhất với tôi là viết cho anh ta vài chữ, nhưng với John thì đọc nó lại không đơn giản. Trước hết anh ta phải tới trường, học hai ba năm và thời gian như vậy là quá lâu đối với chúng ta.
Ngay buổi tối hôm đó Alan đi xuống làng và đặt cái thập tự đầy tính nghệ thuật này bên cửa sổ nhà John Breck. Khi quay về anh hơi hoang mang một chút vì lũ chó sủa nhiều quá và mọi người nhào ra khỏi nhà. Anh nói rằng đã nghe thấy súng nổ và thấy một tên lính Áo đỏ trước cửa một ngôi nhà.
Dẫu sao, ngày hôm sau chúng tôi cũng nấp ở bìa rừng để đón John Breck nếu anh ta lên hoặc biến ngay nếu nhìn thấy bọn Áo đỏ.
Vào buổi trưa, chúng tôi phát hiện ra một người đàn ông đang leo lên dốc trước mặt và sợ hãi nhìn quanh.
Vừa nhìn thấy anh ta, Alan liền huýt sáo ra hiệu. Người đàn ông đứng lại, nhìn quanh một lần nữa và chậm rãi đi tới. Alan huýt sáo lần nữa.
Người kia đến gần hơn. Trò chơi này được lặp lại và bằng cách đó anh ta đến sát chỗ chúng tôi ẩn nấp.
Đó là một thân hình rách rưới, râu ria, trông dữ tợn, khoảng bốn mươi tuổi. Mặt anh ta đầy tàn nhang. Trông anh ta vừa khùng khùng vừa hoang dã. Mặc dù anh ta nói tiếng Anh rất kém nhưng Alan, do có thói quen đáng yêu của mình, vẫn không cho phép nói tiếng Gaelic khi có mặt tôi. Có lẽ với cách nói không bình thường của mình, anh ta làm tôi khó chịu hơn là bản chất anh ta. Tôi cũng cảm thấy anh ta không muốn làm vừa lòng chúng tôi mà làm chỉ vì sợ thôi.
Alan đề nghị anh chuyển lời thăm hỏi bằng miệng tới James, nhưng John Breck nhất định không chịu. Bằng giọng gay gắt, anh ta nói:
— Cô ấy sẽ quên hết… (Với từ “cô ấy” anh ta muốn nói chúng mình!)
Anh ta đòi viết vào giấy không thì anh ta sẽ không làm đâu.
Tôi nghĩ là Alan sẽ lúng túng vì trong cái lô này, tìm đâu ra cái gì để viết. Nhưng Alan là con người sáng tạo hơn là tôi nghĩ. Anh tìm quanh rừng cho đến khi kiếm được một cái lông chim cu, gọt nó cẩn thận, trộn ít thuốc súng trong ống súng của anh với thứ nước suối thành một thứ nước màu làm mực. Xé một góc cuốn sổ quân nhân Pháp luôn mang theo người như một lá bùa hộ mệnh – có lẽ chỉ có giá treo cổ mới bắt được anh ta rời nó. Alan quì xuống và viết.
“Người họ hàng thân mến! Mong anh gửi qua người cầm thư này cho tôi một ít tiền đến địa điểm anh đã biết. Em họ yêu quý của anh. A.S”.
Alan đưa thư cho John Breck, anh này hứa sẽ làm ngay và lao xuống núi.
Anh ta vắng bóng ba ngày liền, nhưng vào khoảng năm giờ chiều ngày thứ ba chúng tôi nghe thấy ai đó huýt sáo trong rừng. Alan trả lời và John Breck xuất hiện bên dòng suối. Trông anh ta đỡ sợ sệt hơn lần trước và rõ ràng rất sung sướng đã làm xong một nhiệm vụ nguy hiểm.
Vẫn còn đang xúc động, anh ta kể chúng tôi những gì đang xảy ra trong vùng, rằng bọn Áo đỏ rải khắp nơi, rằng chúng đã tìm thấy súng đạn cất giấu và dân làng đói khổ bị tra tấn hàng ngày, John và một số người hầu đang nằm trong nhà tù Fort Wukgan. James of Glens bị nghi là tòng phạm của kẻ giết người. Ở khắp nơi chúng đều nói rằng Alan Breck đã bắn phát súng chết người đó. Một lệnh truy nã anh ta và tôi đã được công bố và treo giải thưởng một trăm bảng cho ai bắt được chúng tôi. Đó là tất cả, có lẽ không có gì có thể nghiêm trọng hơn. Lời nhắn của James Stuart qua người đưa thư thật buồn dễ sợ. Bà yêu cầu khẩn thiết Alan làm sao đừng bị bắt và nói chắc rằng nếu anh để bọn lính bắt được thì cả hai người, anh và James sẽ tiêu đời. Số tiền bà đưa cho John Breck là tất cả những gì bà đã gom góp hoặc giấu được và bà cầu trời sao cho nó đủ cho Alan tiêu dùng. Cuối thư bà ấy nói rằng bà gửi cho một bản lệnh truy nã.
Chúng tôi rất tò mò đọc cái lệnh truy nã này và không khỏi sợ hãi, đại loại như một người đang kiểm tra hình của mình trong gương hoặc giống như anh ta muốn xác định xem nòng súng của kẻ địch có thật sự nhằm vào mình không.
Trong lệnh truy nã, Alan được mô tả là một người nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, mặt đầy tàn nhang, đội một mũ lông, mặc áo khoác Pháp có khuy bằng bạc, cái góc đã sờn hết rồi, một áo gi-lê màu đỏ, quần bó gối bằng vải đen. Tôi được mô tả là một thanh niên cao lớn, khỏe mạnh, khoảng mười tám tuổi, mặc một cái áo màu xanh, rách nát, ngoài ra còn có một cái mũ cũ kỹ của người cao nguyên, một áo gi-lê rất dài bằng vải tự dệt và quần lửng màu xanh. Ngoài ra trong đó còn ghi: “Chân không tất, hắn đi một đồi giày kiểu nhà quê, bẩn thỉu, thò hết ngón chân ra ngoài. Nét miệng của người vùng xuôi và hắn chưa có râu”.
Alan rất khoái là bộ quần áo lịch sự của anh đã được nhắc đến, chỉ khi đọc đến chỗ “đã sờn hết” trông anh có vẻ mắc cỡ về các góc của áo khoác. Tôi nhận ra là mình được mô tả rất thảm hại, đồng thời lại sung sướng về việc này vì do tôi đã trút bỏ bộ đồ rách nát của mình, việc mô tả trên đây có giá trị như một sự an toàn cho tôi nhiều hơn và nó không còn là một nguy cơ trực tiếp nữa.
Tôi khuyên Alan đổi quần áo khác.
— Không bao giờ, bạn thân mến ạ. Tôi không có bộ nào khác và ngoài ra trông tôi chắc sẽ đẹp lắm với một cái mũ Scot trên đầu khi tới nước Pháp!
Câu chuyện này làm nảy ra trong tôi một ý nghĩ mới. Nếu tôi tách ra khỏi Alan với bộ quần áo phản lại anh ta thì tôi sẽ không lo bị bắt và có thể đi khắp nơi. Nhưng đó chưa phải là tất cả vì tôi cho rằng nếu tôi có bị bắt một mình người ta sẽ buộc tội nhẹ hơn, còn nếu tôi bị bắt chung với một kẻ giết người nguy hiểm thì sẽ trầm trọng đây. Lý trí không cho phép tôi nói ra ý nghĩ đó nhưng nó làm tôi không yên ở trong đầu.
Tôi càng nghĩ nhiều đến khả năng đó khi John Brock lấy ra một túi đựng tiền màu xanh lá cây với bốn đồng bảng bằng vàng và một bảng tiền xu nhỏ hơn.
Đúng là số tiền này bằng số tiền tôi đang có trong người. Nhưng Alan phải sang tận Pháp với gần năm bảng còn tôi chỉ cần tới Queensferry với gần hai bảng, như vậy nếu ta cân nhắc cái nọ cái kia sẽ thấy là đi chung với Alan chẳng những cuộc sống của tôi bị đe dọa mà túi tiền cũng giảm đi.
Ông bạn tỉnh táo của tôi không biết đến sự cân nhắc đó. Anh ta tin chắc anh ta cần cho tôi, sẽ giúp đỡ, che chở tôi. Tôi không còn cách gì khác hơn là im lặng, chấp nhận phiêu lưu dù có những ý nghĩ trên.
— Quá ít – Alan nói và cho tiền vào túi, – nhưng sẽ đủ thôi và John Breck, nếu bây giờ cậu có lòng tốt đưa lại cho mình cái khuy bạc thì anh bạn trẻ này và tôi, chúng tôi sẽ đi tiếp.
Nhưng người được hỏi lục tìm hoài trong cái túi kiểu cao nguyên đeo trước ngực, ngoài ra anh ta mặc quần thủy thủ giống như người ở ven biển.
Anh ta đảo mắt một cách lạ lùng, cuối cùng nói:
— Chắc là tôi đã làm mất rồi.
Bằng cách đó chắc anh ta muốn nói nó đã bị lấy cắp rồi.
— Cái gì? – Alan hét lên – cậu làm mất cái khuy rồi, cái khuy của bố tôi để lại? Tôi cần nói cho cậu biết tôi nghĩ gì: John Breck, đó là việc làm tồi tệ nhất của cậu từ lúc sinh ra đến nay.
Trong khi nói, Alan chống tay vào đầu gối, nhìn chàng nông dân bằng con mắt và nụ cười mà người đối diện, nhất là đối thủ của anh không bao giờ cảm thấy tốt đẹp cả.
Cũng có thể anh kia nói nghiêm chỉnh, cũng có thể anh ta định lừa. Nhưng khi một mình đứng trước hai chúng tôi ở cái nơi hẻo lánh này thì có lẽ thật thà là hơn, dẫu sao thì anh ta cũng tìm thấy cái khuy và đưa cho Alan.
— Bây giờ thì danh dự của dòng họ Maccols đã được cứu thoát. – Alan nói và quay sang tôi – Đây, tôi đã may mắn có lại cái khuy và tôi cảm ơn cậu đã cho tôi mượn nó, David ạ, vì nó đã gắn chặt tình bạn của chúng ta.
Alan chia tay với John Breck một cách rất nhiệt tình:
— Cậu đã giúp tôi rất nhiều, – anh ta nói – đã không tiếc đời mình vì tôi. Tôi sẽ luôn luôn nói đến cậu như một con người dũng cảm.
Cuối cùng, anh chàng cao nguyên đi xa dần về một hướng còn Alan và tôi, sau khi trở lại đây, cũng lên đường đi về hướng khác để tiếp tục cuộc chạy trốn.
Bắt Cóc Bắt Cóc - Robert Louis Stevenson Bắt Cóc