The man who does not read good books has no advantage over the man who can't read them.

Mark Twain, attributed

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Kidnapped
Dịch giả: Đỗ Minh Đạo
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Hiep Manh Nguyen
Số chương: 31
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 410 / 19
Cập nhật: 2019-12-06 08:59:50 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 20 - Chạy Trốn Trong Rừng Giữa Những Vách Đá
húng tôi lúc thì đi, lúc thì chạy, nhưng khi trời sáng dần thì chạy không nghỉ. Mặc dù nhìn xa vẫn thấy đất đai hoang dã và hình như không có người ở, nhưng vẫn có những túp lều và nhà cửa trong những góc khuất của núi rừng và có người sống ở đó. Có lẽ chúng tôi đã đi qua khoảng hai mươi khu dân cư như vậy. Khi chúng tôi vừa tới gần một ngôi nhà, Alan để tôi ở ngoài, một mình đi tới đó gõ cửa và nói chuyện qua cửa sổ với một người trong nhà vừa bị đánh thức dậy, còn đang sợ sệt. Chắc anh vừa báo cho mọi người những tin tức mới. Ở vùng này, điều đó là một nghĩa vụ rất thiêng liêng mà Alan phải theo mặc dù anh đang chạy trốn vì cuộc sống trần trụi của mình. Những người khác cũng đã thực hiện trách nhiệm này trung thành tới mức hầu hết mọi nhà đều đã nghe đến vụ giết người vừa qua. Ngoài ra, mặc dù không đến gần và không biết tiếng địa phương, tôi vẫn thấy tin đó làm dân chúng sợ hơn là ngạc nhiên.
Mặc dù chúng tôi đã rất vội vã, trời cũng đã sáng, mà chúng tôi còn ở rất xa nơi ẩn nấp. Trời sáng ập đến khi chúng tôi đang ở trong một thung lũng rộng, có nhiều mỏm đá và con sông sủi bọt chảy qua. Xung quanh là những ngọn núi hoang vu. Phong cảnh khô cằn, trơ trụi, chẳng có cây cối cũng chẳng có cỏ mọc. Sau này tôi nghĩ có lẽ đó là thung lũng có tên là Glencoe mà vào thời vua Williams đã xảy ra cảnh tắm máu. Nhưng tôi không nhớ được chút gì về con đường chạy trốn cả vì chúng tôi luôn phải rẽ ngay rồi đi vòng, phải chạy thật nhanh và thường chỉ đi vào ban đêm. Thỉnh thoảng tôi có hỏi tên một vài địa điểm thì chúng lại toàn gọi bằng tên Gaelic và tôi quên chúng rất nhanh.
Ánh sáng ban mai đầu tiên soi tỏ mặt đất không người này và tôi thấy Alan nhăn trán. – Mảnh đất này hoàn toàn không thích hợp cho cậu và tôi, – Anh nói – vì chắc vùng này đã được canh phòng.
Nói câu đó xong, anh chạy nhanh hơn xuống dốc tới bờ sông, tới nơi dòng sông bị ba vách đá ngăn lại. Ở giữa dòng, con sông bị một tảng đá lớn chia thành hai nhánh, nó đập ầm ầm như sấm giữa hai khối đá kia, bụi nước bắn tung lên như sương mù. Cảnh đó làm tôi khiếp sợ.
Alan không nhìn sang phải hoặc trái mà nhảy một bước từ bờ vào táng đá ở giữa. Tới đó anh nằm xuống để khỏi bị trượt xuống sông vì tảng đá rất hẹp. Tôi không có thì giờ để đánh giá khoảng cách hoặc nhận biết mức độ nguy hiểm. Tôi nhảy theo anh một cách mù quáng, anh dùng tay túm lấy tôi và giữ chặt.
Thế là chúng tôi đứng bên nhau trên một tảng đá mỏng manh, xung quanh đầy bọt và bụi nước, trước mặt là những nhánh sông rộng mà chúng tôi phải vượt qua. Khi nhận rõ chuyện gì sắp xảy ra, đầu gối tôi run rẩy. Nỗi sợ hãi chết người xâm lấn tôi, tôi kinh hoàng lấy hai tay che mặt.
Alan nhìn tôi, nắm lấy vai và lắc. Tôi nhìn vào miệng anh. Anh nói gì đó giữa tiếng gào thét của dòng nước và giữa lúc đang mất tinh thần nên tôi chẳng hiểu một lời nào. Tôi chỉ thấy anh đỏ mặt giận dữ và dậm chân xuống tảng đá, đồng thời tôi nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy qua, thấy màn nước bắn tung lên, lại nhắm hai mắt lại và càng thấy sợ.
Liền đó Alan đưa chai rượu mạnh vào môi tôi, ép tôi uống khoảng nửa xị làm đầu tôi nóng lên, dùng tay làm một cái loa và hét vào tai tôi:
— Cậu thích thứ nào hơn: treo cổ hay là nhậu?
Liền đó anh quay người, nhảy một bước rất mạnh và rơi xuống an toàn ở bờ bên kia.
Còn lại một mình tôi trên tảng đá, có nhiều chỗ hơn, nhưng rượu đã làm tai tôi kêu oong oong. Trước mắt tôi là một tấm gương tốt nơi Alan.
“Nếu mình không nhảy ngay thì không bao giờ làm được cả”. Tôi quì xuống đầu gối và với một vẻ điên khùng thỉnh thoảng có trong người mỗi khi thiếu can đảm, tôi văng người về phía trước. Quả là tôi có tới được bờ bên kia, nhưng chỉ bằng hai tay và chúng tuột ngay nhưng liền bám được vào một cái gì đó nhưng chưa thấy một chỗ bám chắc chắn và trong gang tấc sẽ rơi xuống dòng sông nếu Alan không kịp túm lấy tôi, lúc đầu nắm được tóc, sau đó là cổ áo. Dùng hết sức anh đã lôi được tôi lên bờ đá. Bây giờ thì an toàn rồi.
Lúc này anh cũng không nói một lời nào và lại tiếp tục chạy như điên dại. Tôi loạng choạng đứng dậy và chạy theo. Nếu như trước đây tôi đã quá kiệt sức thì bây giờ cũng như chết rồi. Ngoài ra tôi lại bị thương khi va vào đá, chỗ rượu mạnh đã làm tôi gần xỉn, bước nào cũng loạng choạng. Rồi còn đau nhói bên sườn làm tôi hầu như không bước tiếp được nữa. Khi Alan dừng lại bên một trong rất nhiều vách đá cao thì cũng là giới hạn sức lực cuối cùng của David Balfour.
Tôi vừa nhắc đến một vách đá cao, thực ra đó là hai vách đỉnh chạm vào nhau. Cả hai có chiều cao khoảng hai mươi bàn chân, mới nhìn thì thấy khó mà trèo lên đó. Đúng, ngay cả Alan, con người mà tôi nghĩ hình như có đến bốn tay, rất khéo léo, nhưng lần đầu trèo lên vẫn không thành công, mãi lượt thứ ba anh mới lên được và cũng phải đứng trên vai tôi và từ đó nhào lên với một bạo lực làm tôi tưởng gãy cổ. Vừa lên đến nơi anh tháo ngay thắt lưng và thả một đầu xuống và bằng cách đó, bò trên những cạnh đá nhô ra, tôi cũng đã lên được bên trên.
Đứng cạnh anh trên đó tôi hiểu vì sao chúng tôi phải bò lên đây. Đỉnh vách đá bị gọt phẳng chút ít, bị mưa làm cho lõm xuống tạo thành một cãi đĩa hay một cái lòng chảo đủ chỗ ba bốn người nằm mà không bị phía dưới nhìn thấy. Suốt thời gian đó, Alan không nói một lời, chạy như điên dại rồi trèo lên đây, làm tôi nhận ra anh đang có một nỗi sợ hãi chết người, một việc gì đó có thể thất bại. Ngay cả bây giờ, ở trên vách đá, anh vẫn yên lặng một cách bướng bỉnh và giữ cái bộ mặt tối sầm. Ngay lập tức anh nằm xuống dọc theo chiều dài lòng chảo và thám thính một vòng xung quanh. Tôi nằm xuống cạnh anh. Trời dần sáng rõ và từ đây chúng tôi có thể nhìn rõ những vách đá xung quanh, thấy lòng thung lũng đầy những khối đá tảng và dòng sông bị ngắt quãng bởi thác nước đầy bọt. Không nơi nào có khói bốc lên. Không ở đâu có thể phát hiện ra dấu vết của cuộc sống. Chỉ có vài con đại bàng lượn trên đầu chúng tôi.
Mãi bây giờ Alan mới nhìn tôi, mỉm cười:
— Thế là bây giờ chúng ta có cơ hội thoát được.
Anh ngắm tôi bằng cái nheo mắt hài hước:
— Cậu không phải là tay nhảy tuyệt vời.
Có lẽ trông tôi như là bị xúc phạm thì phải vì thấy anh lập tức nói thêm:
— Không hề gì. Chẳng có gì hổ thẹn nếu ta sợ một cái gì đó. Chỉ khi làm việc đó ta mới chứng tỏ sự can đảm thật sự. Vả lại đó lại là nước, nước là một cái gì đó mà bản thân tôi cũng sợ. Không, không. – Anh nói thêm – không phải cậu mà chính là tôi mới đáng bị quở trách.
— Tại sao? – Tôi hỏi.
— Tại sao à? Thế này nhé. Vì đêm qua mình xử trí như một thằng hề. Đầu tiên, tôi đi lạc đường, mà lạc đường ở ngay quê hương Appin của tôi, làm chúng ta bị trơ ra giữa ban ngày giữa một vùng mà đúng ra không bao giờ trong đời chúng ta được tới. Do vậy, mà bây giờ chúng ta phải nằm lại ở cái chỗ nguy hiểm và hoàn toàn không thoải mái này. Nhưng điều nghiêm trọng nhất với một người đàn ông hiểu biết rõ rừng núi như tôi mà lại không mang theo một chai nước nào và bây giờ chúng ta phải nằm suốt một ngày hè dài dằng dặc ở đây mà không có một chút gì uống ngoài ít rượu mạnh. Có lẽ cậu nghĩ rằng không sao đâu, David. Tối hôm nay cậu sẽ nghĩ khác.
Vì muốn gỡ lại chuyện trước đó, tôi đã đề nghị Alan đổ hết chỗ rượu đi, tôi sẽ leo xuống, ra sông lấy nước.
— Không được. – Alan nói – chúng ta cũng không được phép phung phí rượu. Đêm nay nó sẽ giúp cậu nhiều đấy. Bởi vì, theo đánh giá của tôi, nếu không có nó chắc bây giờ cậu còn đang bò lổm ngổm trên tảng đá giữa sông. Nhưng điều quan trọng hơn, một người tỉnh như cậu chắc cũng đã thấy là Alan Breck đã chạy nhanh hơn bình thường.
— Đúng như vậy. – Tôi nói to – anh đã chạy như một con thỏ, tôi chạy theo đến đứt hơi, anh gần như muốn nổ tung ra.
— Tôi như vậy thật à, David? Và bây giờ cậu sẽ thấy chúng ta không được phép lãng phí thời gian. Nói dông dài thế đủ rồi. Cậu cố ngủ đi một chút, tôi sẽ canh gác.
Tôi ngoan ngoãn nghe theo. Trong lòng chảo còn một ít đất bùn và ở đó mọc lên mấy ngọn thạch thảo. Tôi lăn xuống chỗ đó và tiếng cuối cùng tôi còn nghe được là tiếng kêu của những con đại bàng.
Lúc đó có lẽ độ mười giờ sáng, khi tôi bị đánh thức khá mạnh, đồng thời tôi nhận ra Alan đang lấy tay bịt miệng tôi.
— Khẽ thôi! – Anh thì thầm – cậu ngáy.
— Cái gì? – Tôi ngạc nhiên vì bộ mặt lo lắng, tối sầm của anh – Tại sao lại không được?
Anh quan sát bên cạnh vách đá và ra hiệu cho tôi làm theo.
Trời đã sáng từ lâu. Bầu trời không một gợn mây, xung quanh rất nóng và chói chang, có thể nhận rõ từng chi tiết quanh vùng. Ngược dòng sông chừng một dặm có vài tên Áo đỏ đóng chốt bên bờ. Chúng ngồi vòng quanh một đống lửa và nấu cái gì đó. Bên cạnh đó, một vách đá có chiều cao không chừng bằng vách đá của chúng tôi có một trạm gác, súng của tên lính gác ánh lên dưới mặt trời. Dọc theo dòng sông, ở khoảng cách lúc gần, lúc xa đều có lính gác, một số ở trên cao như vị trí tôi nhìn thấy đầu tiên, một số thì ở dưới thung lũng. Chúng đi đi, lại lại, gặp nhau ở giữa đường. Xa hơn, ở phía trên thung lũng, nơi có thể nhìn bao quát hơn, mắt xích trạm gác được bổ sung bằng kỵ binh, từ xa tôi thấy chúng phi ngựa đi đi, lại lại. Xa hơn nữa còn có nhiều lính hơn. Vì ở đó có một con suối chảy vào, lòng sông rộng ra rất nhiều, khoảng cách giữa các trạm gác xa nhau hơn nhiều vì ở đó chúng chỉ cần quan sát những mỏ đá có thể dùng để vượt sông mà thôi.
Tôi nhìn rất nhanh xung quanh rồi co mình sâu hơn trong lòng chảo của chúng tôi. Thật là ngạc nhiên khi thấy thung lũng lúc mờ sáng còn trơ trụi, không một bóng người, mà bây giờ thì đầy khí giới và lính Áo đỏ kéo bầy như vô số những chấm đỏ.
— David, cậu nhìn thấy chứ? Lúc trước tôi đã sợ là những con suối, đặc biệt là ở những đoạn nông sẽ bị canh phòng. Cách đây khoảng hai giờ những tên lính đầu tiên đã kéo đến. Ồ, cậu đã ngủ một giấc ngon lành. Số của chúng ta sẽ đen đủi nếu tụi nó leo lên sườn núi; dùng ống nhòm chúng có thể dễ dàng phát hiện ra ta. Nếu tụi nó chỉ ở dưới thung lũng có lẽ chúng ta sẽ thoát, ở dưới kia, sát bờ sông, khoảng cách giữa cái trạm gác lớn dần, khi trời vừa tối, chúng ta sẽ tìm cách luồn qua.
— Còn bây giờ chúng ta sẽ làm gì cho đến khi trời tối? – Tôi hỏi.
— Chúng ta sẽ nằm im ở đây và tự nướng mình dưới ánh mặt trời. – Câu trả lời hài hước là như vậy. Thuật ngữ “nướng” thật đúng nghĩa cho những gì chúng tôi đã trải qua hôm đó. Các bạn cần biết là chúng tôi đã nằm trên vách đá trơ trụi như cái bánh nằm trên lò. Mặt trời đốt cháy chúng tôi không thương xót, đá nóng bỏng làm ta không thể sờ vào nó. Cái nhúm đất có chút bùn, thạch thảo và cỏ dại nhỏ nhoi chỉ đủ chỗ cho một người. Chúng tôi thay nhau, lúc người nọ, lúc người kia nằm trên nền đá trơ trụi, nóng bỏng giống như sự hành hình một vị thần trên giàn hỏa. Lúc đó tôi nghĩ: thật là trớ trêu vẫn ở vùng khí hậu này cách đây mấy hôm trên hòn đảo trơ trọi tôi đã phải chịu đựng khốn khổ cái rét như bây giờ chịu đựng cái nóng vậy.
Và trong suốt thời gian đó, chúng tôi không có một giọt nước để uống mà chỉ có rượu nguyên chất và như vậy còn trầm trọng hơn là không uống. Chúng tôi vùi cái chai xuống đất cố giữ cho nó mát và thỉnh thoảng làm cho mình đỡ khó chịu hơn một chút bằng cách xoa rượu vào trán và ngực.
Tụi lính dưới thung lũng di chuyển liên tục từ sáng đến tối, chúng đổi gác cho nhau và chia thành từng nhóm lùng sục các khe núi. Nhưng tìm một hoặc hai người trong cái thiên la địa võng đầy vách đá này khác nào như tìm một cái kim trong đống cỏ. Vì nhiệm vụ này chẳng có chút hy vọng thành công nên chúng không thực hiện một cách cẩn thận, dù có lần chúng tôi cũng nhìn thấy tụi lính dùng lưỡi lê đâm vào bụi cây, những lúc nhìn thấy như vậy làm bụng tôi đau nhói. Đôi lần chúng đến gần tới mức chúng tôi không dám thở nữa.
Trong dịp đó, lần đầu tiên tôi được nghe nói tiếng Anh. Một tên Áo đỏ đặt tay lên một tảng đá được mặt trời chiếu rọi và kêu lên với tên bạn:
— Chó má thật, sao mà nóng thế!
Tôi rất ngạc nhiên là tên lính này phát âm như một đứa trẻ tập nói, sai ngữ pháp và toàn tiếng “bồi”.
Sự căng thẳng suốt những giờ bị tra tấn tăng lên theo thời gian; vách đá càng nóng thêm, mặt trời chiếu gay gắt hơn. Chúng tôi đành chịu đựng sự khó chịu và đau đớn tựa như đau khớp vậy. Và chúng tôi phải cảm ơn Thượng đế là đã không bị mặt trời thiêu cháy luôn.
Vào khoảng hai giờ chiều thì không thể chịu nổi nữa. Ngoài những cái vừa rồi, bây giờ lại thêm một thử thách mới: Vì mặt trời đã ở chếch về phía tây nên ở góc phía đông vách đá của chúng tôi, ngoài tầm nhìn của tụi lính, có một bóng mát nhỏ.
— Chết kiểu nào cũng thế thôi! – Bỗng nhiên Alan nói, rồi anh bò ra rìa tảng đá và thả người rơi xuống chỗ bóng mát.
Tôi cũng lập tức làm theo như vậy, nhưng rất chậm chạp; tôi đã yếu và kiệt sức đến mức đó sau khi phải nằm lâu dưới nắng chói chang.
Chúng tôi nằm ở đó khoảng một đến hai giờ, xương cốt đau nhừ, hoàn toàn lộ liễu không có gì che chắn. Nếu có tên lính nào nảy ra ý định đi sang phía này quan sát, nó sẽ nhận ra chúng tôi ngay. Nhưng không đứa nào đến cả. Tất cả tụi chúng đều đi ở phía bên kia vì vậy vách đá này đã che chở cho chúng tôi.
Chúng tôi dần dần lấy lại sức, và vì tụi lính không canh giữ dọc bờ sông nữa nên Alan đề nghị chúng tôi phải tìm cách đi khỏi đây. Bây giờ tôi chỉ ngán một điều: trở lại vách đá trưa nay, còn thì làm gì cũng được cả. Chúng tôi chuẩn bị khởi hành trượt từ vách đá này sang vách đá khác, khi thì bò sát mặt đất, khi thì chạy như điên qua một vài đoạn với nỗi lo sợ và trái tim đập thình thình.
Vì phía bờ sông bên này tụi lính đã lùng sục rất kỹ và chúng đã buồn ngủ vì nóng nực nên bây giờ sự cảnh giác của chúng giảm đi nhiều. Chúng đứng lười biếng tại chỗ của mình hoặc ngước mắt quan sát hai bên bờ sông. Vì bây giờ chúng tôi bò xuống thung lũng, luôn hướng về những quả núi trước mặt nên chúng tôi càng ngày càng xa dần tụi lính. Nhưng cuộc chạy trốn chậm chạp này còn mệt hơn tất cả những gì tôi đã trải qua. Người ta cần có trăm con mắt để có thể luồn qua một địa hình không bằng phẳng mà không bị những chốt canh luôn luôn gặp lại phát hiện. Mỗi khi phải chạy qua một nơi trống trải, thì không những cần đôi chân khỏe mạnh mà toàn bộ địa hình phải được bao quát rất nhanh, phải đánh giá được độ chắc chắn của từng tảng đá mà chân sẽ chạm vào bởi vì vào buổi chiều đúng giờ yên tĩnh này, tiếng đập vào vách đá của một hòn đá lăn sẽ vang lên như một tiếng súng lục.
Khi mặt trời bắt đầu lặn, mặc dù còn rất chậm chúng tôi cũng đã đi được một quãng kha khá tuy vẫn còn nhìn rõ những chốt gác trên đỉnh các vách đá.
Chúng tôi tới một địa điểm có thể bỏ qua mọi lo lắng: ở chỗ này dòng sông đổ dốc ào ào và đều suốt chiều rộng lòng sông. Khi tới nơi, chúng tôi quì xuống, vục đầu và cúi xuống nước. Tôi không thể nói được cái gì đã làm tôi khoan khoái hơn: sự mát mẻ xâm chiếm người tôi hay những ngụm nước mát thỏa mãn cơn khát của mình?
Chúng tôi nằm đó, được bờ sông che chở, cứ một lúc uống nước, lấy nước xoa cánh tay, xoa ngực và khắp cơ thể, thả bàn tay, khuỷu tay chơi vơi trong dòng nước cho đến lúc lạnh buốt. Khi đã uống nước thỏa thuê, chúng tôi lấy gói bột mì ra, khuấy trong một cái cốc kim loại một loại cháo sền sệt và dù đó chỉ là bột lúa mạch khuấy với nước lạnh, những kẻ chạy trốn đói khát đã ăn ngon vô cùng. Đối với những người không có điều kiện đốt lửa lên và chúng tôi có đủ lý do đề không làm điều đó, thì đó là thức ăn ngon nhất, đặc biệt với những người phải chạy qua vùng rừng núi Scotland.
Khi trời vừa tối, chúng tôi lại lên đường, đầu tiên vẫn thận trọng như trước, nhưng rồi đi thoải mái hơn, không phải cúi lom khom mà bước mạnh mẽ về phía trước. Đường đi khá khó khăn, đầy chướng ngại vì nó chạy dọc theo những vách đá dựng đứng, qua những vách đá lởm chởm, phải vượt những đỉnh núi và bụi rậm. Sau khi mặt trời lặn, mây kéo tới, trời rất tối và lạnh.
Tôi không thấy mệt mỏi khi đi nhưng sợ trượt ngã và rơi xuống vực. Tôi không có khái niệm gì về phương hướng cả.
Chúng tôi đi không nghỉ, cuối cùng trăng lên. Mặt trăng nằm ở chân trời và bị mây che khuất một lúc lâu nhưng rồi sáng dần ra và chúng tôi lại nhận ra những đỉnh núi tối sẫm. Dưới chân chúng tôi, mặt trăng phản chiếu trên một rạch nhỏ của biển. Khi nhìn thấy rạch biển đó, chúng tôi dừng lại. Tôi ngạc nhiên là chúng tôi đang đứng trong một động lớn và cảm thấy mình đang di chuyển giữa các đám mây. Alan nhìn quanh để cho chắc là mình không đi chệch hướng.
Rõ ràng là anh rất hài lòng và tin tưởng là những kẻ săn đuổi không nghe được tiếng của chúng tôi nữa. Anh đã rút ngắn quãng đường cuối cùng của chúng tôi bằng cách huýt sáo những điệu nhạc chiến đấu vui và buồn với nhịp điệu làm cho chân bước nhanh hơn, những điệu nhạc của phía nam quê tôi, đã làm tăng quyết tâm trở về nhà của tôi, chấm dứt cuộc phiêu lưu này với một sức mạnh tôi chưa thấy bao giờ. Cái điệu nhạc của Alan theo chúng tôi trên con đường dài qua những dãy núi trơ trụi và làm thời gian trôi nhanh hơn.
Bắt Cóc Bắt Cóc - Robert Louis Stevenson Bắt Cóc