Thất bại lớn nhất của một người là anh ta không bao giờ chịu thừa nhận mình có thể bị thất bại.

Gerald N. Weiskott

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Kidnapped
Dịch giả: Đỗ Minh Đạo
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Hiep Manh Nguyen
Số chương: 31
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 410 / 19
Cập nhật: 2019-12-06 08:59:50 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 13 - Chiếc Tàu Buồm Mắc Cạn
uổi tối hôm đó đã khá muộn, trời âm u, – vào mùa này trời thường như vậy, – khi Hoseason thò đầu vào cửa phòng.
— Hãy nghe đây! – Ông ta nói với Alan – Hãy ra ngoài và xem ngài có thể dẫn đường cho chúng tôi không?
— Lại là một trong những mưu mô bẩn thỉu của Ngài? – Alan hỏi.
— Trông tôi hiện nay giống như người có mưu mô ấy không? – Viên thuyền trưởng đáp – Tôi đang có nỗi lo khác. Con tàu của tôi đang gặp nguy hiểm.
Bộ mặt lo lắng của ông ta, nhưng trước hết là giọng nói xúc động của ông ta khi nói về con tàu đã chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông ta nói nghiêm chỉnh. Vì vậy Alan và tôi đã không quá băn khoăn bước ra boong tàu.
Bầu trời trong sáng, một làn gió mạnh đang thổi và trời khá lạnh. Ánh sáng ban ngày còn lại chút ít nhưng trăng tròn đã chiếu rất sáng. Con tàu đã được lái quay mũi để giữ được theo hướng gió. Chúng tôi đang muốn chạy vòng mũi tây nam của đảo Mull. Các hòn núi của đảo, nhất là ngọn Ben More mà đỉnh của nó đã biến mất trong sương mù, đang nằm ở phía đuôi tàu. Mặc dù ở đây không phải không nguy hiểm với tàu Covenant, nó vẫn chạy nhanh về phía trước, trườn và quay, bị sóng phía tây đẩy đi đẩy lại.
Về đại thể tối hôm nay, chưa phải lúc thời tiết xấu nhất để chống lại sóng gió và lúc đó tôi đã nghĩ: điều gì làm viên thuyền trưởng lo lắng như vậy, khi bỗng nhiên con tàu bị một làn sóng đẩy cao và ông ta hét phải giữ vững vùng quan sát. Ông ta chỉ ra biển và chúng tôi trông thấy ở phía mạn khuất gió của tàu một cái gì đó như cái giếng phun lên cao và liền đó có tiếng gầm thét nặng nề.
— Ngài cho đó là cái gì vậy? – Viên thuyền trưởng hỏi bằng một giọng lo lắng.
— Biển đập vào vách đá ngầm. Alan trả lời – Bây giờ ngài biết đá ngầm ở chỗ nào, Ngài còn hỏi gì nữa.
— Ôi chao! – Thuyền trưởng thở dài – Nếu chúng chỉ nằm về một phía!
Và trong lúc ông ta còn đang nói, một cái giếng phun thứ hai bắn lên cao ở phía Nam.
— Vâng, – Hoseason nói – Ngài đã tự mình nhìn thấy nó. Vâng, nếu mà tôi biết được những vách đá đó ở chỗ nào, nếu tôi có một cái bản đồ, nếu Shuan không chết, không có sáu mươi cũng không có một trăm đồng bảng nào đã đẩy tôi đưa con tàu vào một bãi đá như vậy! Còn ngài, thưa ngài, ngài muốn dẫn đường cho chúng tôi. Có phải ngài nói vậy không?
— Tôi đang suy nghĩ. – Alan nói – Chắc đây phải là những vách đá ngầm gọi là vách Tarran.
— Loại này có nhiều không? – Viên thuyền trưởng hỏi.
— Ông già, tôi là người dẫn đường à? Dẫu sao tôi cũng nhớ là chúng kéo dài khoảng mười hải lý.
Ngài Riach và thuyền trưởng trao đổi cho nhau một cái nhìn lúng túng.
— Nhưng chắc phải có một đường đi xuyên qua? – Heseason nói.
— Không nghi ngờ gì. – Alan nói – Nhưng nó ở đâu? Tôi nghĩ là tôi còn nhớ dọc theo bờ biển có một đường thủy tự do.
— Vậy thì, ngài Riach, – Hoseason nói – bây giờ chúng ta phải chạy ngược gió. Chúng ta sẽ chạy càng gần đảo càng tốt, ngay cả khi bờ biển mất gió và chúng ta nhìn thấy vách đá ở phía chắn gió của tàu. Bây giờ chúng ta đang lúng túng nhưng không còn cách gì khác là phải vượt qua.
Sau đó ông ta ra một mệnh lệnh cho thủy thủ lái tàu và cử Riach đứng trước mũi. Cùng với hai sĩ quan chỉ có tất cả hai người trên boong, số đông hơn không có khả năng làm việc hoặc không muốn làm việc. Vì vậy, ngài Riach, như tôi đã nói, phải leo lên cột buồm. ông ta ngồi trên đó vừa chỉ vừa hét với chúng tôi những gì ông ta nhìn thấy.
— Ở phía Nam sóng quá cao! – Ông ta hét lên, sau một lúc lại nói – Gần bờ sóng êm hơn.
— Tốt thôi. – Hoseason nói – Chúng tôi muốn theo lời khuyên của ngài, nhưng mà có thể cũng giống như tin vào một người mù. Cầu trời phù hộ rằng ngài có lý!
— Trời sẽ phù hộ. – Alan nói với tôi – Tôi đã nghe nói về các vách đá ngầm và con đường thủy tự do ở đâu nhỉ? Bây giờ sẽ đến cái gì phải đến.
Càng gần bờ biển chúng tôi càng nhìn thấy nhiều vách đá. Chúng nằm ngay trước mặt chúng tôi và từng lúc một, ngài Riach kêu to cho chúng tôi biết phải thay đổi “cua” thỉnh thoảng vào tận giây phút cuối cùng, vì nhiều lúc chúng tôi đến sát một vách đá tới mức ngọn sóng cao vượt qua vách đá tới được boong tàu chúng tôi và chúng tôi ướt như chuột.
Trong đêm trăng sáng có thể nhận ra mối hiểm họa như vào ban ngày, thậm chí có thể làm sự việc hồi hộp hơn. Tôi cũng nhìn thấy rõ mặt viên thuyền trưởng đang đứng cạnh người lái tàu. Ông ta nhấp nhỏm hai chân, thổi vào hai bàn tay lạnh cóng, lắng nghe và chăm chú, nhưng đứng thẳng như sắt thép. Trong cuộc đấu với Alan, cả ông lẫn ngài Riach không có gì nổi bật, nhưng trong lĩnh vực sở trường của mình thì họ không chịu thua. Tôi cũng khâm phục điều đó khi nhìn thấy mặt Alan tái mét.
— Ồ trời, David ạ, đây không phải cái chết mà tôi mong muốn!
— Alan, – Tôi nói – nhưng mà anh không sợ chứ?
— Không, – Anh nói và dùng lưỡi liếm môi – nhưng cậu cũng phải nhận là cái kết cục dành cho chúng ta bi đát quá.
Trong lúc đó để tránh đá ngầm, xoay bên này hoặc bên kia, chúng tôi càng bị gió cản mạnh và đi gần vào bờ biển đảo Mull. Sóng ở mũi đất này rất mạnh và con tàu bị đung đưa dữ dội. Bây giờ phải hai thủy thủ cầm tay lái và thỉnh thoảng chính Hoseason cũng phải tham gia vào nữa. Thật đáng ngạc nhiên khi nhìn thấy ba người đàn ông mạnh khỏe ấy dùng tất cả sức lực ép bánh lái như thế nào, cái tay lái như một con vật sống chống lại họ, thỉnh thoảng ném họ xuống sàn. Nguy cơ có lẽ còn lớn hơn, nếu thỉnh thoảng, may mắn cho chúng tôi, biển không bỏ bớt những cản trở. Ngoài ra từ cái lồng trên cột buồm ngài Riach đã gọi xuống rằng ở phía trước biển đã dịu hơn.
— Ngài có lý thật – Hoseason nói với Alan – và nhờ đó con tàu được cứu thoát, tôi sẽ nhớ đến điều đó khi chúng ta tính toán với nhau sau này.
Tôi tin là ông ta nói thật lòng và sẽ giữ lời hứa vì ông ta rất yêu Covenant. Nhưng đó chỉ là ý kiến thừa, như ta thấy ngay sau đó, câu chuyện đến hoàn toàn khác sự chờ đợi của chúng tôi.
— Lùi lại một đoạn! – Ngài Riach hét lên – Đá ngầm ở phía gió thổi!
Trong giây phút đó con tàu rơi vào cơn xoáy, đồng thời buồm bị chùng lại, quay như con quay, và giây phút sau đó nó lao vào đá ngầm với một sức bật làm tất cả chúng tôi ngã xuống sàn còn ngài Riach chút nữa rơi khỏi lồng.
Tôi lập tức đứng dậy. Dải đá ngầm mà chúng tôi trườn lên nằm ngay sát mũi tây nam của đảo Mull, đối diện một hòn đảo gọi là Earraid, trông bằng phẳng, màu đen nhô lên ở phía sau tàu.
Thỉnh thoảng sóng chồm qua đầu chúng tôi và ấn con tàu khốn khổ vào sâu trong đá ngầm, chúng tôi có thể thấy các bộ phận của con tàu tách rời nhau theo đúng nghĩa đen. Buồm đập phành phạch. Gió gào thét. Bụi nước của sóng làm mờ ánh trăng. Cảm nhận được nguy cơ đang đe dọa, trong đầu tôi rối mù lên, tôi không hiểu cái gì đang diễn ra xung quanh nữa.
Sau đó, tôi nhìn thấy ngài Riach và hai thủy thủ đang đánh vật với chiếc xuồng, vẫn còn đang mơ mơ, màng màng, tôi chạy đến giúp họ. Vừa bắt tay vào làm, đầu óc tôi sáng suốt trở lại. Nhiệm vụ đó thật không dễ dàng bởi vì chiếc xuồng được buộc chặt vào tàu và nằm úp hoàn toàn. Biển tung sóng phía trên đã buộc chúng tôi luôn luôn phải ngừng công việc và bám chặt vào đâu đó. Nhưng chừng nào có thể là chúng tôi lại làm như những nô lệ da đen.
Trong lúc đó, những người bị thương còn đi được đã lo ra khỏi khoang trước và giúp vào việc hạ thủy thuyền, trong lúc những người còn lại đang nằm bất lực trong phòng thì kêu gào chúng tôi cứu họ.
Viên thuyền trưởng đứng yên bên cạnh, trông như không có hồn, tay bám chặt vào lan can, nói chuyện một mình, than thở rất to mỗi lần tàu bị đẩy sâu vào đá ngầm. Con tàu là cả thế giới của ông ta. Nó thay thế vợ con. Trước đây ông ta đã dửng dưng nhìn cậu bé Ransome bị hành hạ hàng ngày, nhưng cuộc chiến đấu sống còn của con tàu hình như lại làm đau đớn cơ thể ông ta.
Trong khi vật lộn với con thuyền, tôi chỉ còn nhớ là đã hỏi Alan, lúc đó đang đứng trên sàn nhìn vào bờ biển rằng đây là đất nào vậy và anh ta trả lời đây là điều xấu nhất với anh vì đây là đất của Campbell.
Chúng tôi nhắc một người thủy thủ bị thương chú ý quan sát sóng và sớm báo cho chúng tôi biết mối hiểm nguy mới. Khi chúng tôi đã gần đặt được con thuyền xuống nước, bỗng nhiên anh ta hét lên:
— Trời ơi! Bám chặt vào!
Qua giọng nói của anh ta, chúng tôi nhận thấy sắp xảy ra cái gì đó đặc biệt. Giây phút sau đó, một đợt sóng tràn tới mạnh đến mức nâng chiếc tàu của chúng tôi lên cao và đẩy nó nghiêng sang bên cạnh. Không hiếu sự nhắc nhở hơi chậm hay tôi bám không chặt, chỉ biết khi tàu bị nghiêng, tôi trượt chân trên sàn và rơi xuống biển.
Tôi chìm ngay lập tức và uống kha khá nước biển. Sau đó tôi lại nổi lên, nhìn thấy ánh trăng và lại chìm xuống. Như người ta nói, một người chỉ chết đuối ở lần chìm thứ ba thôi. Có lẽ tôi được cấu tạo từ loại vật liệu khác mọi người vì tôi không thể nổi được, tôi đã chìm xuống, nổi lên bao nhiêu lần. Tôi bị đẩy đi, đẩy lại, bị sóng đập rất mạnh, gần bị chết đuối và lú lẫn đến mức không biết mình có sợ không. Tôi chỉ còn nhớ là tôi bị mắc vào một cái cột nên được giữ trên mặt nước, sau đó tôi bỗng rơi vào một vùng nước yên tĩnh hơn và tĩnh lại. Cái cột mà tôi vớ được là cột buồm dự trữ của tàu và tôi rất ngạc nhiên là tôi đã bị đẩy xa con tàu đến thế. Từ khoảng cách xa như thế rõ ràng không ai có thể nghe được tiếng tôi, vì mặc đầu tôi gào rất to mà không ai chú ý đến cả. Tàu Covenant vẫn đang bơi. Rất tiếc là tôi không nhận ra những người khác đã đưa được xuồng xuống nước chưa.
Trong lúc còn đang kêu cứu về phía tàu, tôi nhận ra là giữa tôi và tàu có một vùng sóng không mạnh, nhưng ngay trước mặt tôi nước tung bọt, quay cuồng trong ánh trăng và dòng nước chuyển động như một con rắn đang quẫy mình, đập phần cuối của đuôi sang bên cạnh. Thỉnh thoảng tất cả biến mất trước mắt tôi rồi lại lập tức bùng lên. Tôi không thể khẳng định thiên nhiên đang chơi trò gì vậy, nhưng vì nó có vẻ bí hiểm nên tôi càng sợ. Nay thì tôi biết cái đó gọi là dòng thủy triều, đã kéo tôi theo, đẩy tôi đi đi lại lại một cách đau đớn, đến lúc tôi đã quá mệt mỏi vì trò chơi man rợ này và cùng với cột buồm trôi đến vùng nước yên lặng hơn. Bấy giờ tôi nằm hoàn toàn bất động nhưng cũng nhận ra ngay là người ta không chỉ có thể chết đuối mà còn có thể chết vì lạnh nữa.
Bờ biển Earraid rất gần, trong ánh trăng tôi có thể nhận rõ những bụi thạch thảo và ánh sáng chiếu sáng những vách đá. Lúc đó tôi nghĩ nếu tôi không tới được đó thì chắc phải có bàn tay của ma quỉ nhúng vào.
Thực tế tôi bơi không giỏi, lúc ở nhà tôi không tập vì sông Essen không đủ sâu. Nhưng nếu dùng hai tay bám vào cột buồm và luôn luôn dùng chân đạp nước, chắc tôi sẽ bơi được về phía trước. Công việc khá vất vả và chậm chạp đáng sợ, nhưng sau khi vùng vẫy khoảng một giờ, tôi đã tới được chỗ những mũi đất nằm trong một vịnh nông, có cát.
Ở đây, biển phăng lặng, yên tĩnh và tôi cũng không nghe tiếng sóng vỗ. Mặt trăng chiếu sáng và tôi có ấn tượng chưa nhìn thấy một phong cảnh nào hoang vu và đáng buồn như thế bao giờ, nhưng trước mặt tôi là một bãi biển cứng và khô. Khi nước chỉ còn nông tới mức tôi có thể bỏ cột buồm và đi bộ vào bờ, trong lúc bối rối hạnh phúc đó tôi không thể nói gì hơn giữa sự mệt mỏi và lòng biết ơn đã được cứu thoát. Trong đời, tôi luôn luôn phải cảm ơn Chúa của mình nhưng chưa bao giờ có lý do rõ ràng như lúc này.
Bắt Cóc Bắt Cóc - Robert Louis Stevenson Bắt Cóc