Biển lặng không làm nên những thủy thủ tài giỏi.

Tục ngữ châu Phi

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Kidnapped
Dịch giả: Đỗ Minh Đạo
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Hiep Manh Nguyen
Số chương: 31
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 410 / 19
Cập nhật: 2019-12-06 08:59:50 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4 - Tôi Mắc Vào Một Nguy Cơ Lớn Trong Ngôi Nhà Họ Shaws
ột ngày bắt đầu xấu như vậy lại kết thúc khá tốt. Bữa trưa có cháo bột mạch nguội và bữa tối có xúp nóng. Rõ ràng ông bác tôi sống bằng bột lúa mạch và bia loãng. Ông ta rất ít khi nói với tôi, và cũng như trước đây, sau một hồi lâu im lặng, lại bật ra một câu hỏi gì đó như đạn bắn khỏi súng ấy. Nhưng nếu tôi muốn bàn về tương lai của mình thì ông ấy gạt phắt đi.
Trong căn phòng cạnh bếp mà ông ấy cho phép tôi ngủ tại đó, tôi tìm thấy rất nhiều sách tiếng La-tinh và tiếng Anh và tôi đã đọc suốt buổi chiều. Trong hoàn cảnh đó, thời gian trôi nhanh và thoải mái một cách đáng ngạc nhiên và tôi hầu như đã dàn xếp được việc ở lại trong ngôi nhà họ Shaws. Chỉ khi tôi nhìn vào ông bác và ánh mắt chúng tôi nhìn nhau ngượng ngùng, nỗi e ngại mới trỗi dậy.
Một sự phát hiện khác của tôi làm tăng thêm sự nghi ngờ: đó là những chữ ghi ở tờ bìa một quyển sách của Patrik Walker. Không nghi ngờ gì đó là chữ của cha tôi. Câu ghi thế này: “Tặng Ebenezer của tôi nhân ngày sinh nhật lần thứ năm”. Điều làm tôi suy nghĩ là: vì cha tôi nhỏ tuổi hơn, hoặc cha tôi nhầm lẫn hoặc chưa đầy năm tuổi mà cha tôi đã viết được rõ ràng gần như người lớn vậy.
Tôi tìm cách không nghĩ đến điều đó. Nhưng mặc dù mở xem rất nhiều sách trên giá: sách lịch sử, thơ, truyện ngắn, những dòng chữ của cha tôi vẫn luôn hiện ra. Cuối cùng khi quay lại bếp nơi ông Ebenezer đẩy cho tôi một tô cháo bột lúa mạch và bia loãng, tôi hỏi ngay là có phải cha tôi biết đọc và viết rất sớm phải không.
— Alexander ấy à? – Không! – Câu trả lời lập tức là như vậy – Tao là đứa trẻ thông minh hơn ông ấy nhiều và cùng học với ông ấy.
Câu đó càng làm tôi rối trí. Tôi chợt nảy ra ý và hỏi có phải ông ta và cha tôi là anh em sinh đôi không.
Ông bác Ebenezer vụt đứng dậy, mạnh tới mức làm cái thìa bằng sừng rơi xuống đất:
— Tại sao mày nghĩ vậy? Mày hỏi vậy để làm gì? – Ông ta hét lên và nắm lấy cổ áo tôi, nhìn tôi chằm chằm, hai con mắt như mắt chim của ông ta ánh lên nét giận dữ.
— Ngài muốn nói gì vậy? – Tôi bình tĩnh hỏi, vì tôi to khỏe hơn ông ta nhiều và tôi cũng không dễ sợ hãi – Hãy bỏ áo tôi ra! Ông đối xử tốt quá nhỉ!
Rõ ràng ông bác tôi phải cố gắng hết sức để tự kiềm chế mình.
— Trời ơi, David! – Ông ta kêu lên – Mày không nên nói với tao về bố mày – Đó là một lỗi lầm. Ông ta là em độc nhất của tao.
Ông ta ngồi yên lặng một lúc lâu, nhìn trân trân vào cái đĩa và tôi thấy ông bác tôi đang run.
Việc ông ta nắm cổ áo tôi và bỗng nhiên lại nói là rất yêu người cha quá cố của tôi đã vượt quá khả năng tự chủ của tôi, nó làm tôi vừa sợ vừa tự tin. Một mặt tôi nghĩ có lẽ ông bác mình bị bệnh tâm thần và có thể rất nguy hiểm, mặt khác một câu chuyện hấp dẫn về một cậu bé nghèo bị người họ hàng quá độc ác cướp mất quyền thừa kế và của cải đã hình thành trong đầu tôi, mặc dù tôi không muốn và tìm cách gạt nó đi. Vì sao ông bác tôi lại diễn một vở bi hài kịch với một đứa cháu, được vào nhà gần như một kẻ ăn xin, nếu trong lòng ông không có nguyên cớ để sợ nó?
Với kết luận đó, tuy không muốn coi là thật nhưng lại luôn nghĩ trong đầu, tôi bắt đầu quan sát ông ta bằng đôi mắt bí hiểm. Chúng tôi như mèo và chuột, ngồi cùng bàn, kẻ nọ ngầm quan sát người kia. Ông ta hình như không có gì đê nói nữa, cả điều tốt lẫn điều xấu, nhưng mà ông ta suy nghĩ ngầm và chúng tôi càng ngồi lâu, càng quan sát kỹ hơn, tôi càng thấy rõ là ông ta có cái gì đó chống lại tôi.
Sau khi dọn bát đĩa đi, cũng như buổi sáng, ông ta lấy tẩu, kéo ghế đến gần lò sưởi và ngồi quay lưng về phía tôi hút thuốc. Mãi một lúc lâu ông ta mới bắt đầu nói:
— Davie à, tao đã suy nghĩ. – Ông ta dừng lại một chút rồi nhắc lại câu vừa nói – Có một món tiền nhỏ tao hứa với bố mày là sẽ cho mày từ khi mày chưa sinh ra – Ông ta ngắt lời – Không có tính pháp lý, mày hiểu chứ? Mà chỉ là khi đàn ông ngồi uống rượu hứa với nhau. Và tao đã giữ số tiền đó cho mày. Với tao, việc này không dễ dàng gì nhưng đã hứa là phải làm. Trong những năm qua, lãi mẹ đẻ lãi con, bây giờ có tất cả là… – Ông ta dừng lại một chút rồi ấp úng tiếp – đúng bốn mươi bảng.
Khi nói những lời cuối cùng này, ông ta nhìn nghiêng qua vai tôi và giải thích gần như hét lên:
— Tất nhiên là bảng Scot.
Vì một bảng Scot bằng một Si-linh Anh nên sự khác nhau được ông ta nhấn mạnh trong câu cuối là rất lớn. Tôi hiểu ngay là toàn bộ câu chuyện bịa đặt này được tạo ra nhằm một mục đích nào đó và tôi sốt ruột muốn tìm hiểu nó. Khi trả lời tôi cũng không muốn che dấu sự khôi hài của mình.
— Ngài nghĩ lại đi, chắc đó là bảng Anh đấy.
— Tất nhiên, tao cũng nói vậy – Bác tôi tiếp – Bảng Anh, tất nhiên, và nếu mày ra ngoài cửa xem thời tiết một lát, tao sẽ tìm nó và gọi mày vào.
Trong khi nghe theo lời yêu cầu đó tôi cười mỉa mai trong đầu rằng ông ta nghĩ dễ đánh lừa tôi đến thế.
Đó là một đêm tối trời, chỉ có vài ngôi sao mãi dưới chân trời. Đứng ngoài cửa, tôi nghe ở xa gió thối ù ù qua đồi, tương như một cơn giông đang tới. Lúc đó tôi vẫn hoàn toàn chưa biết tất ca những cái này có ý nghĩa như thế nào.
Khi ông bác Ebenezer gọi tôi vào, ông ấy đưa cho tôi ba mươi bảy đồng tiền vàng, số còn lại gồm những đồng xu vàng và bạc như hôm mà ông ta giữ trong tay. Nhưng lúc này ông ta không có gan nữa và dứt rất nhanh số xu này vào túi.
— Mày thấy không – Ông ta nói – Đó là một bài học cho mày. Tao có những đặc tính riêng rất ngại ngùng trước người lạ, nhưng tao giữ lời hứa và tao đã chứng tỏ cho mày thấy.
Vì cho bác tôi là loại bần tiện nên trước sự rộng rãi không ngờ này, tôi đã không nói lên lời, không tìm thấy lời cảm ơn ông ta.
Ông ta nói bình tĩnh:
— Đừng nghĩ đến, tao không muốn được cảm ơn đâu. Tao chỉ thực hiện trách nhiệm của mình. Tất nhiên tao không cho rằng ai cũng làm được như vậy, nhưng tao làm vì bản thân tao. Mặc dù trong chuyện tiền bạc tao rất chặt chẽ, nhưng vẫn rất sung sướng vì đã trao cho con trai của em mình chút ít, và tao cũng rất mừng là bây giờ chúng ta đã hiểu nhau như người ruột thịt cần có.
Tôi trả lời ông với sự lễ độ hết sức mình nhưng lại suy nghĩ cái gì sẽ tới tiếp theo đây và làm sao ông ta có thể rời xa đống tiền vàng này nhỉ? Cái nguyên cớ mà ông ta đưa ra thì ngay cả một đứa con nít cũng không tin được.
Bây giờ ông ta lại nhìn tôi từ phía bên và nói:
— Davie, mày cũng biết lá lành đùm lá rách mà.
Tôi sẵn sàng tuyên bố cảm ơn ông bằng mọi cách nhưng lại đang chờ đợi những phỏng đoán kỳ quái.
Cuối cùng khi ông ta bình tĩnh lại và bắt đầu nói – lúc đó tôi cảm thấy ông ta nói hoàn toàn đúng đắn, chỉ là để thông báo cho tôi biết ông đã già và lẩm cẩm, hy vọng tôi sẽ giúp ông ta trông coi nhà cửa ruộng vườn. Tôi nói tôi sẵn sàng giúp đỡ ông ta.
— Được rồi, mày có thể bắt đầu ngay bây giờ – Ông ta nói và lấy từ trong túi ra một chùm chìa khóa hoen rỉ.
— Đây là chìa khóa lên cầu thang của tháp bên kia ngôi nhà. Người ta chỉ vào được đó từ phía ngoài vì một phần ngôi nhà chưa xây xong. Hãy leo lên cầu thang và mang cái hòm ở trên đó về đây cho tao, trong đó có những tài liệu quan trọng.
— Thưa ngài, tôi có được đem theo nến không?
— Không, ông ta đáp một cách ranh mãnh – Mày đã biết tao không thắp sáng trong nhà.
— Được, thưa ngài – Tôi trả lời – Cầu thang tốt chứ?
— Cực tốt – Ông ta nói, và khi tôi định đi còn gọi theo – Đi sát vào tường vì không có lan can, còn bậc lên xuống thì chắc chắn.
Tôi đi ra ngoài đêm tối. Gió vẫn đập ở phía xa, mặc dù ở đây không có gió thổi. Hình như tôi thấy trời tối hơn trước đây. Tôi lần theo tường rào đi lối cổng lên tháp ở cánh phía bên kia ngôi nhà.
Khi tôi cho chìa khóa vào ổ và định vặn thì một tia chớp như tia lửa cháy rực làm sáng cả bầu trời mặc dù không có một cơn gió hoặc một tiếng sấm. Lần đó trời lại tối đen. Tôi phải dùng tay che mắt khi bước vào tháp vì vẫn còn bị chói bởi tia chớp. Bên trong tối đến mức phải nín thở. Tôi sờ mó bằng tay và chân, cuối cùng tìm thấy tường và bước lên bậc thang thứ nhất bằng đầu ngón chân. Tôi nhận ra tường bằng đá của tháp cũng như cầu thang khá nhỏ và dốc rất trơn và chắc chắn. Theo sự báo trước của ông bác, tôi nép sát tường và dò dẫm trong bóng tối lần lần lên phía trên trong lúc tim muốn nhảy ra ngoài.
Ngôi nhà họ Shaws có năm lầu, không kể lầu mái. Khi leo lên cao, tôi cảm thấy không khí đỡ nặng nề hơn và trời sáng ra một chút. Tôi ngạc nhiên không biết sự thay đổi này do đâu, mãi đến khi một tia chớp thứ hai lóe lên rồi lại tắt ngay.
Nếu tôi không hét lên thì chỉ vì cổ họng tôi bị tắc vì sợ mà thôi. Còn tôi không bị rơi xuống thì công của tôi thì ít mà của trời thì nhiều. Ánh sáng chớp không chỉ xuyên qua bức tường tháp đầy lỗ thủng từ mọi phía, tựa như tôi đang trèo lên một giàn giáo, mà còn cho tôi nhận ra cái bậc thang không dài như nhau và từ chỗ tôi đang đứng chỉ cách khoảng không chừng 2 zoll2 nữa mà thôi.
Thế đấy cầu thang “cực tốt” là như vậy. Tôi nghĩ lại và trong tôi xuất hiện một cái gì như là lòng dũng cảm hoặc sự tuyệt vọng. Ông bác sai tôi lên đây chắc chắn để đẩy tôi vào chỗ chết. Tôi quyết định làm rõ ràng hoàn toàn ý đồ của ông ta và ngăn chặn nó. Vì vậy tôi quỳ xuống đầu gối mà bò thận trọng, xem xét kỹ từng bước như một con ốc. Sau tia chớp mọi vật hình như tối gấp đôi. Và đó chưa phải là tất cả. Trong tai tôi bây giờ vang lên tiếng vỗ cánh của đàn dơi trên đỉnh tháp. Đàn súc vật đáng sợ này vây quanh tôi, bay sát người làm tôi vô cùng sợ hãi.
Đáng lẽ trước đây tôi phải bổ sung là cái tháp này hình vuông, ở các góc, các bậc thang làm bằng những cục đá to hơn, hình dáng hơi khác để nối tiếp với bậc sau đó. Bây giờ tôi đến một góc ngoặt như vậy. Bỗng nhiên tay tôi quờ vào khoảng không. Cầu thang chấm dứt ở đây. Bắt một người trèo lên cầu thang này trong đêm tối cũng có nghĩa là đưa anh ta đến cái chết chắc chắn. Và cả tôi nữa, may nhờ có tia chớp và sự thận trọng nên thoát chết. Nghĩ đến cái chiều cao đáng lẽ tôi đã rơi xuống, mồ hôi tôi đổ ra ướt đẫm, chân tay tôi tê cứng. Nhưng bây giờ tôi đã biết điều cần biết. Ngay sau khi bớt xúc động, tôi thận trọng quay xuống, lòng đầy căm giận.
Khi tôi xuống được khoảng nửa đường, bỗng nhiên giông tố nổi lên, gió đập vào tường ào ào. Sau một lúc yên lặng, mưa bắt đầu rơi và khi tôi đến được những bậc cuối cùng, nước đã chảy thành dòng lớn. Tôi đi qua giông tố. Cánh cửa vào bếp trước đây ít lâu tôi đã đóng lại thì bây giờ đã mở ra và tôi tin là đã nhìn thấy một thân hình ở trong mưa, không động đậy và đang nghe ngóng gì đó.
Một tia chớp đã làm tôi nhận ra ông bác ở đúng chỗ tôi đoán. Ngay sau đó là một tiếng sấm vang trời. Liệu bấy giờ ông bác tôi có cho rằng tiếng ầm vừa rồi có liên quan đến cú té của tôi hay ông ta coi đó là tiếng thét của trời vạch mặt âm mưu giết người của ông ta. Muốn thế nào cũng được. Có điều chắc chắn là ông ta hoảng sợ quá, chạy vội vào trong nhà và để cửa mở.
Tôi bám theo ông ta, chạy thật nhẹ nhàng. Ông ta không nghe thấy, tôi vào bếp và bây giờ đang quan sát ông ta.
Thời gian đủ để ông ta đi tới tủ ở góc phòng và lấy ra một chai to. Bây giờ ông ta ngồi bên bàn, quay lưng lại phía tôi. Từng lúc, từng lúc ông ta bị một chứng như là co giật, thở dài rất to và đưa chai lên môi, đổ những ngụm lớn cồn tinh khiết vào miệng.
Tôi tiến đến sát lưng ông ta, dừng lại một chút và đột ngột dùng hai tay nắm chặt vai ông ta.
— Này, ông! – Tôi hét to.
Ông bác tôi hét lên một tiếng kêu nghẹt thở như tiếng kêu của con cừu. ông ta chới với tay trong không khí và co người lại như một xác chết.
Lúc đó tôi rất sợ nhưng tôi phải tận dụng cơ hội này để khảo sát xung quanh, để mặc ông ta nằm dưới đất.
Tôi quan sát rát nhanh. Chùm chìa khóa treo ở cánh tủ. Và trước khi ông bác tôi tỉnh lại, có thể nghĩ đến những điều độc ác khác, trước hết tôi phải lấy ngay khẩu súng.
Trong tủ có một số chai, trong đó có một số chai thuốc. Hóa đơn hàng chồng và các loại giấy tờ khác nằm lộn xộn khắp nơi, nếu có thời gian chắc tôi sẽ muốn xem lắm, ngoài ra còn có một ít đồ vật cũ mà tôi không biết dùng để làm gì.
Tôi lục nhiều hòm khác nhau. Hòm thứ nhất là nơi chứa bột lúa mạch, hòm thứ hai có một số túi tiền và giấy tờ cuộn thành bó. Trong hòm thứ ba, giữa các đồ vật linh tinh, chủ yếu là quần áo, tôi tìm thây một con dao găm hoen rỉ không rãnh trông khá nguy hiểm. Tôi giấu nó trong áo vét của mình và quay sang bác tôi.
Ông ta vẫn nằm nguyên chỗ đó, một đầu gối nhô lên, một tay duỗi ra. Mặt ông ta xanh kỳ lạ và hình như không thở nữa. Tôi tin ông ta đã chết và nỗi sợ hãi trào lên. Tôi đi lấy nước đổ vào mặt ông ta. Ông ta dần dần sống lại, môi động đậy, mi mắt chớp chớp. Cuối cùng ông ta mở mắt nhìn, khi thấy tôi mắt ông ta ánh lên vẻ sợ hãi rõ rệt.
— Tỉnh lại đi. Và đứng dậy! – Tôi nói.
— Mày sống à? – Ông ta thì thào nghe như tiếng nấc.
— Đúng, tôi sống. Nhưng đó không phải là công của ngài đâu.
Ông ta hít mạnh không khí.
— Cái chai nhỏ màu xanh – Ông ta thở hổn hển – Trong tủ… cái chai nhỏ màu xanh!
Hơi thở yếu dần.
Tôi chạy tới tủ và tìm được một chai thuốc màu xanh. Trên một băng giấy có thể đọc được cách hướng dẫn sử dụng. Nhanh đến mức có thể, tôi đã cho ông ta uống vài giọt trong đó.
— Do bị đau – Ông ta nói, đã tỉnh lại một chút – Tao bị đau tim, Davie ạ, tim mà.
Tôi dựng ông ta dậy và giúp ông ta ngồi vào một chiếc ghế. Điều kỳ lạ là tôi cảm thấy tội cho ông lão bệnh tật này, còn ngoài ra thì vô cùng căm giận ông ta.
Trước hết tôi soát lại những điểm sẽ tuyên bố.
Tại sao ông ta nói dối tôi mọi thứ? Tại sao ông ta sợ tôi đi khỏi? Tại sao câu hỏi có phải ông ta và cha tôi là anh em sinh đôi không lại làm ông ta nổi khùng như vây? Có phải đại loại vì đó là sự thật? Tại sao ông ta trao tiền cho tôi, số tiền mà tôi hoàn toàn không đòi hỏi và cuối cùng tôi hỏi tại sao ông ta tìm cách giết tôi?
Ông ta yên lặng nghe tất cả. Nhưng bằng một giọng đứt quãng, yêu cầu cho ông được lên giường.
— Sáng sớm mai tao sẽ trả lời. Chắc chắn là như vậy.
Vì ông ta quá yếu nên tôi không còn cách gì khác hơn là đồng ý. Bây giờ tôi nhốt ông ta trong một buồng ngủ và cho chìa khóa cửa vào túi tôi. Sau đó tôi trở lại bếp, nhóm lửa trong lò cháy sáng rực như chưa bao giờ có từ nhiều năm nay. Tôi quấn vào người một vài cái chăn, nằm trên một cái rương và ngủ liền.
Bắt Cóc Bắt Cóc - Robert Louis Stevenson Bắt Cóc